CHẾ PHẨM SINH HỌC SUNGWON – VFARM, GIẢI PHÁP TOÀN DIỆN CHO CÂY TRỒNG VẬT NUÔI VÀ MÔI TRƯỜNG
Sáng 6/12/2025, Hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao Địa sinh thái VFARM và đã phối hợp cùng Công ty SungWon Hàn Quốc tổ chức Hội thảo khoa học về công nghệ sinh học và ra mắt chế phẩm sinh học Sungwon ở xã Liên Minh, thành phố Hà Nội.

Toàn cảnh Hội thảo thảo khoa học về công nghệ sinh học và ra mắt chế phẩm sinh học Sungwon (Hàn Quốc)
Các đại biểu tham dự:
- Đại diện cấp trung ương là ông Đặng Văn Cường, Cục chất lượng, chế biến và Phát triển thị trường – Bộ Nông nghiệp và Môi Trường;
- Đại diện thành phố Hà Nội là ông Trần Sỹ Tiến, Phó chi cục trưởng chi cục trồng trọt, bảo vệ thực vật, chăn nuôi, thú ý và thủy sản;
- Đại diện chính quyền địa phương là ông Nguyễn Quý Mạnh, chủ tịch xã Liên Minh;
- Đại diện cho Công ty SungWon Hàn Quốc là Ông Kwon Yu, Tổng giám đốc.
- Đại điện cho Hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao Địa sinh Thái VFARM là ông Hy Thành Trung Chủ tịch Hội đồng quản trị – Giám đốc và Bà Đỗ Thị Phương Hiền người đồng sáng lập.
- Các Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ, Thạc sĩ chuyên ngành nông nghiệp, thủy sản, công nghệ sinh hóa và môi trường của các Viện thuộc chuyên ngành nông nghiệp, các trường Đại học Thủy Lợi, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Trường Cao đẳng kinh tế kỹ thuật và Thủy sản Từ Sơn – Bắc Ninh….
- Cùng các khách hàng rải khắp 3 miền Nam, Trung, Bắc cũng về tham dự Hội thảo.
Hội thảo là sự kiện đánh dấu bước tiến mới trong hợp tác nghiên cứu, sản xuất và phát triển lĩnh vực công nghệ sinh học giữa một Hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao trong nước (VFARM) và một Công ty hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp của nước ngoài (SungWon Hàn Quốc).

Tiến sĩ Nguyễn Thị Hồng Hạnh – Giảng viên cao cấp của Học viện Nông nghiệp Việt Nam phát biểu khai mạc và điều hành Hội thảo
Phát biểu khai mạc Hội Thảo. Tiến sĩ Hạnh cho biết, hiện nay công nghệ sinh học, trong đó đặc biệt là nghiên cứu sản xuất các chế phẩm vi sinh đang rất được quan tâm, vì đây là nguồn cung cấp dinh dưỡng, chăm sóc, bảo vệ cây trồng, thân thiện với môi trường, bên cạnh phân hữu cơ. Ngoài ra các chế phẩm sinh học còn có khả năng cải tạo, giải độc đất; giải độc khí, làm sạch hồ ao, sông suối; phân hủy rác thải; cải thiện hệ sinh vật đất, thúc đẩy phân hủy chất hữu cơ, làm đệm lót sinh học hay xử lý môi trường, khử mùi hôi… Như vậy ứng dụng chế phẩm vi sinh rất phong phú, đa dạng, không chỉ hữu ích cho bà con nông dân mà còn giúp cải thiện môi trường sống, đặc biệt là giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước, đất đai và không khí.

Một số chế phẩm sinh học được trưng bày tại Hội thảo
Phát biểu chào mừng Hội thảo, đại diện của cho Công ty SungWon Hàn Quốc là ông Kwon Yu, Tổng giám đốc cho biết, trong những năm qua, mối quan hệ hợp tác giữa Hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao Địa sinh thái VFARM và đã phối hợp cùng Công ty SungWon Hàn Quốc đã có nhiều bước phát triển vượt bậc. Từ những cuộc trao đổi học thuật, hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đến các chương trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, hai bên đã cùng nhau xây dựng nền tảng cho hệ sinh thái tuyệt vời dựa trên lợi thế bản địa, nguồn dược liệu quý hiếm, đa dạng sinh học phong phú và tinh thần phát triển công nghệ xanh.

