Author Archives: Vitad Agri

Việt Nam – Vương quốc Anh đẩy mạnh hợp tác trên lĩnh vực nông nghiệp

Chiều 9/4, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến tiếp và làm việc với Trưởng Cơ quan Thú y Anh, bàn giải pháp hợp tác nông nghiệp, thương mại và phát triển chuỗi giá trị nông sản.

 
 Thứ trưởng Bộ NN-MT Phùng Đức Tiến đã có buổi tiếp và làm việc với bà Christine Middlemiss, Trưởng Cơ quan Thú y (CVO), Bộ Môi trường, Thực phẩm và Các vấn đề nông thôn Vương quốc Anh và Bắc Ireland. Ảnh: Phương Linh.

 Thứ trưởng Bộ NN-MT Phùng Đức Tiến đã có buổi tiếp và làm việc với bà Christine Middlemiss, Trưởng Cơ quan Thú y (CVO), Bộ Môi trường, Thực phẩm và Các vấn đề nông thôn Vương quốc Anh và Bắc Ireland. Ảnh: Phương Linh.

Tại buổi làm việc, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến ghi nhận sự phối hợp của Trưởng Cơ quan Thú y Christine Middlemiss và các cán bộ Đại sứ quán Anh tại Việt Nam trong suốt thời gian qua nhằm thúc đẩy các hoạt động hợp tác song phương trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.

Thứ trưởng cho biết, năm 2024, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam đạt mức kỷ lục 62,5 tỷ USD, tăng 18,7% so với năm 2023. Việt Nam hiện đứng thứ 15 thế giới về xuất khẩu nông sản, với 10 mặt hàng có giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó 7 mặt hàng vượt mốc 3 tỷ USD, bao gồm: gạo, rau quả, thủy sản, hạt điều, cà phê, gỗ và sản phẩm từ gỗ. Anh hiện là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam tại châu Âu và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 9 của Việt Nam trên toàn cầu.

Thời gian tới, Thứ trưởng đề nghị cơ quan hai nước tăng cường trao đổi thông tin, đặc biệt là lĩnh vực thú y về phòng, chống dịch bệnh ở gia súc, gia cầm và các phương pháp chẩn đoán, xét nghiệm và xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh.

“Chúng tôi mong muốn tổ chức những cuộc trao đổi luân phiên, các doanh nghiệp của Việt Nam và Anh cùng chia sẻ để hiểu biết nhau hơn, từ đó giúp nông sản Việt Nam hội nhập sâu hơn vào thị trường Anh”, Thứ trưởng nói.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đánh giá cao chương trình chia sẻ vaccine giữa hai bên, đặc biệt là các sáng kiến liên quan đến thủy sản và chăn nuôi. Ảnh: Phương Linh.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đánh giá cao chương trình chia sẻ vaccine giữa hai bên, đặc biệt là các sáng kiến liên quan đến thủy sản và chăn nuôi. Ảnh: Phương Linh.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam đề nghị Vương quốc Anh ưu tiên triển khai các chương trình, dự án hỗ trợ đào tạo cán bộ chuyên môn của Việt Nam trong lĩnh vực chăn nuôi, thú y; hỗ trợ tăng cường năng lực phòng thí nghiệm và hợp tác trong nghiên cứu, sản xuất vaccin phòng bệnh cho gia súc, gia cầm và thủy sản.

Bên cạnh đó, đề xuất phía Anh đưa các chuyên gia sang hỗ trợ trong khuôn khổ các chương trình nâng cao tiêu chuẩn quốc tế cho doanh nghiệp Việt Nam; đồng thời phối hợp định kỳ tổ chức các tọa đàm kết nối doanh nghiệp nông nghiệp giữa hai nước, nhằm quảng bá và thúc đẩy thương mại các sản phẩm nông lâm thủy sản Việt Nam tại thị trường nội địa và Vương quốc Anh.

“Việc tổ chức tọa đàm thường niên sẽ góp phần cụ thể hóa các cam kết trong Bản ghi nhớ đã được ký giữa hai Bộ từ tháng 11/2022, đồng thời mở rộng kết nối giữa các doanh nghiệp trong cả thương mại lẫn đầu tư”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.

 

Về tiềm năng hợp tác, Việt Nam luôn nhất quán trong quan điểm điều phối lợi ích một cách hài hòa và sẵn sàng cùng chia sẻ rủi ro trong quá trình hợp tác. “Vương quốc Anh là một nền kinh tế lớn, phía Việt Nam sẵn sàng ủng hộ để ngày càng có nhiều mặt hàng của Anh được nhập khẩu và tiêu thụ tại Việt Nam”, Thứ trưởng nhấn mạnh.

Thứ trưởng cũng bày tỏ sự đồng tình trong việc thúc đẩy nhập khẩu thịt bò từ Vương quốc Anh vào Việt Nam với quy mô lớn hơn trong thời gian tới. 

Bà Christine Middlemiss, Trưởng Cơ quan Thú y (CVO), Bộ Môi trường, Thực phẩm và Các vấn đề nông thôn Vương quốc Anh và Bắc Ireland. Ảnh: Phương Linh.

Bà Christine Middlemiss, Trưởng Cơ quan Thú y (CVO), Bộ Môi trường, Thực phẩm và Các vấn đề nông thôn Vương quốc Anh và Bắc Ireland. Ảnh: Phương Linh.

Về phần mình, bà Christine Middlemiss bày tỏ sự ấn tượng với những thành tựu trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển bền vững của Việt Nam và đánh giá cao tiềm năng hợp tác giữa hai bên trong lĩnh vực thú y, an toàn dịch bệnh, và nghiên cứu phát triển công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp.

Bà Christine Middlemiss chia sẻ thêm, Anh sẽ tiếp tục triển khai các dự án hỗ trợ nông nghiệp và môi trường Việt Nam. Đồng thời, phối hợp cùng Việt Nam để đẩy mạnh nghiên cứu về kháng kháng sinh trên gia cầm.

“Chính phủ Anh đã phân bổ 12 triệu bảng Anh cho Trường Đại học Stirling (Scotland) để triển khai hỗ trợ Trường Đại học Mê Kông trong nghiên cứu và phát triển vaccin cho cá basa – một dự án có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nông sản cho cả hai quốc gia”, bà chia sẻ.

“Phía Vương quốc Anh mong muốn được tiếp tục trao đổi sâu hơn về mặt kỹ thuật, hướng tới xây dựng một model phát triển cho ngành gà. Chúng tôi hy vọng sẽ có cơ hội gặp gỡ và trao đổi kỹ hơn với phía Việt Nam tại Hội nghị của Tổ chức Thú y Thế giới (WOAH) tổ chức tại Pháp vào tháng 5 tới đây”, bà Christine Middlemiss nói.

Trưởng Cơ quan Thú y Vương quốc Anh cũng đề nghị thúc đẩy nhập khẩu thịt bò vào Việt Nam với quy mô lớn hơn trong thời gian tới.

 

Theo nongnghiep.vn

Một triệu hecta lúa chất lượng cao: Đi sớm, đón đầu xu thế tiêu dùng xanh

Sau hơn một năm triển khai, Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao khẳng định sự đúng đắn, nhưng cần giải pháp đột phá để đi vào chiều sâu trong giai đoạn tới.

 

Đi sớm, đón đầu

Sáng 9/4, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy chủ trì Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện Đề án “Phát triển bền vững một triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030” (gọi tắt là Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao).

Hội nghị còn có sự tham dự của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam và các đơn vị trực thuộc; Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đào Minh Tú; đại diện lãnh đạo UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp và Môi trường 12 tỉnh, thành vùng ĐBSCL; cùng các tổ chức quốc tế, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp và hợp tác xã tham gia đề án.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy chủ trì Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao tại TP Cần Thơ. Ảnh: Kim Anh.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy chủ trì Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao tại TP Cần Thơ. Ảnh: Kim Anh.

Sau hơn một năm thực hiện Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy khẳng định, đề án là bước đi chủ động, “đi trước, đi sớm” đón đầu xu hướng tiêu dùng xanh và hoàn toàn phù hợp với định hướng phát triển nông nghiệp bền vững. Bởi nếu không có sự chuẩn bị từ bây giờ, các doanh nghiệp – đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu lúa gạo sẽ đối mặt với nguy cơ bị loại khỏi thị trường quốc tế.

Bộ trưởng nhận định, tới một thời điểm nào đó, thế giới sẽ tuyên bố ngừng nhập khẩu lúa gạo không đạt tiêu chí phát thải thấp. Lúc ấy, chỉ những sản phẩm gạo xanh, canh tác theo quy trình giảm phát thải mới vào được các thị trường khó tính.

Thực tế, điều tương tự đã xảy ra với ngành thủy sản và gỗ. Nếu như trước đây, xuất khẩu thủy sản khá thuận lợi, thì hiện nay bắt buộc phải minh bạch từ khâu truy xuất nguồn gốc, kiểm soát dư lượng và kháng sinh, mới có thể vào được những thị trường khó tính.

Ngành gỗ cũng vậy, từng xuất khẩu dễ dàng, nhưng hiện tại muốn tiếp cận thị trường quốc tế, sản phẩm gỗ buộc phải có chứng chỉ FSC về phát triển rừng bền vững.

Lúa gạo – một trong những ngành hàng xuất khẩu chiến lược chắc chắn không nằm ngoài xu hướng này. Việc dán nhãn “gạo phát thải thấp” sẽ trở thành điều kiện tiên quyết để được chấp nhận ở nhiều thị trường.

Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhận định, tham gia Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao không chỉ là sự chuẩn bị cần thiết, mà còn là cơ hội để doanh nghiệp duy trì và mở rộng thị trường. Ảnh: Kim Anh.

Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhận định, tham gia Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao không chỉ là sự chuẩn bị cần thiết, mà còn là cơ hội để doanh nghiệp duy trì và mở rộng thị trường. Ảnh: Kim Anh.

Đến nay, bước đầu Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao đã cho thấy những kết quả tích cực, thể hiện tính đúng đắn, hiệu quả và khả thi. Rõ nét là sự chuyển biến về tư duy và nhận thức của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân về mục tiêu phát triển bền vững ngành lúa gạo Việt Nam.