Ông Kwon Yu, Tổng giám đốc Công ty SungWon Hàn Quốc đánh giá cao sự hợp tác thân thiện của Hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao Địa sinh thái VFARM
Cũng trong Hội thảo này, ông Choi Jin Young – Giám đốc truyền thông Công ty SungWon Hàn Quốc đã giới thiệu về chế phẩm sinh học SungWon Hàn Quốc và khả năng ứng dụng trong phát triển nông nghiệp xanh và xử lý môi trường ở Việt Nam; cơ sở pháp lý và công nghệ sản xuất chế phẩm sinh học SungWon Hàn Quốc; một số kết quả ban đầu khi sử dụng Chế phẩm sinh học SungWon Hàn Quốc trong việc xử lý môi trường tại xã Liên Minh, thành phố Hà Nội. Ông nhấn mạnh: Hội thảo lần này tiếp tục là cầu nối thúc đẩy chương trình nghiên cứu sản xuất chế phẩm sinh học tiên tiến, hỗ trợ ươm tạo cho Hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao Địa sinh thái VFARM nuôi trồng và thương mại hoá các giải pháp công nghệ sinh học hiện đại, góp phần nâng cao vị thế của Hợp tác xã nói riêng, xã Liên Minh – thành phố Hà Nội nói chung trên bản đồ khoa học công nghệ của Việt Nam và thế giới. Hai nước Việt Nam và Hàn Quốc chúng ta có những đặc điểm tương đồng về địa lý, khí hậu, môi trường và thậm chí cả nền văn hóa, do vậy sự hợp tác giữa SungWon và VFARM ắt hẳn tạo nên “hoa thơm trái ngọt” và thực tế những năm qua đã diễn ra tốt đẹp như vậy.

Ông Choi Jin Young – Giám đốc truyền thông Công ty SungWon Hàn Quốc công bố ra mắt chính thức chế phẩm vi sinh Sungwon DX – Hàn Quốc tại Việt Nam
Sau lời công bố ra mắt chính thức chế phẩm sinh học, SungWon và VFARM đã chính thức ký kết hợp đồng hợp tác toàn diện sản xuất và ứng dụng sản phẩm này cho Hợp tác xã, cho toàn xã Liên Minh và tiến tới mở rộng phạm vi thành phố Hà Nội, trong nước và xuất khẩu.

Ông Kwon Yu, Tổng giám đốc Công ty SungWon Hàn Quốc và ông Hy Thành Trung – Chủ tịch Hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao Địa sinh Thái VFARM ký kết hợp đồng hợp tác toàn diện
Cũng tại Hội thảo này, ông Hy Thành Trung đại diện Hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao Địa sinh Thái VFARM đã ký kết hợp đồng đại lý với bà Phan Thị Đoan Trang. Những đại lý như của bà Trang sẽ là cánh tay nối dài cho VFARM trong hành trình chinh phục thị trường chế phẩm sinh học trong nước.

Ông Hy Thành Trung và bà Phan Thị Đoan Trang ký kết hợp đồng đại lý
Tại Hội thảo, năm tham luận đã được trình bày, đó là những kinh nghiệm đúc rút từ trải nghiệm thực tiễn, những kiến thức chứa đựng hàm lượng khoa học cao. Cụ thể, các tham luận của lãnh đạo xã Liên Minh và các hộ nông dân ở đây đã khẳng định hiệu quả của chế phẩm sinh học trong nuôi trồng cây ăn quả, các loại rau và nhất là sự cải thiện môi trường rõ rệt, trong đó đặc biệt đánh giá cao hiệu quả xử lý mùi kênh sông Hát bằng chế phẩm vi sinh SungWon DX, bày tỏ nguyện vọng được sử dụng sản phẩm này thường xuyên. Sau đó là phần trình bày của PGS.TS. Đặng Thị Thanh Lê – giảng viên bộ môn kỹ thuật hóa học – Đại Học Thủy Lợi về ý nghĩa của việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa khoa hóa và môi trường; ông Trương Quang Anh – Phó giám đốc Trung tâm khảo kiểm nghiệm phân bón quốc gia chia sẻ về chế phẩm vi sinh và ông Hy Thành Trung trình bày quy trình sản xuất chế phẩm vi sinh SungWon của Hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao Địa sinh thái VFARM.
Kế tiếp là phần hỏi đáp diễn ra sôi nổi với những câu hỏi thú vị liên quan đến bao bì sản phẩm, cách vận chuyển chế phẩm sinh học lên vùng cao và những lợi thế của sự hợp tác giữa doanh nghiệp hai nước Hàn Quốc – Việt Nam để tối ưu hóa chất lượng sản phẩm và tạo nên một giá thành hợp lý. Những vấn đề pháp lý và quy định của Việt Nam khi sử dụng Chế phẩm sinh học SungWon Hàn Quốc cũng được thảo luận tại đây. Những câu hỏi – đáp giữa các nhà khoa học Việt Nam, các chuyên gia Hàn Quốc và những người quan tâm đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về giá trị cốt lõi của chế phẩm sinh học, tính ứng dụng của sản phẩm này lên thực vật, cây dược liệu, đất đai, môi trường… đã tạo nên không khí sinh hoạt học thuật thật sự.
Các chuyên gia Hàn Quốc và các nhà khoa học Việt Nam trả lời câu hỏi của người quan tâm đến chế phẩm sinh học
Nhân dịp này, những người tham gia Hội thảo cũng có dịp tham quan, khảo sát các vườn cây ăn quả tuyệt vời tại đây – nơi mà ứng dụng chế phẩm sinh học đạt hiệu quả rõ nét, chân thật nhất.
Hội thảo mở ra một bước tiến mới cho hợp tác khoa học không chỉ giữa SungWon và VFARM mà còn là tiền đề cho các đơn vị sản xuất kinh doanh nông nghiệp, tạo nhiều cơ hội kết nối trong nghiên cứu, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng hệ sinh thái kinh tế sinh học quốc tế gắn với thành phố Hà Nội. Đồng thời phát huy nguồn tài nguyên thực vật và các loài cây dược liệu, chẳng hạn sâm bố chính, hồng sâm Hàn Quốc, từng bước khẳng định vị thế ngành công nghệ sinh học như một trụ cột thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, bền vững cho Thủ đô nước ta.
Dưới đây là một số hình ảnh khác của Hội thảo.













Thực hiện: Lê Ngọc Thành Vinh – Phó ban Công nghệ, Viện Ứng dụng Công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam (VITAD – AGRI)
Hội thảo “Trao đổi kỹ thuật về Phương pháp định giá tín chỉ các-bon rừng”
13h30 ngày 29/08/2025, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm – Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức Hội thảo “Trao đổi kỹ thuật về Phương pháp định giá tín chỉ các-bon rừng”, hình thức Trực tuyến qua nền tảng Zoom, với sự điều hành của đồng chí Phạm Hồng Lượng – Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm.
Cuộc Hội thảo được thực hiện bởi các chuyên gia về “Tín chỉ Carbon” của Bộ TN&MT cùng các nhà khoa học, các đại diện doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các sản phẩm lâm nghiệp, nông nghiệp trong và ngoài nước.
Mở đầu cuộc Hội thảo là bài luận của TS Phạm Thu Thủy, chuyên gia nghiên cứu Lâm nghiệp và môi trường. Bà đã giới thiệu các khái niệm cơ bản về “Tín chỉ Carbon”, “Định giá Carbon” hay “Xác định giá sàn và giá trần” của việc định giá này.
TS Phạm Thu Thủy giới thiệu các khái niệm cơ bản về “Tín chỉ Carbon”, “Định giá Carbon” hay “Xác định giá sàn và giá trần”
Tín chỉ carbon là gì?
Tín chỉ carbon (carbon credit) là chứng nhận quyền phát thải khí CO2 hoặc khí nhà kính khác quy đổi sang CO2. Trong đó, bên bán là bên có khả năng giảm hoặc tăng hấp thụ carbon so với mức tham chiếu. Mỗi tín chỉ carbon tương ứng với một tấn khí CO2 hoặc lượng khí nhà kính quy đổi tương đương sang CO2 đã được ngăn chặn hoặc loại bỏ. Lượng CO2 mà cây cối mới trồng có thể hấp thụ so với kịch bản này sẽ được coi là lượng tăng hấp thụ carbon so với mức tham chiếu. Phần tăng này được bao nhiêu tấn thì quy đổi ra bao nhiêu “Tín chỉ Carbon”.