Từ 7 mô hình thí điểm do Trung ương triển khai tại 5 tỉnh, thành vùng ĐBSCL, đến nay đã mở rộng được 101 mô hình, với tổng diện tích hơn 4.500 ha. 

Nông dân từng bước tiếp cận và áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến như: “1 phải 5 giảm”, “3 giảm 3 tăng”, tưới ngập khô xen kẽ (AWD), sử dụng phân bón hợp lý và quan tâm nhiều hơn đến việc giảm phát thải khí nhà kính. Đây là những tiền đề quan trọng để xây dựng, hoàn thiện, chuẩn hóa và nhân rộng quy trình sản xuất lúa bền vững ở ĐBSCL.

Thông qua đề án cũng đã hình thành chuỗi sản xuất lúa gạo bền vững. Một số doanh nghiệp lớn đã tham gia chuỗi giá trị lúa gạo chất lượng cao, hỗ trợ nông dân từ khâu giống, vật tư đầu vào, đến bao tiêu sản phẩm đầu ra.

Bên cạnh đó, Hiệp hội ngành hàng lúa gạo Việt Nam cũng đang phối hợp với các doanh nghiệp, đối tác quốc tế xây dựng bộ nhận diện nhãn hiệu gạo Việt Nam xanh, phát thải thấp.

Khơi thông điểm nghẽn

Mặc dù ghi nhận nhiều kết quả, tuy nhiên, thực tế quá trình triển khai Đề án một triệu hecta vẫn còn những tồn tại, thách thức.

 

Điển hình, một số địa phương còn lúng túng trong việc hiểu rõ nội hàm của đề án. “Có một số địa phương đặt vấn đề phải đầu tư hạ tầng trước. Điều này đúng, nhưng phải làm song song, không phải chờ làm xong hạ tầng mới triển khai. Có những khâu có thể làm được ngay, kế thừa những dự án đầu tư trước đây”, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy chỉ rõ.

Dự kiến trong năm 2025, diện tích áp dụng quy trình canh tác giảm phát thải sẽ đạt gần 313.000 ha. Ảnh: Kim Anh.

Dự kiến trong năm 2025, diện tích áp dụng quy trình canh tác giảm phát thải sẽ đạt gần 313.000 ha. Ảnh: Kim Anh.

Mặt khác, một số địa phương còn chú trọng vào mục tiêu trao đổi tín chỉ carbon, trong khi mục tiêu chính của đề án là chuyển đổi sản xuất bền vững, giảm chi phí, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng sản phẩm và thu nhập nông dân. Dẫn đến, một số khâu dù rất quan trọng nhưng chưa được chú trọng như: quy trình canh tác, chế biến sâu, đầu tư hệ thống logistics…

Bên cạnh đó, việc xây dựng hạ tầng thủy lợi phục vụ yêu cầu tưới tiêu, quản lý đồng ruộng chưa theo kịp tiến độ, trong khi đây là điều kiện tiên quyết để áp dụng các biện pháp canh tác tiên tiến.

Nhiều nơi, nông dân, HTX và cả doanh nghiệp chưa chủ động đổi mới phương thức sản xuất. Nhất là trường hợp phải đầu tư thêm chi phí ban đầu, còn tâm lý trông chờ vào hỗ trợ của Nhà nước.

Hay vấn đề xử lý phụ phẩm (rơm, rạ) để giảm phát thải mới chỉ dừng lại ở việc thí điểm một số mô hình và khối lượng xử lý còn ở mức thấp.

Những tồn tại, thách thức trên đang trở thành điểm nghẽn, cần được nhận diện và có giải pháp tháo gỡ kịp thời để triển khai đề án hiệu quả hơn trong thời gian tiếp theo.

Do đó, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đề nghị các địa phương vùng ĐBSCL khẩn trương phê duyệt dự án/đề án. Đồng thời ban hành chính sách hỗ trợ theo thẩm quyền và điều kiện cụ thể của địa phương.

Sở Nông nghiệp và Môi trường các tỉnh, thành ĐBSCL thường xuyên phối hợp với doanh nghiệp tổ chức trình diễn, hướng dẫn quy trình canh tác lúa chất lượng cao, giảm phát thải cho nông dân. Ảnh: Kim Anh.

Sở Nông nghiệp và Môi trường các tỉnh, thành ĐBSCL thường xuyên phối hợp với doanh nghiệp tổ chức trình diễn, hướng dẫn quy trình canh tác lúa chất lượng cao, giảm phát thải cho nông dân. Ảnh: Kim Anh.

Tiếp tục mở rộng diện tích áp dụng quy trình canh tác bền vững theo lộ trình, xác định diện tích các vùng canh tác, bao gồm các vùng đệm và xây dựng kế hoạch, triển khai cụ thể.

Bên cạnh đó, ưu tiên đầu tư nâng cấp hệ thống thủy lợi nội đồng, phát triển các mô hình tưới tiết kiệm nước, giảm phát thải; cải thiện hạ tầng, kho chứa, logistics, để giảm thất thoát sau thu hoạch…

“Đối với hạ tầng cấp vùng và liên vùng, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ chịu trách nhiệm chính, đề xuất với Chính phủ để tìm kiếm các nguồn lực thực hiện. Nhưng hạ tầng trong từng quy mô diện tích, vùng sản xuất các địa phương phải hết sức chú trọng, bố trí ngân sách địa phương và nguồn vốn lồng ghép để triển khai”, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy cho biết.

Bộ trưởng cũng đề nghị Bộ Công Thương nghiên cứu, tham mưu Chính phủ điều chỉnh, bổ sung chính sách quản lý hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo bảo đảm hiệu quả bền vững; hỗ trợ các đơn vị, doanh nghiệp trong xúc tiến thương mại, phát triển thị trường.

Đối với các tổ chức quốc tế, đối tác phát triển, Bộ trưởng đề nghị phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhằm hỗ trợ kỹ thuật, tài chính, chia sẻ kinh nghiệm. Nhất là sáng kiến huy động nguồn lực tài chính xanh, phục vụ triển khai các mô hình giảm phát thải trong sản xuất lúa.

Ứng dụng cơ giới hóa là một trong những giải pháp thúc đẩy sản xuất lúa chất lượng cao, giảm phát thải. Ảnh: Kim Anh.10

Ứng dụng cơ giới hóa là một trong những giải pháp thúc đẩy sản xuất lúa chất lượng cao, giảm phát thải. Ảnh: Kim Anh.

Đối với các đơn vị thuộc Bộ, Bộ trưởng giao Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật khẩn trương hoàn thiện quy trình đo đếm, báo cáo và kiểm định kết quả phát thải (MRV), quy trình canh tác bền vững trong phạm vi đề án.

Vụ Hợp tác quốc tế được giao nhiệm vụ phối hợp với Cục Biến đổi khí hậu tham mưu, trình thành lập tổ đàm phán Thỏa thuận chi trả giảm phát thải (ERPA). Đồng thời hoàn thiện thủ tục phê duyệt chủ trương đầu tư và triển khai nghiên cứu tiền khả thi cho dự án vốn vay Ngân hàng Thế giới (WB) hỗ trợ đầu tư hạ tầng cho các vùng tham gia đề án.

 

Theo nongnghiep.vn 

Đề xuất tăng nhập khẩu nông sản từ Mỹ giữa trở ngại thuế quan

Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai đề xuất thúc đẩy nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp từ Mỹ, giúp giảm bớt gánh nặng cho ngành chăn nuôi, tạo cơ hội cân bằng thương mại.

1 trại heo giống nhập khẩu khoảng 250 con giống heo cụ kỵ (GGP) mỗi năm, trị giá khoảng 0,5 triệu USD. Ảnh: Nguyễn Thủy.

1 trại heo giống nhập khẩu khoảng 250 con giống heo cụ kỵ (GGP) mỗi năm, trị giá khoảng 0,5 triệu USD. Ảnh: Nguyễn Thủy.

Trong bối cảnh khó khăn do chính sách thuế quan của Mỹ áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam, ngày 6/4, Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai có văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp từ Mỹ trước bối cảnh Mỹ công bố áp thuế đối ứng đối với hàng hóa từ Việt Nam với mức thuế suất 46%.

Theo Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai, hiện nay, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đang triển khai chương trình GSM-102, là chương trình cung cấp bảo lãnh tín dụng để khuyến khích xuất khẩu hàng hóa nông nghiệp Mỹ với lãi suất trả chậm chỉ 1%/năm.

Trong khi đó, tại Việt Nam, có 6 ngân hàng được tham gia chương trình GSM-102, nhưng lãi suất các ngân hàng này đưa ra chưa hợp lý, dẫn đến việc triển khai chưa được hiệu quả.

Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai đề xuất Thủ tướng Chính phủ và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quan tâm, xem xét tạo điều kiện cho các ngân hàng bảo lãnh chương trình GSM-102 lãi suất từ 1-1,5% để giảm bớt gánh nặng cho các doanh nghiệp nhập khẩu.

Giải pháp này không chỉ giúp giảm chi phí cho các doanh nghiệp nhập khẩu mà còn hỗ trợ ngành chăn nuôi Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh.

Chương trình GSM-102 của USDA cung cấp bảo lãnh tín dụng với lãi suất trả chậm chỉ 1%/năm, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu các sản phẩm nông sản như đậu nành, khô đậu nành, bắp và DDGS (bã rượu khô) từ Mỹ, với giá trị nhập khẩu hàng tỷ USD. Đây là những mặt hàng đang đóng vai trò quan trọng trong ngành chăn nuôi. Tuy nhiên, vấn đề lãi suất cao từ các ngân hàng Việt Nam tham gia chương trình này đã khiến việc triển khai chưa thực sự hiệu quả.

Ngoài ra, Mỹ còn là nguồn cung cấp con giống heo chất lượng cao. Theo ước tính, mỗi năm một trại heo giống ở Việt Nam nhập khẩu khoảng 250 con giống heo cụ kỵ (GGP) trị giá gần 0,5 triệu USD.