Đồ họa: Dỹ Tùng từ Net Zero.vnexpress.net
Vì sao có tín chỉ carbon?
“Tín chỉ carbon” bắt nguồn từ Nghị định thư Kyoto (Kyoto Protocol) năm 1997, một hiệp định quốc tế nhằm kiểm soát và giảm thiểu sự phát thải khí nhà kính trên toàn cầu. Theo đó, các quốc gia tham gia cam kết sẽ giảm lượng phát thải khí nhà kính, đồng thời được phép trao đổi quyền phát thải carbon với nhau trên thị trường quốc tế thông qua tín chỉ carbon. Từ đó, thị trường carbon toàn cầu, nơi các công ty hoặc quốc gia phát thải nhiều hơn mức quy định có thể mua tín chỉ từ các tổ chức, dự án hoặc quốc gia có lượng phát thải thấp hơn hoặc hấp thụ carbon như một trong các cách thức để đạt được các mục tiêu giảm phát thải.
Cách thức hoạt động của tín chỉ carbon:
– Doanh nghiệp phát thải cao:
Doanh nghiệp có lượng phát thải vượt quá giới hạn được phép sẽ cần mua tín chỉ carbon từ thị trường để bù đắp lượng khí thải này.
– Dự án giảm phát thải:
Các doanh nghiệp, tổ chức hoặc cá nhân đầu tư vào các dự án giảm phát thải hoặc loại bỏ khí nhà kính, ví dụ như trồng rừng, sử dụng năng lượng tái tạo, sẽ nhận được tín chỉ carbon.
– Thị trường giao dịch:
Tín chỉ carbon có thể được giao dịch mua bán trên thị trường, giúp cân bằng lượng khí thải giữa các bên.
Mục đích và ý nghĩa:
– Giảm biến đổi khí hậu:
Tín chỉ carbon là một công cụ quan trọng trong cơ chế thị trường để giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.
– Khuyến khích phát triển xanh:
Tạo động lực tài chính cho các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ xanh, năng lượng sạch và các dự án thân thiện với môi trường.
– Đáp ứng quy định pháp lý:
Các doanh nghiệp có thể sử dụng tín chỉ carbon để tuân thủ các quy định quốc gia và quốc tế về giảm phát thải.
TS Thủy cũng đã giới thiệu ứng dụng khoa học công nghệ và AI để định giá, dự báo carbon rừng và rừng đô thị sử dụng trí tuệ nhân tạo kết hợp ảnh vệ tinh và dữ liệu diễn biến trong lịch sử + dự báo tương lai (chẳng hạn giá, nhu cầu thị trường, sở thích người mua, tiềm năng carbon rừng…).

TS Phạm Thu Thủy giới thiệu về ứng dụng các tiến bộ của khoa học công nghệ và AI trong định giá, dự báo carbon rừng
Sau giờ giải lao, đại diện các chuyên gia nghiên cứu các phương pháp định giá carbon rừng của Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm- Bộ TN&MT đã công bố “Dự thảo phương pháp định giá các-bon rừng”, cụ thể là hai phương pháp chính: Phương pháp chi phí (bao gồm chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp” và phương pháp so sánh (dựa vào các tham số tham chiếu cùng loại).



Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm- Bộ TN&MT đã công bố “Dự thảo phương pháp định giá các-bon rừng”
Tiếp theo chương trình Hội thảo, các thành viên tham dự đã tích cực tham gia thảo luận về khái niệm và ứng “Tín chỉ các-bon”, tranh luận về sự phù hợp tại Việt Nam và phản biện về các phương pháp định giá các-bon rừng trong nước cũng như tiến trình hòa nhập với thế giới. Nhiều câu hỏi tranh biện được Cục Lâm nghiệp và Thủy Kiểm lâm – Bộ TN&MT, TS Phạm Thu Thủy trả lời đầy đủ, chi tiết. Nhiều phát biểu được ghi nhận như tham luận của ông Vũ Tấn Phương – Giám đốc VFCO (trực thuộc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam), bà Helen Trần – Giám đốc công ty xuất nhập khẩu sản phẩm gỗ nội thất (Australia)…

Ông Vũ Tấn Phương – Giám đốc VFCO (trực thuộc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam) phát biểu tại Hội thảo
Kết thúc Hội thảo, đồng chí Phạm Hồng Lượng cảm ơn các thành viên đã tham gia tích cực, đánh giá cuộc họp thành công tốt đẹp, mở ra một chương mới về ứng dụng “Tín chỉ Các-bon” tại Việt Nam, phù hợp với thế giới. Cuộc trao đổi kỹ thuật về Phương pháp định giá tín chỉ các-bon rừng đã giúp Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm – Bộ TN&MT vỡ ra nhiều điều và sẽ hoàn thiện “Dự thảo phương pháp định giá các-bon rừng” trình Bộ phê duyệt. Ông cũng mong các nhà khoa học và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các sản phẩm lâm nghiệp, nông nghiệp trong và ngoài nước sẽ cùng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm nói riêng, Bộ TN&MT nói chung cùng chung tay xây dựng các chiến lược phù hợp vì lợi ích kinh tế và bảo vệ môi trường cho nước ta cũng như toàn thế giới.
Thực hiện: Thành Vinh
Trái cây được mùa nhưng còn đó nỗi lo tiêu thụ, giá cả
Trái cây được mùa nhưng còn đó nỗi lo tiêu thụ, giá cả
Quý II/2022 là thời điểm nhiều loại cây trái khắp cả nước, đặc biệt là các tỉnh Nam Bộ bước vào vụ thu hoạch, nhưng việc tiêu thụ cùng với giá cả đang là vấn đề lớn.