Dự kiến, vào tháng 6 tới đây, Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai sẽ cùng một số trang trại chăn nuôi sang Mỹ, ký hợp đồng nhập khẩu heo giống từ Công ty AG World và hợp tác với Công ty Waldo để phát triển mô hình liên doanh chăn nuôi. Ngoài ra, Hiệp hội cũng xúc tiến nhập khẩu các sản phẩm nguyên liệu dinh dưỡng từ Công ty International Nutrition (Mỹ) nhằm cải thiện chất lượng thịt heo, bò, và môi trường chăn nuôi tại Việt Nam.

Tuy nhiên, một điểm đáng chú ý là Nghị định 73/2025 mới đây, đã giảm thuế suất đối với một số mặt hàng nông sản từ Mỹ, bao gồm ngô hạt và khô dầu đậu tương từ mức 1-2% xuống 0%.

“Thuế nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp từ Mỹ giảm, nếu được kèm theo chính sách hỗ trợ theo chương trình GSM-102 sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gia tăng nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp từ Mỹ.

Điều này không chỉ góp phần cân bằng thương mại Việt Nam – Mỹ mà còn giúp giảm chi phí cho ngành chăn nuôi Việt Nam, giúp nâng chất lượng chăn nuôi và nâng khả năng cạnh tranh của ngành trong hội nhập”, Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai nhận định.

Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai cho rằng, trước tình hình khó khăn hiện nay, đặc biệt khi Mỹ dự kiến áp thuế đối ứng lên hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam 46% vào ngày 9/4 tới, Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai khẩn thiết mong Thủ tướng Chính phủ và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quan tâm, chỉ đạo kịp thời để các doanh nghiệp nhập khẩu trong ngành được tham gia triển khai chương trình GSM-102 với mức lãi suất phù hợp 1-1,5%.

Đồng thời, Hiệp hội cũng cam kết sẽ tiếp tục tìm kiếm các đối tác tin cậy để nhập khẩu hàng hóa từ Mỹ, và mong muốn nhận được sự đồng hành, chia sẻ từ các ngân hàng Việt Nam để hỗ trợ ngành nông nghiệp vượt qua khó khăn trong giai đoạn đầy thách thức này.

Nguyễn Thủy

Theo nongnghiep.vn 

HIKARI: Thương hiệu sản xuất nông sản an toàn, chất lượng Nhật Bản

(TVPLO) – “Kiến tạo và thực hành nông nghiệp công nghệ cao, bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, giúp nông dân thoát nghèo, giúp trẻ em có cơ hội tới trường và cùng chung tay bảo vệ Mẹ thiên nhiên…” là thông điệp mà Công ty cổ phần Hikari Đà Lạt (Hikari Dalat JSC) gây dựng những năm qua, sản xuất theo quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP). 

Ông Nguyễn Công Điểm – Chủ tịch HĐQT Công ty CP Hikari Đà Lạt thuyết minh về quy trình sản xuất các sản phẩm nông nghiệp sạch…

Tại Hội chợ Hàng Việt Nam tiêu biểu xuất khẩu 2025 khai mạc vào ngày 27/3/2025, Hikari Dalat JSC, đại diện tiêu biểu của ngành nông sản, thực phẩm chất lượng cao của Việt Nam, mang đến hội chợ những sản phẩm đặc sản được chế biến từ nông sản, thực phẩm, tinh dầu, đồ uống, mỹ phẩm chất lượng cao, góp phần quảng bá thương hiệu nông sản Việt Nam ra bạn bè thế giới.

Xác định từ lúc xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt. Hikari Dalat JSC sản xuất theo hướng VietGAP giúp bảo vệ môi trường, góp phần tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng, có truy xuất nguồn gốc, tăng sức cạnh tranh phục vụ tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu và nâng cao thu nhập cho nông dân.

Tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng.

Nhằm thực hiện đề án cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, Hikari Dalat JSC ngày càng chú trọng đến các tiêu chuẩn về kỹ thuật sản xuất an toàn, có truy xuất nguồn gốc. Năm ngành hàng chủ lực của tỉnh hiện nay như: Nông sản – Thực phẩm – Tinh dầu – Đồ uống – Mỹ phẩm, nông dân đều thực hiện nhiều biện pháp sản xuất mới, nhất là theo quy trình VietGAP, trong đó chú trọng đến vùng trồng và cách canh tác, chế biến theo tiêu chuẩn chất lượng Nhật Bản.

Hikari Dalat JSC đang sở hữu nhà máy hàng đầu trong lỉnh vực chế biến nông sản tại Việt Nam và xuất khẩu Châu Âu. Nhà máy với những công nghệ máy móc hiện đại bậc nhất, được đầu tư theo chủ trương của lãnh đạo đến từ Nhật Bản. Nhà máy chế biến các sản phẩm từ rau, củ, quả: tinh dầu, nước ép, rau củ quả tươi cấp đông…Đặc biệt, là hệ thống chiết suất đạt ngưỡng tới hạn mà trên thế giới hiện nay chỉ có 07-09 nước trang bị được hệ thống này, để làm ra các sản phẩm như tinh dầu tiêu, tinh dầu gừng, tinh dầu trầm…Hứa hẹn sẽ tạo ra một số sản phẩm chức năng có thể chữa hiệu quả một số bệnh về dạ dạy, tiêu hoá…mà hiện tại ở Việt Nam chưa có.

TS. Hồ Minh Sơn dẫn đầu đoàn công tác của Hiệp hội Trang trại và Doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam; Hiệp hội Làng nghề Việt Nam; Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế; Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập; Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam tham quan gian hàng Hikari Dalat JSC tham gia triển lãm Expo HCM City Export năm 2025

Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc sản xuất nông nghiệp an toàn là hướng đi tất yếu để tạo nguồn thực phẩm sạch, bảo đảm an toàn thực phẩm cung cấp cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục phối hợp các địa phương mở rộng vùng sản xuất nông nghiệp được chứng nhận đủ điều kiện về an toàn thực phẩm; phối hợp các bộ, ngành xúc tiến thương mại, đẩy mạnh tiêu thụ nông sản, thực phẩm an toàn…

Tuy nhiên, qua nhận định của các cơ quan chuyên môn, hiện sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP ở nước ta vẫn gặp những hạn chế nhất định do một số nơi sản xuất còn manh mún. Trong khi đó, nhiều giống cây không đạt chất lượng, vấn đề lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật vẫn diễn ra, công nghệ sau thu hoạch yếu kém, đầu ra còn bỏ ngỏ là thách thức lớn đối với việc thực hiện cũng như mở rộng mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP.

Do đó, việc chú trọng vào hướng dẫn và thực hành sản xuất nông sản theo hướng chất lượng cao đòi hỏi cần có định hướng, xây dựng lâu dài và ổn định. Việc Hikari Dalat JSC quyết tâm xây dựng và vận hành hệ thống nhà máy chất lượng cao cho ngành nông sản là một bước đi đột phá. những sản phẩm nông sản thương hiệu của Hikari như: Rau củ quả tươi, rau củ quả đông lạnh…các loại thực phẩm, đồ uống sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng cao Nhật Bản như: Thạch trái cây, thạch collagen, nước trái cây…được thị trường trong nước và quốc tế đón nhận với những dòng sản phẩm sạch được sản xuất theo dây chuyền công nghệ hiện đại giữ nguyên dưỡng chất của sản phẩm mà không cần chất bảo quản.

Song song đó, các nhà vườn trồng nông sản được công ty bao tiêu sản phẩm, nông dân cần duy trì sản xuất xoài bảo đảm chất lượng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu; thực hiện mối liên kết bền vững với doanh nghiệp xuất khẩu. Mở rộng các hộ trồng cây ăn trái tham gia tổ hợp tác áp dụng tiêu chuẩn GAP, gắn với kiểm tra cấp mã vùng trồng, hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm rõ ràng.

TS. Hồ Minh Sơn và ông Nguyễn Công Điểm chụp ảnh lưu niệm

Hikari Dalat JSC xây dựng phương thức canh tác hiện đại, sản xuất nông sản theo tiêu chuẩn chất lượng cao đã nâng cao giá trị nông sản tiến tới ổn định về chất lượng và an toàn cho sức khỏe, đáp ứng yêu cầu thị trường đưa nông sản sạch, chất lượng cao thương hiệu Việt Nam vươn tầm cao mới.

Phú Quốc

Theo https://thamvanphapluat.vn 

AI đang thay đổi cách trồng trọt ở Trung Quốc

Trồng trọt thông minh dựa vào AI đang mở ra tiềm năng phát triển những siêu vụ mùa chịu được biến đổi khí hậu, cho năng suất cao, có thể định nghĩa lại an ninh lương thực toàn cầu.

Sự xâm nhập của trí tuệ nhân tạo (AI) vào nông nghiệp đang biến đổi tương lai lương thực, theo CGTN. Tại Đại hội Hạt giống 2025 diễn ra từ ngày 20 đến 23/3 ở thành phố Tam Á, tỉnh Hải Nam, trồng trọt thông minh trở thành chủ đề trung tâm. Hơn 40 nhà triển lãm trưng bày những công nghệ tiên tiến và các chủng hoa màu hàng đầu, nêu bật trồng trọt dựa trên AI đang biến đổi từ lý thuyết tới thực tiễn như thế nào. Màn hình kỹ thuật số tại sự kiện minh họa hàng loạt đột phá mới nhất, từ phân tích gene bằng AI tới hệ thống theo dõi trang trại dựa trên đám mây.

Những chuyên gia ở sự kiện nhấn mạnh trồng trọt thông minh đang biến đổi các phương pháp truyền thống thành nông nghiệp chính xác, cung cấp giải pháp để vượt qua hạn chế tài nguyên, tăng cường tự lực trong ngành công nghiệp hạt giống, đảm bảo vị trí chiến lược của Trung Quốc trong thị trường hạt giống toàn cầu.

Li Jiayang, học giả ở Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc (CAS) giới thiệu khái niệm “lai tạo thông minh các chủng cây thông minh”, nhấn mạnh tiềm năng tích hợp AI, công nghệ sinh học và công nghệ thông tin để phát triển hoa màu tự động thích nghi với thách thức môi trường.