Trái cây Nam Bộ sắp vào vụ thu hoạch nhưng khâu tiêu thụ và giá cả là vấn đề không dễ giải quyết
Đây cũng chính là lý do để Bộ NN-PTNT tổ chức Hội nghị trực tuyến “Thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ nông sản tại các tỉnh, thành Nam Bộ” vào ngày 8/5.
Trên cơ sở dự báo tiêu thụ sẽ gặp khó khăn do Trung Quốc tiếp tục duy trì chính sách “zero Covid”, các biện pháp phòng dịch của nước này làm chậm tiến độ xuất khẩu, gây ùn ứ tại cửa khẩu, ảnh hưởng đến tiêu thụ trong nước. Ngoài ra, năng lực chế biến trái cây trong nước còn hạn chế, chủ yếu xuất khẩu trái tươi, nếu gặp điều kiện khó khăn khi xuất khẩu, lúc đó việc tiêu thụ sẽ vô cùng khó khăn, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, ông Lê Thanh Tùng đưa ra những trở ngại trong việc tiêu thụ trái cây quý II/2022.
Cùng quan điểm với ông Lê Thanh Tùng, ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN-PTNT), cho biết trong 2 tháng qua, các cửa khẩu chính tại Quảng Ninh, Lào Cai đóng cửa do Trung Quốc phát hiện Covid-19 đã gây áp lực lớn đến xuất khẩu nông sản Việt Nam.
Chưa kể, những đợt phía Trung Quốc kiểm tra trực tuyến về công tác kiểm soát Covid-19 cho thấy nhiều doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam còn chủ quan, chưa tuân thủ quy định về phòng dịch khi đưa hàng sang nước bạn. Việc ách tắc trong xuất khẩu rau quả cũng nằm ở khâu kiểm tra Covid-19, không phải do kiểm dịch thực vật nên doanh nghiệp cần phải kiểm soát chặt quy trình sản xuất, tránh lây nhiễm chéo Covid-19 trên bao bì, sản phẩm, thành container…
Còn đối với thị trường EU, dù rau quả Việt Nam đang được hưởng lợi do ưu đãi thuế quan nên tăng trưởng tốt trong năm qua. Tuy nhiên trong thời gian gần đây phát sinh vấn đề EU tăng tần suất kiểm tra đối với thanh long và rau gia vị từ 10% lên 20% khiến lượng xuất khẩu sụt giảm.
Trước những khó khăn kể trên, ông Lê Thanh Tùng kiến nghị đẩy mạnh đánh giá cấp mã số vùng trồng cây ăn quả để tăng cường quản lý vùng trồng, nắm sát sản lượng, chất lượng từng loại quả; chỉ đạo rải vụ trái cây (thanh long, xoài, nhãn, chôm chôm, sầu riêng) linh hoạt phù hợp với tình hình tiêu thụ. Đồng thời, tiếp tục kết nối doanh nghiệp thu mua trái cây; phát triển mảng bảo quản và chế biến.
Về việc ách tắc ở cửa khẩu, ông Lê Thanh Hòa khuyến nghị các địa phương, doanh nghiệp theo dõi, cập nhật thông tin ở cửa khẩu để điều phối trái cây lên biên cho hợp lý.
Trước những ý kiến, giải pháp của các đại biểu đưa ra, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan đã đưa ra ý kiến chỉ đạo. Theo Tư lệnh ngành Nông nghiệp, các địa phương không nên “than vãn” mà cần tìm giải pháp để hướng đến sản xuất nông nghiệp bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông dân.
“Cần tổ chức lại sản xuất để thích ứng với những thay đổi của thị trường, đừng để khi cửa khẩu với Trung Quốc thông thì mọi việc lại quay về như cũ. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp vẫn còn tư duy nước đến chân mới nhảy, vẫn suy nghĩ Trung Quốc là thị trường dễ tính nên không chịu thay đổi để thích ứng. Cần nhìn vào cách ngành rau quả Thái Lan thích ứng với chính sách “zero Covid” của Trung Quốc nên xuất khẩu của họ ít bị ảnh hưởng. Họ tìm cách đáp ứng được quy định để kiểm soát Covid-19 trong chuỗi sản xuất trái cây trong khi Việt Nam chỉ có thể hy vọng đàm phán để Trung Quốc nới lỏng quy định”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan thẳng thẳn góp ý.
Cuối cùng Bộ trưởng Lê Minh Hoan chia sẻ quy luật thị trường không phải lúc nào cũng như ý muốn, vì thế các mô hình sản xuất nông nghiệp cần tiết kiệm chi phí, giúp tăng hiệu quả kinh doanh cần được lan tỏa, nhân rộng.
Được biết, theo ước tính của Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), tổng sản lượng cây ăn quả chính tại Nam Bộ trong quý II/2022 sẽ đạt khoảng 1,5 triệu tấn, cao hơn quý I khoảng 137.000 tấn do một số loại quả vào mùa như: thanh long, chuối, nhãn, chôm chôm, sầu riêng… Vì thế đây sẽ là một áp lực trong khâu tiêu thụ cũng như giá cả.
Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/trai-cay-duoc-mua-nhung-con-do-noi-lo-tieu-thu-gia-ca
Việt Nam tập trung xuất khẩu gạo ngon tới thị trường ASEAN
Việt Nam tập trung xuất khẩu gạo ngon tới thị trường ASEAN
Với dân số gần 700 triệu người, ASEAN là thị trường cực kì quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam.