Qian Qian, một học giả CAS khác, đề cập tới độ phức tạp của đặc tính của hoa màu. Theo ông, sức mạnh máy tính và thuật toán cao cấp sẽ giúp các nhà khoa học hiểu rõ quan hệ giữa gene và đặc tính của hoa màu. Khác với trồng trọt quy mô nhỏ, trồng trọt thông minh ứng dụng cách tiếp cận công nghiệp hóa, tận dụng tài nguyên để tích hợp những đặc điểm ưu việt một cách hiệu quả.

Trồng trọt dựa trên AI đang mang lại nhiều kết quả. Ví dụ, ở Tập đoàn hạt giống quốc gia Trung Quốc, các nhà nghiên cứu sử dụng hệ thống đám mây để theo dõi từ xa cánh đồng, thu thập dữ liệu thời gian thực về sức khỏe và sự phát triển của hoa màu. Điều này cho phép nhà khoa học giải quyết vấn đề nhanh chóng và tối ưu hóa quá trình nhân giống. Một đột phá đáng chú ý nằm trong lĩnh vực phát triển lúa lai. Thông thường, chuyên gia nhân giống kiểm tra hàng nghìn cách kết hợp để tìm ra một giống lúa lai ưu việt. Hiện nay. Phân tích gene bằng AI dự đoán những cách kết hợp năng suất cao trước khi bắt đầu thử nghiệm thực địa.

Drone tiến hành hoạt động kiểm soát dịch bệnh và sâu bệnh ở Nam Thông, Giang Tô. Ảnh: VCG

Drone tiến hành hoạt động kiểm soát dịch bệnh và sâu bệnh ở Nam Thông, Giang Tô. Ảnh: VCG

Một cột mốc khác là sự ra đời của “Fengdeng”, mô hình ngôn ngữ lớn tập trung vào hạt giống, chủ yếu phát triển bởi Phòng thí nghiệm quốc gia Yazhou ở Tam Á. Nền tảng AI này cung cấp kiến thức chuyên gia về nhân giống, gieo trồng và xu hướng công nghiệp, trang bị cho nông dân và nhà nghiên cứu kiến thức sâu rộng.

Tuy nhiên, lĩnh vực trồng trọt thông minh ở Trung Quốc vẫn còn một số thách thức cần vượt qua, ví dụ tập dữ liệu rời rạc hạn chế khả năng của AI trong dự đoán và thiết kế chủng hoa màu ưu việt.

An Khang (Theo CGTN)

Đăng lại bởi vnexpress.net

Canh tác lúa giảm phát thải lợi nhuận tăng cao hơn 55 triệu đồng/ha

 

Mô hình canh tác lúa giảm phát thải tại Kiên Giang gắn với tăng trưởng xanh, mỗi ha giảm trên 13 tấn CO2, năng suất lúa hơn 10 tấn và cho lợi nhuận cao trên 55 triệu đồng.

Phát thải giảm sâu – lợi nhuận tăng vọt

Đó là những con số ấn tượng được báo cáo tại Diễn đàn Khuyến nông & Nông nghiệp với chủ đề “Giải pháp thúc đầy canh tác lúa phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh tại vùng ĐBSCL”. Diễn đàn do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Kiên Giang tổ chức sáng 28/3, tại xã Nam Thái Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Lê Quốc Thanh (thứ 2 từ trái qua) cùng các đại biểu tham quan, đánh giá ruộng canh tác lúa giảm phát thải thuộc dự án Khuyến nông Trung ương triển khai tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất. Ảnh: Trung Chánh.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Lê Quốc Thanh (thứ 2 từ trái qua) cùng các đại biểu tham quan, đánh giá ruộng canh tác lúa giảm phát thải thuộc dự án Khuyến nông Trung ương triển khai tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất. Ảnh: Trung Chánh.

Tham dự diễn đàn có lãnh đạo Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Trung tâm Khuyến nông một số tỉnh thành vùng ĐBSCL và 120 đại biểu là nông dân, thành viên Hợp tác xã tham gia Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”. Ngoài ra, còn có các đơn vị đối tác cung cấp vật tư, thiết bị cơ giới và giải pháp canh tác lúa giảm phát thải gắn với tăng trưởng xanh.

Diễn đàn nhằm sơ kết dự án Khuyến nông Trung ương: “Xây dựng mô hình canh tác lúa giảm phát thải phục vụ phát triển bền vững vùng nguyên liệu lúa gạo xuất khẩu vùng ĐBSCL” trên diện tích 50ha của Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất (xã Nam Thái Sơn, Hòn Đất).

Qua quá trình triển khai, mô hình thí điểm đã mang lại những chuyển biến tích cực, nhiều hộ nông dân đã chủ động áp dụng các tiến bộ kỹ thuật như giảm lượng giống gieo sạ, áp dụng tưới ướt khô xen kẽ (AWD), sử dụng phân bón cân đối, cơ giới hóa sản xuất và quản lý rơm rạ theo hướng tuần hoàn. Những thay đổi này không chỉ giúp giảm chi phí đầu vào, tăng lợi nhuận, mà còn góp phần giảm đáng kể phát thải khí nhà kính, nâng cao chất lượng sản phẩm và hướng đến sản xuất lúa gạo bền vững.

Các đại biểu xem trình diễn máy gặt tuốt có chức năng băm rơm hoặc rải rơm theo luống, giúp xử lý rơm rạ hiệu quả theo hướng tuần hoàn. Ảnh: Trung Chánh.

Các đại biểu xem trình diễn máy gặt tuốt có chức năng băm rơm hoặc rải rơm theo luống, giúp xử lý rơm rạ hiệu quả theo hướng tuần hoàn. Ảnh: Trung Chánh.

Ông Nguyễn Văn Bắc – Phó Trưởng Văn phòng thường trực tại Nam Bộ, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đánh giá, thực tế mô hình thí điểm trong vụ đông xuân 2024-2025 tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất đã mang lại hiệu quả rõ rệt: Với giống lúa ĐS1 năng suất trung bình đạt 10,3 tấn/ha (lúa tươi), tổng thu nhập đạt 82,2 triệu đồng/ha, mang lại lợi nhuận cho nhà nông lên đến 55,5 triệu đồng/ha, cao hơn ruộng đối chứng 6,7 triệu đồng/ha. Khí phát thải nhà kính giảm trung bình 13.05 tấn CO2 tương đương/ha so với mô hình canh tác truyền thống.

Ông Nguyễn Văn Nghĩa, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Kiên Giang cho biết, tham gia Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”, tỉnh đặt mục tiêu đến năm 2025 đạt diện tích 100.000ha và năm 2030 đạt 200.000ha. Để thực hiện, Kiên Giang đã tăng cường đào tạo tập huấn cho cán bộ kỹ thuật, hợp tác xã, nông dân tham gia đề án. Cùng với đó là phối hợp với các đơn vị khởi động các mô hình điểm ở các huyện sản xuất lúa trọng điểm của tỉnh, trong đó có mô hình trình diễn thuộc dự án Khuyến nông Trung ương tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất.

Thu gom, di chuyển rơm khỏi ruộng sau khi thu hoạch để sử dụng theo hướng tuần hoàn, vừa giúp tăng thu nhập, vừa giảm phát thải do đốt rơm gây ra. Ảnh: Trung Chánh.

Thu gom, di chuyển rơm khỏi ruộng sau khi thu hoạch để sử dụng theo hướng tuần hoàn, vừa giúp tăng thu nhập, vừa giảm phát thải do đốt rơm gây ra. Ảnh: Trung Chánh.

Theo ông Nghĩa, mô hình triển khai thức tế đã mang lại hiệu quả rất thiết thực cho người dân, giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất, chất lượng, gia tăng hiệu quả kinh tế, giảm phát thải giúp ngành lúa gạo tăng trưởng xanh, phát triển bền vững. Tuy nhiên, ông Nghĩa cũng nêu thực tế nông dân còn gặp khó khăn trong việc thu gom, đưa rơm rạ ra khỏi đồng ruộng để xử lý theo hướng nông nghiệp tuần hoàn đối với diện tích lớn. Vì vậy, có thể thay thế bằng giải pháp băm rơm rạ, cày vùi kết hợp với sử dụng chế phẩm vi sinh để phân hủy nhanh thành phân bón hữu cơ tại ruộng.

Huy động tốt nguồn lực tham gia

Ông Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, nhằm giải quyết đồng thời bài toán phát triển bền vững, nâng cao giá trị sản xuất lúa gạo và giảm phát thải khí nhà kính, Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”. Đề án được triển khai nhằm tổ chức lại hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị, áp dụng các quy trình canh tác bền vững, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thu nhập và đời sống của người dân trồng lúa, bảo vệ môi trường, góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế.

Các đại biểu tham quan, đánh giá giải pháp băm rơm kết hợp với xử lý vi sinh để phân hủy nhanh thành phân hữu cơ tại ruộng, giúp giảm phát thải trong canh tác lúa. Ảnh: Trung Chánh.

Các đại biểu tham quan, đánh giá giải pháp băm rơm kết hợp với xử lý vi sinh để phân hủy nhanh thành phân hữu cơ tại ruộng, giúp giảm phát thải trong canh tác lúa. Ảnh: Trung Chánh.

Theo ông Lê Quốc Thanh, để đạt được mục tiêu của Đề án, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân. Cùng với đó là các chính sách hỗ trợ kịp thời nhằm thúc đẩy sản xuất lúa theo hướng phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh. Và thực tế cho thấy, khi xây dựng các mô hình thí điểm tại các địa phương, đã huy động tốt các nguồn lực tham gia, với sự đồng hành của các chuyên gia, nhà khoa học, các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị lúa gạo và tổ chức nông dân.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đề nghị các địa phương duy trì, nhân rộng diện tích tham gia Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”, tránh trường hợp khi mô hình, dự án kết thúc, khuyến nông rút đi thì dự án cũng chết theo. Cần xây dựng Tổ Khuyến nông cộng đồng, cùng với khuyến nông doanh nghiệp để hỗ trợ hợp tác xã tham gia Đề án, mở rộng diện tích ở các địa phương.

Cũng tại diễn đàn, các đại biểu đã dành thời gian tham quan đánh giá ruộng mô hình và xem các doanh nghiệp đối tác trình diễn thiết bị cơ giới và giải pháp canh tác lúa giảm phát thải gắn với tăng trưởng xanh, gồm máy gặt tuốt có chức năng băm rơm hoặc rải rơm theo luống, máy cuộn rơm đưa khỏi đồng ruộng, máy xới vùi rơm rạ kết hợp phun chế phẩm vi sinh phân hủy nhanh rơm rạ thành phân bón hữu cơ ngay tại ruộng.

Cánh đồng canh tác lúa giảm phát thải với giống lúa ĐS1 tại Hợp tác xã nông nghiệp Vinacam Hòn Đất cho năng suất hơn 10 tấn/ha, nông dân đạt lợi nhuận cao trên 55 triệu đồng/ha. Ảnh: Trung Chánh.

Cánh đồng canh tác lúa giảm phát thải với giống lúa ĐS1 tại Hợp tác xã nông nghiệp Vinacam Hòn Đất cho năng suất hơn 10 tấn/ha, nông dân đạt lợi nhuận cao trên 55 triệu đồng/ha. Ảnh: Trung Chánh.

Trong đó, Công ty TNHH TMDV Sài Gòn Kim Hồng trình diễn máy gặt tuốt có chức năng băm rơm hoặc rải rơm theo luống. Công ty TNHH MTV Cơ khí Nông nhiệp Phan Tấn trình diễn máy cuộn rơm đưa khỏi đồng ruộng, máy xới vùi rơm rạ kết hợp phun chế phẩm vi sinh xử lý thành phân bón hữu cơ ngay tại ruộng. Công ty CP Phân bón Bình Điền trình diễn sản phẩm Đầu trâu Bio-Canxi thúc đầy phân hủy nhanh rơm rạ và giả ngộ độc hữu cơ.

Ngoài ra, ruộng mô hình còn có sự tham gia của các doanh nghiệp đối tác, gồm Công ty TNHH Lúa gạo Việt nam (Vinarice) cung cấp và hỗ trợ lúa giống chất lượng cao phục vụ mô hình trình diễn. Công ty Bayer Việt Nam hướng dẫn quy trình quản lý dịch hại IPM, IPHM. Công ty CP Tập đoàn Tân Long thực hiện liên kết tiêu thu lúa có kiểm soát dư lượng.

Theo nongnghiep.vn

 

Đại sứ Colombia: ‘Chính sách tốt bắt nguồn từ cơ sở khoa học vững chắc’

 

Bà Camila nhấn mạnh điều này khi trao đổi với CIAT và cho rằng Chính phủ các quốc gia phải có trách nhiệm trong việc nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo.

Khoa học khởi nguồn cho chính sách đúng đắn

Tại chuyến thăm Liên minh Bioversity và Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) vừa qua, bà Camila Maria Polo Florez, Đại sứ Colombia tại Việt Nam cho biết, tương tự Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới, nông nghiệp là một ngành quan trọng đối với Colombia.

Ngành không chỉ là xương sống của sản xuất lương thực, thực phẩm (LTTP) mà còn là nguồn sinh kế chính của vô số nông dân quy mô nhỏ và nhà sản xuất nông thôn. “Tăng trưởng kinh tế hiện tại và khả năng phục hồi xuất khẩu của Colombia, ngoài nhiên liệu hóa thạch truyền thống, phần lớn trông chờ vào nông nghiệp”, bà nói.

Bà Camila Maria Polo Florez (thứ 2 từ phải), Đại sứ Colombia tại Việt Nam thăm trụ sở CIAT. Ảnh: Linh Linh.

Bà Camila Maria Polo Florez (thứ 2 từ phải), Đại sứ Colombia tại Việt Nam thăm trụ sở CIAT. Ảnh: Linh Linh.

Theo đại sứ, sản xuất LTTP giờ không còn bó hẹp trong phạm vi sản xuất đơn thuần, mà tồn tại trong một hệ thống LTTP rộng hơn, liên kết chặt chẽ hơn, đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện. Trong đó, môi trường LTTP – bối cảnh nơi người tiêu dùng thu nhận, mua sắm LTTP – là một yếu tố quan trọng, gắn kết khăng khít giữa lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.

Colombia đã cam kết trở thành quốc gia tiên phong trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Trong phương hướng hành động, quốc gia hơn 50 triệu dân coi trọng tri thức bản địa, xem vốn kiến thức này là tư liệu quan trọng trong việc duy trì đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường.

Nhắc lại chủ đề của hội nghị thượng đỉnh về đa dạng sinh học năm ngoái, Đại sứ Camila nhấn mạnh “con người phải chung sống hòa bình với thiên nhiên”. Theo bà, Colombia là quốc gia có tính đa dạng sinh học rất cao nên phải có trách nhiệm với việc gìn giữ, duy trì sức khỏe môi trường.

Chuyến thăm CIAT của đại sứ nhằm khẳng định niềm tin vào sức mạnh của khoa học và nghiên cứu trong việc cung cấp thông tin, tư vấn và đề xuất các chính sách phát triển nông nghiệp. Bà cũng nhấn mạnh nhiệm vụ của chính phủ trong việc hỗ trợ các nghiên cứu như vậy. “Chính sách tốt phải bắt nguồn từ cơ sở khoa học vững chắc”, bà nói.

Đại sứ Camila đánh giá cao nhiệt huyết và tinh thần nghiên cứu khoa học của cán bộ CIAT. Ảnh: Linh Linh.

Đại sứ Camila đánh giá cao nhiệt huyết và tinh thần nghiên cứu khoa học của cán bộ CIAT. Ảnh: Linh Linh.

Báo cáo đại sứ, TS Ricardo Hernandez, Trưởng đại diện CIAT tại Việt Nam thông tin, thời gian qua liên minh đã phối hợp với hàng trăm đối tác, nhằm giúp các quốc gia đang phát triển canh tác nông nghiệp một cách cạnh tranh, có lợi nhuận và tăng khả năng phục hồi thông qua quản lý tài nguyên thiên nhiên một cách thông minh, bền vững.

Từ khi chuyển văn phòng khu vực châu Á từ Lào sang Việt Nam vào năm 2010, CIAT đã cung cấp nhiều giải pháp chuyển đổi hệ thống nông nghiệp và LTTP, cũng như giải quyết các vấn đề ở vùng giao thoa giữa nông nghiệp, môi trường và dinh dưỡng.

Để hưởng ứng Kế hoạch hành động quốc gia chuyển đổi hệ thống LTTP minh bạch, trách nhiệm và bền vững của Việt Nam tại Quyết định số 300/2023/QĐ-TTg (NAP-FST), các sáng kiến của CIAT, thông qua sự hợp tác chặt chẽ với các đối tác quốc gia, tập trung vào nghiên cứu liên quan đến môi trường LTTP toàn diện, chế độ ăn uống lành mạnh bền vững và chính sách và quản trị hệ thống LTTP.

Các sáng kiến này giúp hỗ trợ kỹ thuật về chính sách hệ thống LTTP, cải thiện thể chế và phát triển năng lực, thúc đẩy sự hợp tác và tăng cường nỗ lực ở cả cấp quốc gia và địa phương để thực hiện hiệu quả NAP-FST. CIAT được Bộ Nông nghiệp và Môi trường ghi nhận vì những đóng góp của mình vào quá trình chuyển đổi hệ thống LTTP tại Việt Nam.

TS Ricardo Hernandez trình bày những nội dung nghiên cứu chính của CIAT. Ảnh: Bảo Thắng.

TS Ricardo Hernandez trình bày những nội dung nghiên cứu chính của CIAT. Ảnh: Bảo Thắng.

CIAT đề cao khả năng tiếp cận LTTP an toàn và bổ dưỡng cho người tiêu dùng bằng cách phân tích các yếu tố tác động an ninh LTTP và dinh dưỡng theo chiều ngang từ nông thôn đến thành thị. Liên minh cũng liên tục nghiên cứu, cung cấp nhiều loại cây trồng, vật nuôi có giá trị cao thông qua giám sát dịch hại, nghiên cứu các thức ăn chăn nuôi cải tiến, vật liệu trồng trọt sạch. Bên cạnh đó, nhấn mạnh vào công cuộc tái tạo đất thông qua tìm hiểu hệ vi sinh vật và theo dõi tình trạng phá rừng do các hoạt động nông nghiệp gây ra.

“Chúng tôi hỗ trợ nông dân và địa phương tuân thủ các tiêu chuẩn toàn cầu và đảm bảo chuỗi cung ứng nông lâm kết hợp không phá rừng ở các đồn điền sắn và cà phê, cùng nhiều loại hình khác”, TS Ricardo chia sẻ.

Năm 2024, CIAT nhận bằng khen của Chính phủ sau khi các khuyến cáo về khí hậu được đưa trong Bản tin Thời tiết nông vụ đã hỗ trợ hơn 277.000 nông dân, giúp các bên liên quan thực hiện nhiều biện pháp canh tác thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm thiểu rủi ro ở ĐBSCL.

Tầm nhìn trong 10 năm tới, CIAT sẽ mở rộng quy mô và thực hiện những đổi mới giúp hệ thống nông nghiệp, thực phẩm của khu vực Đông Nam Á có khả năng chống chịu tốt hơn với biến đổi khí hậu, đồng thời mang lại sinh kế cho những người sản xuất LTTP và các bên liên quan trong chuỗi giá trị.

Liên minh cũng dành sự quan tâm cho việc nghiên cứu những giải pháp cung cấp thực phẩm giá cả phải chăng, bổ dưỡng và lành mạnh hơn cho người tiêu dùng, góp phần gìn giữ môi trường tự nhiên.

Đại sứ Camila mong muốn được học hỏi những kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của Việt Nam. Ảnh: Bảo Thắng.

Đại sứ Camila mong muốn được học hỏi những kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của Việt Nam. Ảnh: Bảo Thắng.