ASEAN là thị trường lớn nhập khẩu gạo của Việt Nam
Dân số đông, có vị trí địa lý trong khu vực, cùng với những nét tương đồng về văn hóa, ASEAN là một thị trường cực kì quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam.
Trong số các nước nhập khẩu gạo của Việt Nam, Philippines là thị trường lớn nhất. Năm 2021, Philippines là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam với lượng nhập khẩu đạt 2,45 triệu tấn, đạt kim ngạch trên 1,25 tỷ USD, giá trung bình 509,7 USD/tấn, tăng 10,7% về lượng, tăng 18,5% về kim ngạch và tăng 7,1% về giá so với năm 2020. Philippines cũng chiếm 39,4% trong tổng lượng và chiếm 38% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Quý I/2022 tiếp tục ghi nhận kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam sang Philippines với 672.136 tấn, tương đương 311,08 triệu USD, giá trung bình 462,8 USD/tấn, tăng mạnh 63,3% về lượng, tăng 41,4% về kim ngạch, chiếm 44,7% trong tổng lượng và chiếm 42,6% trong tổng kim ngạch gạo xuất khẩu.
Ngoài Philippines, gạo Việt Nam còn được xuất khẩu sang các thị trường quan trọng khác trong ASEAN như: Malaysia, Singapore, Indonesia, Brunei. Trong đó, thị trường Malaysia tăng trưởng mạnh với số liệu tháng 1/2022 là 34.925 tấn, tương đương 16,07 triệu USD, tăng 163,4% về lượng và 156% về kim ngạch so với tháng 12/2021.
Hiện gạo xuất khẩu sang Philippines và các nước ASEAN khác chủ yếu là gạo trắng phẩm cấp thường, độ tấm từ 20-25%, chủ yếu cạnh tranh bằng giá. Về mặt chiến lược, ngành gạo của Việt Nam đang giảm dần sản xuất và xuất khẩu các loại gạo trắng thường, tăng tỉ trọng sản xuất lúa gạo chất lượng cao từ 35-40% lên 75-80% vào năm 2020.
Việc này giúp tăng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam lên rất nhanh trong những năm gần đây, đặc biệt từ sau năm 2020. Tuy nhiên, với sự chuyển dịch này, gạo Việt Nam lại gặp khó khăn do không thể cạnh tranh về giá với các nước chuyên sản xuất gạo giá rẻ như Myanmar, Pakistan và Ấn Độ.
Vì vậy, hiện cơ cấu gạo xuất khẩu của Việt Nam đang tiếp tục chuyển dịch theo hướng gia tăng các loại gạo thơm, gạo đặc sản, gạo japonica, gạo trắng phẩm cấp cao với giá bán và giá trị gia tăng cao hơn. Mục tiêu xuất khẩu gạo cũng được điều chỉnh, dự kiến chỉ còn khoảng 4 triệu tấn vào năm 2030.
Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo sang các nước ASEAN, ngành gạo còn phải rà soát lại nhu cầu nhập khẩu của từng thị trường trong ASEAN, xác định những thị trường tiêu thụ gạo phẩm cấp thường với giá rẻ, thị trường tiêu thụ gạo cao cấp, gạo thơm…
Cuối cùng, Việt Nam cần tận dụng các hiệp định thương mại với các nước trong khu vực, cải thiện trình độ công nghệ để tăng khả năng cạnh tranh, tăng cường thương mại dịch vụ và đầu tư.