Tìm kiếm cơ hội hợp tác trong lúa gạo và hạt điều

Sau khi nghe các nhóm nghiên cứu về chuyển đổi hệ thống LTTP, ứng phó với biến đổi khí hậu… trình bày, Đại sứ Camila cho rằng, những nội dung này rất hữu ích với Colombia, nhất là trong bối cảnh quốc gia có diện tích hơn 1,1 triệu km2 đang đẩy mạnh chuyển đổi số, sử dụng các công cụ số, trí tuệ nhân tạo để phát triển nông nghiệp bền vững.

Colombia là một trong những nước sản xuất cà phê Arabica lớn nhất thế giới, nổi tiếng với chất lượng cao, hương vị đặc trưng. Ngoài ra, nước này còn thuộc nhóm dẫn đầu trong xuất khẩu chuối, dầu cọ và một số nông sản khác như mía đường, ca cao.

Tương tự một số quốc gia đang phát triển, nền nông nghiệp Colombia đang gặp nhiều thách thức đến từ biến đổi khí hậu, xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng và đầu tư vào cơ giới hóa, công nghệ chế biến của quốc gia Nam Mỹ chưa phát triển tương xứng, đáp ứng đủ nhu01 cầu sản xuất của người dân. Chi phí vận chuyển, logistics tại Colombia còn tương đối cao, hạn chế sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Thời gian tới, Colombia định hướng phát triển mạnh nông nghiệp hữu cơ, nhất là việc xây dựng nhiều mô hình trồng cà phê hữu cơ. Nước này cũng đặc biệt quan tâm đến công cuộc chống nạn phá rừng, tăng cường an ninh lương thực và bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học.

Từ thời điểm nhậm chức vào đầu năm 2025, Đại sứ Camila ấn tượng với nông nghiệp Việt Nam và coi đây là nguồn cảm hứng quý giá, nhất là trong công cuộc phát triển sản xuất lúa gạo. “Ngành lúa gạo Colombia từng là một phần quan trọng của nền kinh tế, nhưng đang phải vật lộn do sự cạnh tranh bên ngoài và tình trạng kém hiệu quả bên trong”, bà bày tỏ.

Bản tin Thời tiết nông vụ, một sản phẩm do CIAT phối hợp thực hiện, đã lan tỏa mạnh mẽ tại khu vực ĐBSCL. Ảnh: Linh Linh.

Bản tin Thời tiết nông vụ, một sản phẩm do CIAT phối hợp thực hiện, đã lan tỏa mạnh mẽ tại khu vực ĐBSCL. Ảnh: Linh Linh.

Chính phủ Colombia kỳ vọng hồi sinh ngành hàng này và Đại sứ quán tại Việt Nam mong muốn được học hỏi những kinh nghiệm, kỹ thuật tiên tiến của Việt Nam để đưa ra phương pháp tiếp cận phù hợp với bối cảnh thực tế của quốc gia có rừng Amazon.

Một lĩnh vực khác cũng được quan tâm là phát triển nghề trồng điều. Colombia có khí hậu tương đối phù hợp với nông sản được xem là thế mạnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Thông qua sự giúp đỡ, trao đổi giữa hai bên, đại sứ hy vọng Colombia có thể tìm ra những khu vực phù hợp để thử nghiệm mặt hàng có giá trị toàn cầu được dự báo 8 tỷ USD trong năm 2025.

Qua các buổi làm việc, Đại sứ Camila nhận thấy nhiều điểm tương đồng giữa Colombia và Việt Nam, cả về thách thức, cơ hội và tiềm năng cho các quan hệ đối tác mới, đặc biệt là giữa các viện nghiên cứu, chính phủ, các trường đại học và khu vực tư nhân. Bà lưu ý, rằng sự phát triển của ngành nông nghiệp, thực phẩm phụ thuộc rất nhiều vào sự tham gia của khu vực tư nhân.

Với riêng CIAT, bà tái khẳng định sự ủng hộ với các sáng kiến ​​đổi mới giúp chuyển đổi hệ thống LTTP bền vững, xem đây là một trụ cột quan trọng trong việc tái cơ cấu nền sản xuất nông nghiệp của quốc gia.

Theo nongnghiep.vn

Bình dân hóa loại nấm quý để chữa bệnh cho nhiều người

 

Đông trùng hạ thảo được cho là có tác dụng nhất định với bệnh nhân tiểu đường, mắc bệnh tim mạch hay ung thư, nhưng hiện giá thành sản xuất còn tương đối cao.

Hội đồng khoa học phản biện về đề tài nghiên cứu sản xuất đông trùng hạ thảo. Ảnh: Bảo Thắng.

Hội đồng khoa học phản biện về đề tài nghiên cứu sản xuất đông trùng hạ thảo. Ảnh: Bảo Thắng.

Từ lâu, đông trùng hạ thảo đã được biết đến là một dược liệu quý, có tác dụng bồi bổ cơ thể, tráng dương, tăng cường miễn dịch và một số công dụng khác. 

Một trong những đặc tác dụng đáng chú ý nhất của loại nấm này là hoạt tính kháng ung thư, được ghi nhận trên nhiều dòng tế bào ung thư phổi, vú, gan, da… và trên chuột. Các thành phần hoạt tính sinh học có tác động chống ung thư chủ yếu từ polysaccharide, sterol, adenosine và đặc biệt cordycepin.

TS Xuanwei Zhou, Trung tâm nghiên cứu công nghệ sinh học thực vật, Khoa Nông nghiệp và Sinh học, Đại học Giao thông Thượng Hải chỉ ra 6 cơ chế kháng ung thư của đông trùng hạ thảo.

Đó là: (i) tăng cường chức năng của hệ thống miễn dịch và miễn dịch tự nhiên; (ii) ức chế có chọn lọc tổng hợp RNA, từ đó ảnh hưởng tới tổng hợp protein; (iii) hoạt động chống oxy hóa và chống các gốc tự do; (iv) chống đột biến; (v) làm nhiễu quá trình sao chép của virus cảm ứng khối u; (vi) cảm ứng methyl hóa nucleic acid.

Tuy nhiên, đông trùng hạ thảo chưa được công nhận là thuốc do mắc phải những rào cản tương tự nhiều polysaccharide khác như, cấu trúc phức tạp dẫn đến hoạt tính và chuyển hóa phức tạp, không ổn định; cơ chế kháng ung thư chưa rõ ràng. Polysaccharide cũng tương đối khó tan, khiến cho cấu trúc của chất này trở nên phức tạp hơn.

Tại Việt Nam, người dân tiếp xúc với đông trùng hạ thảo còn hạn chế, một phần nguyên nhân nằm ở giá bán. Một sản phẩm hoàn chỉnh có thể lên tới vài, thậm chí chục triệu đồng. Ngược lại, một số mặt hàng khác có giá rẻ hơn, khiến người tiêu dùng băn khoăn khi chọn lựa.

Ông Phạm Đình Nam, Viện trưởng Vitad-Agri, nêu quan điểm ủng hộ dự án. Ảnh: Bảo Thắng.

Ông Phạm Đình Nam, Viện trưởng Vitad-Agri, nêu quan điểm ủng hộ dự án. Ảnh: Bảo Thắng.

Làm thế nào để ngày càng nhiều người Việt Nam được sử dụng đông trùng hạ thảo là mục tiêu được Hội đồng khoa học do PGS.TS Trần Mạnh Trí, Chủ tịch hội đồng, Trưởng bộ môn Hóa học hữu cơ, Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội đặt ra.

Theo ông Trí, thế giới hiện có 2 chủng đông trùng hạ thảo chính, đó là Cordyceps militaris – sử dụng tương tự 1 loại nấm dược liệu, và thường được sản xuất, chế biến; Cordyceps sinensis – có giá thành cao, phân bố rất hạn chế trong tự nhiên (chủ yếu ở khu vực Tây Tạng) và hiện chưa được nuôi thành công trong môi trường nhân tạo.

Những sản phẩm được bán ngoài thị trường hiện nay đa số là Cordyceps militaris.

Về bản chất, đông trùng hạ thảo là một loại nấm sống ký sinh, phát triển trên ấu trùng của sâu bướm. Mùa đông, khi các ấu trùng sâu bướm vùi mình vào lớp đất để ngủ đông (đông trùng) tạo cơ hội cho loài nấm Cordyceps sinensis xâm nhập và ký sinh.

Đến mùa hè, loài nấm này sẽ phát triển mạnh mẽ, hút hết các chất dinh dưỡng bên trong ấu trùng và vươn dài cơ thể giống với hình dáng các loài thực vật (hạ thảo).

Là đơn vị thường tổ chức tour du lịch sang Trung Quốc, Công ty CP Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam cho biết, nhu cầu về đông trùng hạ thảo rất lớn. Hầu hết, người Việt Nam khi tham quan các điểm du lịch đều hỏi, hoặc sẵn sàng mua sản phẩm này nếu được đảm bảo về dinh dưỡng, nguồn gốc xuất xứ.

Đơn vị mong muốn hợp tác với các nhà khoa học, chuyên gia nông nghiệp để hoàn thiện quy trình sản xuất các sản phẩm từ đông trùng hạ thảo, đồng thời tạo ra chuỗi giá trị khép kín từ sản xuất đến chế biến, quản lý chất lượng và thương mại hóa các sản phẩm từ nấm đông trùng hạ thảo thông qua các hoạt động quảng bá, giới thiệu, tiếp cận người dùng từ dịch vụ lữ hành.

Đông trùng hạ thảo là vị thuốc đông y quý, có nhiều tác dụng. Ảnh: Bảo Thắng.

Đông trùng hạ thảo là vị thuốc đông y quý, có nhiều tác dụng. Ảnh: Bảo Thắng.

Ủng hộ quan điểm “bình dân hóa” đông trùng hạ thảo cho nhiều người có thể sử dụng, ông Phạm Đình Nam, Viện trưởng Viện Ứng dụng công nghệ và Phát triển nông nghiệp Việt Nam (Vitad-Agri), nhận xét, đây là hướng đi tiềm năng. Ông lưu ý thêm, rằng nếu sản xuất thương mại cần chú trọng việc đăng ký bản quyền tác giả, đăng ký thương hiệu, sau đó bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa và kiểu dáng công nghệ.

Hiện một số người dân chưa biết, rằng phần ngọn đông trùng hạ thảo có hình thái đẹp, nhưng chất dinh dưỡng chủ yếu lại nằm ở phần đế. Các tác dụng chữa bệnh tiểu đường, tim mạch hay thậm chí là ung thư xuất phát từ đây.

Nhiều nghiên cứu chuyên sâu trên thế giới cũng chỉ rõ, chiết xuất từ đông trùng hạ thảo có tác dụng giảm đường huyết bằng cách thúc đẩy sự chuyển hóa glucose, giảm nồng độ cholesterol toàn phần và chất béo trung tính trong huyết thanh nhờ đó làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch…

Trên cơ sở đó, lãnh đạo Vitad-Agri đề nghị đối tác có thể hợp tác với người dân, liên kết chặt chẽ và đảm bảo chất lượng từ ngay vùng nguyên liệu. Cùng với đó, nghiên cứu thêm khả năng phát triển sản phẩm hữu cơ. 

“Sản xuất đông trùng hạ thảo bằng phương pháp hữu cơ có nhiều lợi ích với sức khỏe, nhưng hiện còn ít sản phẩm có thể đảm bảo việc này”, ông Nam chia sẻ, và nhấn mạnh rằng, Chính phủ và các bộ, ngành rất quan tâm, thúc đẩy sản xuất sản phẩm hữu cơ, nhất là với những sản phẩm tốt cho sức khỏe như đông trùng hạ thảo.

PGS.TS Trần Mạnh Trí, Chủ tịch hội đồng ủng hộ ý tưởng về việc sản xuất sản phẩm tốt cho sức khỏe, đồng thời cam kết đồng hành với đơn vị thực hiện trong khâu tư vấn chứng chỉ chất lượng, công nghệ chế tạo và xây dựng thương hiệu.

Theo nongnghiep.vn

Công nghệ và chuyển đổi số nông nghiệp chưa bùng nổ

Để ứng dụng nhanh công nghệ, chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp cần nâng cao nhận thức, kỹ năng sử dụng cho nông dân, hợp tác xã.

Minh bạch hóa sản xuất và quản lý

Trong bối cảnh sản xuất nông nghiệp ngày càng chịu áp lực về chi phí và năng suất, việc ứng dụng công nghệ là giải pháp mang tính chiến lược.

Bà Đào Thị Như Hè, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Sài Gòn Kim Hồng khẳng định, nông nghiệp hiện đại không thể thiếu vai trò của máy móc và tự động hóa.

Một trong những công nghệ nổi bật đang được triển khai trong sản xuất lúa hiện nay là sạ cụm, giúp giảm đáng kể lượng giống. Theo phương pháp truyền thống, nông dân thường gieo từ 120 – 200kg giống/ha. Tuy nhiên với sạ cụm, lượng giống chỉ còn khoảng 50 – 60kg/ha. Điều này không chỉ giúp tiết kiệm chi phí mà còn giúp cây lúa sinh trưởng tốt hơn, giảm tình trạng đổ ngã và hạn chế thất thoát sau thu hoạch.

Sạ cụm - phương pháp ứng dụng cơ giới hóa đang được đánh giá cao trong sản xuất lúa ở ĐBSCL. Ảnh: Kim Anh.

Sạ cụm – phương pháp ứng dụng cơ giới hóa đang được đánh giá cao trong sản xuất lúa ở ĐBSCL. Ảnh: Kim Anh.

Ngoài việc giảm chi phí, công nghệ này cũng giúp tiết kiệm khoảng 30% lượng phân bón so với phương pháp gieo sạ truyền thống. Khi lượng phân bón giảm, số lần phun thuốc trừ sâu cũng giảm từ 2 – 3 lần/vụ do cây lúa khỏe và ít sâu bệnh tấn công hơn. Sạ cụm đã giúp giảm 20 – 30% chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận cho nông dân.

Bên cạnh sạ cụm, ứng dụng máy bay không người lái trong nông nghiệp (drone) cũng được đánh giá giúp nông dân tiết kiệm đáng kể thời gian và công sức. Nếu như trước đây, việc phun thuốc bảo vệ thực vật chủ yếu dựa vào lao động thủ công với năng suất tối đa chỉ khoảng 1ha/người/ngày thì drone có thể xử lý diện tích lên đến vài chục ha mỗi ngày. Đặc biệt, bà con nông dân hạn chế tiếp xúc trực tiếp với hóa chất độc hại.

Để mở rộng việc ứng dụng drone trong nông nghiệp, bà Hè đề xuất mô hình liên kết giữa các đơn vị cung cấp dịch vụ.

“Thay vì từng nông dân đầu tư drone riêng lẻ với chi phí cao từ 400 – 500 triệu đồng/máy, ngành nông nghiệp các địa phương cần thành lập trung tâm điều phối để tối ưu hóa thiết bị, đảm bảo vùng nào cần sẽ có drone hoạt động ngay”, bà Hè nhấn mạnh.

Công ty Sorimachi Việt Nam hiện đang xây dựng và triển khai nhiều phần mềm phục vụ sản xuất nông nghiệp. Có thể kể đến như phần mềm kế toán HTX (WaCa), phần mềm nhật ký sản xuất (Facefarm)…

Những ứng dụng này cho phép nông dân, HTX lập kế hoạch sản xuất, truy xuất nguồn gốc sản phẩm bằng mã QR; quản lý, hỗ trợ, giám sát vùng trồng lúa bằng bản đồ; đối chiếu doanh thu, lợi nhuận giữa các HTX với nhau; quản lý tín dụng nội bộ, lập báo cáo tài chính…

Ông Nguyễn Thanh Mộng – Giám đốc Phát triển thị trường của Công ty Sorimachi Việt Nam chia sẻ, việc ứng dụng công nghệ số sẽ giúp các cơ quan quản lý nhà nước có cái nhìn tổng thể, minh bạch thông tin trong quản lý hoạt động sản xuất nông nghiệp. Khi dữ liệu được đồng bộ trên nền tảng số, cơ quan quản lý có thể nhanh chóng xác định tình hình tài chính của các HTX, năng suất cây trồng theo từng vùng, từ đó có chính sách hỗ trợ kịp thời.

Tại HTX nông nghiệp tổng hợp Ba Đình (tỉnh Bạc Liêu), ông Nông Văn Trạch, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc HTX cho biết, trước đây do năng lực tiếp cận công nghệ của HTX còn hạn chế nên gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý sản xuất và ghi chép nhật ký canh tác khi tham gia Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao.

Sau khi được tiếp cận hai phần mềm Facefarm và WaCa từ năm 2022 đến nay, HTX được tập huấn tham gia 12 cuộc tập huấn. Thông qua nền tảng công nghệ, các thành viên dễ dàng theo dõi và kiểm soát chi phí sản xuất, đảm bảo lợi nhuận. Nhất là có cơ hội tiếp cận với nhiều đối tác hơn để mở rộng đầu ra.

Rào cản trong kết nối, chia sẻ dữ liệu

Mặc dù lợi ích của công nghệ và chuyển đổi số đã được chứng minh nhưng khi mở rộng để ứng dụng vào thực tế lại gặp nhiều thách thức.

Một trong những vấn đề lớn nhất được ông Nguyễn Thanh Mộng chỉ ra là khó khăn trong việc kết nối và chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan quản lý và đơn vị cung cấp giải pháp công nghệ.

Lợi ích của công nghệ và chuyển đổi số đã được chứng minh, nhưng việc mở rộng trong thực tế lại gặp nhiều thách thức. Ảnh: Kim Anh.

Lợi ích của công nghệ và chuyển đổi số đã được chứng minh, nhưng việc mở rộng trong thực tế lại gặp nhiều thách thức. Ảnh: Kim Anh.

Điển hình, nhiều thông tin quan trọng như mã số vùng trồng hiện vẫn do Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) quản lý nội bộ khiến các doanh nghiệp công nghệ không thể khai thác hiệu quả.

Ông Mộng nhấn mạnh, nếu không có sự kết nối giữa nền tảng số của doanh nghiệp công nghệ với dữ liệu của Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật thì việc truy xuất nguồn gốc vẫn là rào cản lớn. Tương tự, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cũng cần mở cổng dữ liệu về thuốc bảo vệ thực vật để nông dân có thể tra cứu nhanh chóng danh mục thuốc được phép sử dụng theo từng thị trường xuất khẩu.

Bên cạnh vấn đề dữ liệu, nhận thức và năng lực sử dụng công nghệ của nông dân và cán bộ quản lý cũng là một thách thức. Hiện nay, nhiều HTX vẫn chưa quen với các phần mềm quản lý số, trong khi một số cán bộ địa phương chưa đủ kỹ năng để hướng dẫn nông dân triển khai công nghệ mới.

Để giải quyết các thách thức trên, việc đào tạo và nâng cao năng lực cho nông dân và HTX là điều cần thiết.

Ông Lê Đức Thịnh – Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ tiếp tục tổ chức các chương trình tập huấn. Qua đây, bà con nông dân có thể làm quen với công nghệ và khai thác hiệu quả các công cụ chuyển đổi số.

Thực tế, Công ty Sorimachi Việt Nam đã triển khai dự án thí điểm chuyển đổi số, chuyển đổi xanh nông nghiệp. Dự án nhằm mục tiêu hướng dẫn cho nông dân, HTX sử dụng hiệu quả phần mềm Waca và Facefarm, hỗ trợ canh tác giảm phát thải khí nhà kính khi tham gia vào Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao.

Ứng dụng công nghệ là giải pháp quan trọng để triển khai thành công Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao. Ảnh: Kim Anh.

Ứng dụng công nghệ là giải pháp quan trọng để triển khai thành công Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao. Ảnh: Kim Anh.

Đến nay, dự án đã đào tạo được 70 cán bộ ToT cho 12 tỉnh, thành tham gia Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao và dự kiến mở rộng tập huấn trực tuyến cho đội ngũ cán bộ ToT ở 51 tỉnh còn lại trên cả nước; xây dựng 30 HTX điển hình thực hiện chuyển đổi số, chuyển đổi xanh nông nghiệp.