Nhằm tư vấn, giải đáp các vấn đề doanh nghiệp quan tâm liên quan đến việc xuất, nhập khẩu sản phẩm lúa gạo sang thị trường ASEAN nắm bắt được các thông tin như: Nhu cầu thị trường, yêu cầu đối với chất lượng và phẩm cấp hàng hóa, phương thức thanh toán, cách thức vận chuyển, bảo hiểm hàng xuất nhập khẩu, giải quyết các vấn đề bất cập có thể phát sinh trong quá trình xuất nhập khẩu, ngày 5/5/2022, Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công thương) phối hợp với các Thương vụ Việt Nam tại ASEAN tổ chức phiên tư vấn xuất khẩu sản phẩm lúa gạo sang thị trường ASEAN diễn ra tại TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Trong phiên tư vấn, ông Phạm Thế Cường, Tham tán thương mại Việt Nam tại Indonesia sẽ thông tin về tình hình thị trường gạo Indonesia và các cơ hội cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Bà Lê Thị Phương Hoa, Tham tán thương mại Việt Nam tại Lào sẽ chia sẻ về mặt hàng gạo tại thị trường Lào; Bà Trần Lê Dung, Bí thứ thứ nhất phụ trách Thương vụ Việt Nam tại Malaysia sẽ nêu một số vấn đề cần lưu ý khi xuất khẩu gạo sang Malaysia; Ông Cao Xuân Thắng, đại diện Thương vụ Việt Nam tại Singapore sẽ giới thiệu tình hình thị trường gạo Singapore niên vụ 2021 – 2022; Ông Nguyễn Thành Huy, Phụ trách Thương vụ Việt Nam tại Thái Lan sẽ chia sẻ một số kinh nghiệm gieo trồng, thu hoạch gạo của Thái Lan với doanh nghiệp Việt Nam.
Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/viet-nam-tap-trung-xuat-khau-gao-ngon-toi-thi-truong-asean
Nuôi vịt trời theo hướng hữu cơ, đăng kí sản phẩm OCOP
Nuôi vịt trời theo hướng hữu cơ, đăng kí sản phẩm OCOP
Vịt trời nuôi theo hướng hữu cơ của HTX Chăn nuôi và tiêu thụ gà đồi Ba Vì đang tiến hành các bước đăng kí đây là sản phẩm OCOP của huyện.
HTX Chăn nuôi và tiêu thụ gà đồi Ba Vì là đơn vị đã xây dựng được thương hiệu trên thị trường với sản phẩm chủ lực là gà đồi. Tuy nhiên, do nhu cầu của thị trường và những điều kiện môi trường sẵn có, một số thành viên của HTX đã quyết định chăn nuôi vịt trời theo hướng hữu cơ từ cuối năm 2021 và nhân rộng từ đó đến nay.
Thành viên của HTX, anh Trương Đức Hoàng, thôn Đông An, xã Thuỵ An, huyện Ba Vì, nhận thấy diện tích đất đai, ao đầm của gia đình mình phù hợp với việc phát triển chăn nuôi vịt trời theo hướng hữu cơ. Sau khi tìm hiểu, anh đã mạnh dạn đầu tư chuồng trại chăn nuôi 1.000 con vịt trời theo hình thức bán hoang dã. Nhờ chăm sóc đúng kỹ thuật, đàn vịt của gia đình anh sinh trưởng, phát triển tốt.
Với việc sử dụng các loại thức ăn như: ngô, cám mì, giun quế, ấu trùng, cá xay ủ lên men và trộn thêm vi lượng khoáng chất… vịt trời nuôi theo hướng hữu cơ của HTX có vị thơm ngon, đặc trưng nên được thị trường rất ưa chuộng. Ngoài ra, để đảm bảo sản phẩm hữu cơ, an toàn đến tay người tiêu dùng, vịt trời được chăn nuôi ở môi trường thoáng mát, nguồn nước sạch sẽ.

Vịt trời nuôi theo hướng hữu cơ đem lại hiệu quả kinh tế cao đang được nhân rộng
Hiện vịt trời theo hướng hữu cơ của HTX Chăn nuôi và tiêu thụ gà đồi Ba Vì luôn trong tình trạng “cháy hàng”, có bao nhiêu hết ngay đến đó với giá cả rất tốt khoảng 150 nghìn/con vịt 1kg.
Với hiệu quả như vậy, hiện HTX chăn nuôi vịt liên tục gối đàn, mỗi lứa từ 500 con và hiện có khoảng 3.000 con đang được chăn thả.
Đặc biệt, thời gian tới HTX sẽ tiến hành các bước đăng ký sản phẩm “Vịt trời hữu cơ” là sản phẩm OCOP của huyện Ba Vì, đồng thời tiếp tục nhân rộng mô hình để đem lại hiệu quả kinh tế cho các xã viên.
Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/nuoi-vit-troi-theo-huong-huu-co-dang-ki-san-pham-ocop
Nông sản xuất khẩu: Nâng cao năng suất, chất lượng nhờ khoa học – công nghệ
Nông sản xuất khẩu: Nâng cao năng suất, chất lượng nhờ khoa học – công nghệ
Nông sản là một trong những ngành xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước. Để nâng cao năng suất, chất lượng các sản phẩm nông sản, thời gian qua các ngành, địa phương đã tích cực đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN).
Là lĩnh vực chiếm tỷ lệ nghiên cứu, ứng dụng lớn nhất của hầu hết địa phương, kết quả của ngành nông nghiệp đều có sự đóng góp của KH&CN thông qua việc khuyến khích phát triển sản xuất quy mô lớn, hợp tác liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị; ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ vào sản xuất; năng lực nghiên cứu, dự báo và thông tin thị trường được nâng cao để kịp thời định hướng tổ chức sản xuất, tiêu thụ nông sản.
Nhờ đó, KH&CN đang cho thấy vai trò ngày càng quan trọng nhằm nâng cao năng suất, chất lượng nông sản Việt Nam và là đòn bẩy để mặt hàng này vươn xa đến nhiều thị trường quốc tế. Đặc biệt, trong năm 2021, mặc dù gặp nhiều khó khăn do đại dịch Covid-19, ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất, kinh doanh nhưng xuất khẩu nông sản của Việt Nam vẫn đạt 48,6 tỷ USD. Điển hình, năm 2021, sản lượng vải thiều Lục Ngạn, Bắc Giang tiêu thụ và xuất khẩu sang thị trường “khó tính” như Nhật Bản, Pháp, CH. Czech, Australia, Mỹ, Đức… với sản lượng cao nhất từ trước đến nay.
Hay tại Sơn La, thị trường xuất khẩu nông sản của tỉnh này cũng ngày càng được mở rộng như Trung Quốc, Campuchia, Anh, Mỹ, Australia, Hàn Quốc, Nhật Bản… Từ chỗ là tỉnh miền núi có diện tích đất nương đồi trồng ngô lớn nhất nước, Sơn La đã nhanh chóng chuyển đổi sang trồng cây ăn quả trên đất dốc, trở thành vựa cây ăn quả lớn thứ hai của cả nước, với tổng diện tích trên 70.000 ha. Thu nhập bình quân trên 1 ha đạt từ 150 – 500 triệu đồng/ha, góp phần nâng cao mức sống của người dân và mở rộng phát triển sản xuất.
Cũng nhờ đẩy mạnh chuyển giao khoa học, kỹ thuật, sản xuất na Chi Lăng, Hữu Lũng tại Lạng Sơn đã đạt diện tích trên 3.500 ha, trong đó hơn 400 ha Na được chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP; tổng giá trị sản xuất ước đạt khoảng 1.200 tỷ đồng, bình quân thu nhập trên 1ha canh tác na đạt 275 triệu đồng/ha.
“Nhờ ứng dụng KH&CN, năng suất một số vật nuôi, cây trồng của Việt Nam đạt cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cụ thể, năng suất lúa cao nhất trong các nước ASEAN (trong đó cao hơn gấp rưỡi Thái Lan), cà phê có năng suất đứng thứ 2 trên thế giới (chỉ sau Brazil), năng suất hồ tiêu đứng đầu thế giới, cao su đứng thứ 2 thế giới (chỉ sau Ấn Độ), cá tra với năng suất 500 tấn/ha cũng cao nhất thế giới” – đại diện Bộ KH&CN cho biết.
Nhiều chuyên gia cho rằng, để tiến vào thị trường các nước, tận dụng cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA), các sản phẩm nông sản của Việt Nam phải đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường quốc tế về chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, mẫu mã đa dạng, giá thành hợp lý, đồng thời cũng phải đảm bảo khâu cung ứng kịp thời cho nhà nhập khẩu…
Ông Nguyễn Đình Phong – Phó giám đốc Sở Công Thương tỉnh Sơn La – cho biết, để các sản phẩm nông sản có thể mở rộng thị trường, tận dụng được các cơ hội từ các Hiệp định FTA, thì trước tiên các yếu tố đầu vào như vật tư, giống cây trồng cho đến quản lý, chăm sóc, bao gói, truy xuất nguồn gốc sản phẩm… đều phải đáp ứng tiêu chuẩn, sau đó mới đưa đi giới thiệu, xúc tiến tiêu thụ sản phẩm, tiếp cận thị trường.