Đặc biệt, cách làm này đã thay đổi nhận thức của cán bộ địa phương và HTX trong việc ứng dụng các phần mềm. Hiện đã có hơn 7.000 đơn vị có tài khoản sử dụng 2 phần mềm Waca và Facefarm; hơn 600 HTX, đơn vị đã chủ động đầu tư kinh phí trang bị phần mềm để sử dụng và 15 sở nông nghiệp và môi trường đã đưa vào kế hoạch bố trí kinh phí để trang bị các phần mềm này để hỗ trợ cho các HTX trên địa bàn.

Công nghệ và chuyển đổi số đang trở thành chìa khóa cho sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp. Những tiến bộ này giúp nông dân và doanh nghiệp thích ứng tốt hơn với yêu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, để đạt được kết quả tối ưu, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên, từ doanh nghiệp cung cấp giải pháp, cơ quan quản lý đến chính những người trực tiếp sản xuất. 

Theo nongnghiep.vn

“Có cơ chế chấp nhận rủi ro, nhà khoa học sẵn sàng dấn thân”

GS.TS Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam cho rằng nhà khoa học sẽ vượt qua các e ngại, sẵn sàng thực hiện những nghiên cứu chưa từng có khi có cơ chế chấp nhận rủi ro.

Một ngày sau khi Quốc hội thông qua Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù, các nhà khoa học bày tỏ sự tin tưởng, tiếp thêm niềm tin, theo đuổi đam mê nghiên cứu, đổi mới sáng tạo.

GS Lan chia sẻ, các nhà khoa học từng e ngại khi dấn thân vào những nghiên cứu mới tạo nền tảng cho sự sáng tạo và phát triển bởi vấn đề rủi ro trong nghiên cứu khoa học. Bà cho biết, khi dịch tả lợn châu Phi xuất hiện, các nhà khoa học của Học viện Nông nghiệp Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn, do đây là bệnh chưa từng có. Trong quá trình nghiên cứu bệnh này, có khi thu được kết quả, nhưng cũng có lúc không đạt được kỳ vọng ban đầu. Nếu thất bại, họ không được thanh toán các chi phí đã sử dụng cho hóa chất, vật nghiên cứu và đối mặt với áp lực hoàn trả chi phí.

“Điều này không chỉ gây bất lợi mà còn khiến nhà khoa học e ngại khi theo đuổi các vấn đề mới và khó, ảnh hưởng đến động lực nghiên cứu của họ”, GS Lan nói với VnExpress.

GS.TS Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam (thứ hai từ trái qua) hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học. Ảnh: HVNNVNGS.TS Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam (thứ hai từ trái qua) hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học. Ảnh: HVNNVN

Bên cạnh đó, nhiều nhà khoa học Việt Nam còn mắc kẹt trong các thủ tục hành chính khi triển khai nghiên cứu, làm giảm động lực sáng tạo. Việc mua hóa chất, vật liệu phục vụ thí nghiệm vẫn bị ràng buộc bởi quy trình đấu thầu, ngay cả khi các sản phẩm này không thể mua theo quy trình thông thường. Có thể kể đến việc thuê động vật, đất trồng, ao nuôi hay mua phụ phẩm nông nghiệp để triển khai các hoạt động thí nghiệm, thử nghiệm. Những dịch vụ này không thể đăng ký đấu thầu trên hệ thống quốc gia.

Ngoài ra việc khoán chi đến sản phẩm cuối cùng khó thực hiện nhưng hồ sơ triển khai nhiệm vụ vẫn phải đấu thầu, thanh toán như khoán từng phần. Điều này cũng làm cho các nhà khoa học có tâm lý ngại nghiên cứu.

Theo bà Lan để thúc đẩy nghiên cứu khoa học, đặc biệt là những nghiên cứu mang tính tiên phong, cần có chính sách hỗ trợ phù hợp. Các nhà khoa học cần được tạo điều kiện để chấp nhận rủi ro mà không phải lo lắng về hậu quả tài chính. Điều này không chỉ giúp họ tự tin hơn trong việc theo đuổi các ý tưởng mới mà còn góp phần tạo nên những đột phá khoa học, mang lại lợi ích cho toàn xã hội.

Nghị quyết được Quốc hội thông qua sẽ giúp tổ chức, cá nhân hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được miễn trách nhiệm dân sự khi gây ra thiệt hại cho Nhà nước nếu đã thực hiện đầy đủ các quy trình, quy định. Đồng thời, nếu nghiên cứu không đạt được kết quả như dự kiến nhưng đã thực hiện đúng quy trình, tổ chức chủ trì không phải hoàn trả kinh phí.

Nghị quyết cũng xác định ngân sách nhà nước khoán chi cho nhiệm vụ khoa học và công nghệ, trừ các khoản mua sắm tài sản, thuê dịch vụ bên ngoài và công tác nước ngoài. Khoán chi đến sản phẩm cuối cùng được áp dụng khi tổ chức chủ trì cam kết chỉ tiêu chất lượng chủ yếu cần đạt được.

Bên cạnh đó Nghị quyết cũng trao quyền tự chủ cho các tổ chức chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ được tự chủ, tự chịu trách nhiệm quyết định việc sử dụng kinh phí khoán; được điều chỉnh các nội dung chi; được quyết định việc sử dụng kinh phí từ công lao động để thuê chuyên gia trong và ngoài nước theo mức kinh phí thỏa thuận. Tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ chịu trách nhiệm đảm bảo việc sử dụng kinh phí đúng mục đích, hiệu quả, tiết kiệm; bảo đảm đầy đủ hóa đơn, chứng từ và chịu trách nhiệm giải trình khi cơ quan chức năng yêu cầu.

GS Lan cho biết, khi Nghị quyết được triển khai, các nhà nghiên cứu sẽ có quyền chủ động điều chỉnh nội dung, phương pháp nghiên cứu miễn là vẫn đạt được mục tiêu cuối cùng. Đây là bước tiến quan trọng giúp khoa học công nghệ phát triển linh hoạt hơn và có nhiều nghiên cứu tiên phong.

Cơ hội phát triển công nghệ nguồn

Theo GS.TS Nguyễn Cửu Khoa, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Vật liệu Ứng dụng (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam), có cơ chế chấp nhận rủi ro, độ trễ trong nghiên cứu sẽ giúp thúc đẩy nhà khoa học phát triển các công nghệ nguồn. Đây chính là việc tạo ra các công nghệ lõi, công nghệ mới, do người Việt Nam làm chủ hoàn toàn, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong nước.

GS Khoa cho rằng, các công nghệ nguồn thường các nước phát triển giữ bí mật, rất ít khi chuyển giao hoặc bán ra bên ngoài để đảm bảo phát triển khoa học công nghệ của họ. Do đó, Việt Nam cần phát triển nội lực khoa học công nghệ quốc gia.

Ông cho biết, trước đây với một đề tài nghiên cứu phải có khả năng thành công cao hơn 80% mới có thể được triển khai do thường là các công nghệ đã có sẵn hoặc có tính đột biến không cao. Còn các định hướng phát triển công nghệ nguồn, Hội đồng khoa học sẽ rất khó khăn trong đánh giá thực hiện hay không thực hiện do tính rủi ro cao. Tuy nhiên với, “Nghị quyết 57 và Nghị quyết mới được Quốc hội thông qua, hội đồng khoa học sẽ có cơ sở để quyết đoán hơn trong việc đánh giá các đề tài nghiên cứu công nghệ nguồn”, ông Khoa nói.

PGS.TS Nguyễn Ngọc Lâm, Hội Tự động hóa TP HCM đề xuất những công nghệ nguồn liên quan đến đường sắt tốc độ cao, mạng viễn thông nội địa bảo mật cao, chip bán dẫn, tạo giống cây trồng mới… Việt Nam cần làm chủ.

Theo ông Lâm, những nghiên cứu này có thể không đạt được kết quả cuối cùng nhưng có thể tạo ra một số nền tảng cơ sở để phát triển, có sản phẩm cục bộ, có các công trình công bố, xây dựng được phòng thí nghiệm và đội ngũ chuyên gia giỏi. Các nghiên cứu này có các ứng dụng nhánh và kể cả có kết quả âm vẫn có thể xem xét thuộc yếu tố rủi ro và được miễn trừ trách nhiệm.

Nghiên cứu lĩnh vực vi mạch bán dẫn tại Trung tâm nghiên cứu triển khai, Khu công nghệ cao TP HCM năm 2024. Ảnh: Quỳnh Trần

Nghiên cứu lĩnh vực vi mạch bán dẫn tại Trung tâm nghiên cứu triển khai, Khu côngnghệ cao TP HCM năm 2024. Ảnh: Quỳnh Trần

Ông cho rằng, việc đánh giá một dự án có dự báo rủi ro và các phương án giải quyết cần có một hội đồng đủ tầm nhìn, kinh nghiệm tham gia thẩm định cũng như giám sát quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Theo PGS Lâm, hội đồng cần có ít nhất ba chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực chuyên ngành của nhiệm vụ. Việc chọn chuyên gia cần dựa trên lý lịch khoa học theo tiêu chí người có tầm nhìn, kinh nghiệm và đang thực hiện các nghiên cứu thuộc lĩnh vực này trong năm năm gần đây. Ngoài ra, các thành viên khác của hội đồng là đại diện của những lĩnh vực liên quan. Đối với những dự án lớn (từ 15-20 tỷ đồng trở lên), số chuyên gia chuyên ngành nên được tăng cường tới năm người. Cơ quan thành lập hội đồng thẩm định phải chịu trách nhiệm về tính phù hợp của hội đồng. Khi làm được những việc này, PGS Lâm tin tưởng nhà khoa học sẽ tự tin và tập trung nghiên cứu hiệu quả mà không quan tâm nhiều các vấn đề khác.

Nhật Minh – Hà An

Theo vnexpress.net

Copyrights © 2019 VITAD-AGRI All Rights Reserved.

X