Category Archives: Giống cây trồng và phân bón

Làm nông nghiệp hữu cơ nông dân được nhiều cái lợi

Hà Tĩnh xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ theo chuỗi giá trị để nhân ra diện rộng; hình thành hệ thống cung ứng vật tư đầu cho sản xuất.

 

Bí thư Huyện ủy Nghi Xuân, Hà Tĩnh Đặng Trần Phong giúp đỡ tôi lăn lộn với những chuyển dịch đang ầm thầm thay đổi trên cánh đồng. Nơi tôi đến đầu tiên là Hợp tác xã nông nghiệp (HTX) Thống Nhất, của xã Xuân Lam. Làm nông nghiệp hữu cơ (NNHC) nông dân được nhiều cái lợi, hạt gạo gia tăng giá trị, cánh đồng đã trở lại là nơi đa dạng sinh học.

“Cổ tích” đã trở lại

Chủ nhiệm HTX Thống Nhất Bùi Văn Chiến dẫn tôi ra cánh đồng. Nhiều nông dân đang bón phân cho lúa. HTX Thống Nhất này có 218 ha đất nông nghiệp. Toàn HTX có hơn 690 xã viên, đều là những nông dân giỏi giang, cần cù.

Hà Tĩnh nói chung, trong đó có Nghi Xuân từ nhiều năm trước đã vận động nông dân thực hiện cuộc dồn điền đổi thửa. Không dồn, không sử dụng được máy móc, ứng dụng khoa học kỹ thuật. Bây giờ đồng ruộng Nghi Xuân thẳng cánh cò bay.

– Anh thử tính, một công cấy bây giờ 400.000 đ, trong khi thuê máy cấy chỉ mất 120.000 đ/sào; trong khi 2 thợ cấy trong ngày mới xong 1 sào. Bùi Văn Chiến nói, người nông dân tính được ngay hơn, thiệt. Từ đó họ ủng hộ, không mất công vận động như trước.

Chủ nhiệm Hợp tác xã Thống Nhất, Bùi Văn Chiến (phải) giới thiệu về trồng lúa hữu cơ

Chủ nhiệm Hợp tác xã Thống Nhất, Bùi Văn Chiến (phải) giới thiệu về trồng lúa hữu cơ

Theo Bùi Văn Chiến, trong số 218 ha, Thống Nhất có 10 ha cấy lúa, nuôi rươi. Từ năm 2022, bà con nông dân bắt đầu cải tạo đất. Con rươi, không hề dễ tính.

Theo anh Chiến, để cải tạo được 10 ha đó, mỗi nhà nông phải đầu tư vốn từ 1 đến 1,5 tỷ đồng. Hói Ải của xóm Minh Tân là nơi dẫn nước từ sông Lam về làm mát ngọt cánh đồng, và tạo môi trường cho rươi sinh trưởng. Nghề nào cũng phải công phu, tảo tần. Ngoài kinh phí cải tạo đất là mương dẫn nước, lắp cửa cống, sử dụng mùn hữu cơ bón lót dưới ruộng…Và phải học, không thầy đố mày làm nên, như thành ngữ Việt và việc ứng dụng tri thức mới.

Sản xuất lúa kết hợp nuôi rươi theo hướng hữu cơ”, mô hình ngày càng lan tỏa, không riêng ở Nghi Xuân, mà nhiều nơi ở Hà Tĩnh. Năm 2022 nông dân Hà Tĩnh, trong đó có Nghi Xuân bắt đầu thực hiện chủ trương sản xuất lúa hàng hóa theo hướng hữu cơ. Sau đó tỉnh hoàn thiện Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2024 – 2030.  Đề án đặt mục tiêu đến năm 2030, diện tích đất trồng trọt hữu cơ đạt 2.500 ha.

Để thực hiện được mục tiêu này, Hà Tĩnh xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ theo chuỗi giá trị để nhân ra diện rộng; hình thành hệ thống cung ứng vật tư đầu vào và dịch vụ cho sản xuất; phát triển các hình thức tổ chức sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm; tăng cường quản lý nhà nước về nông nghiệp hữu cơ…

Anh Bùi Văn Chiến tâm đắc, không chỉ chủ trương mà kỹ thuật nằm lòng. Sau khi tiến hành sản xuất hoàn toàn theo hướng hữu cơ, ai dùng thuốc bảo vệ thực vật thì rươi xuất hiện và phát triển khá nhanh. Các loại sinh vật sống ở ruộng như: niềng niễng, cà cuống, cáy… được tái sinh; các loại ốc, cá, cua đồng cũng xuất hiện ngày càng nhiều. Một thời bị hủy diệt, bây giờ “cổ tích” đã xuất hiện.

– Truyền thông kết hợp với hướng dẫn ngay đầu bờ, anh à, Bùi Văn Chiến khẳng định. Về phía huyện Nghi Xuân, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện rất chú trọng công tác đào tạo, tập huấn, xây dựng nguồn nhân lực để triển khai nông nghiệp hữu cơ, kinh tế tuần hoàn.

Phác thảo một “không gian”

Nghi Xuân có gì? Nghi Xuân không chỉ có biển, đồng bằng mà có nhiều tiềm năng phi vật thể, tạo ra dư địa phát triển.

Nói về tự nhiên, địa hình, địa mạo, trên có núi Hồng, dưới có sông Lam, khi mở rộng phát triển sẽ tiếp cận với vùng ven biển tạo nên địa thế của đô thị “sơn, thủy hữu tình”. Khi đó Nghi Xuân sẽ là điểm nhấn, đối xứng với TP. Vinh, trung tâm văn hóa, chính trị và du lịch của tỉnh Nghệ An qua trục sông Lam.

 

Đây là vùng địa linh, nhân kiệt, quê hương của Đại thi hào Nguyễn Du, danh nhân văn hóa thế giới và nhà văn hóa, quân sự, chính trị Nguyễn Công Trứ, quê hương của ca trù Cổ Đạm. Nói không ngoa, đây là điểm kết nối lý tưởng với các địa danh du lịch, các địa danh lịch sử của cả tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.

Nông dân bón phân hữu cơ trên thuở ruộng lúa – rươi.

Nông dân bón phân hữu cơ trên thuở ruộng lúa – rươi.

GS.TS. Trần Đình Hòa, Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, tác giả của đề án “Sử dụng đa mục tiêu Tài nguyên nước gắn với du lịch sinh thái, cội nguồn văn hóa tỉnh Hà Tĩnh”, trong đó có phần nói về Nghi Xuân.

Theo đề án ông đề xuất, nên lựa chọn, bổ sung vùng đô thị Nghi Xuân thành một “Đô thị cội nguồn văn hóa” theo hướng lấy nguồn nước làm trung tâm, tái tạo lại các hoạt động lao động, sản xuất và văn hóa lịch sử truyền thống ngày xưa làm điểm đến cho hình thức du lịch văn hóa trải nghiệm.

Hiện nay Hà Tĩnh đã có chủ trương kêu gọi đầu tư xây dựng khu đô thị trên đảo Xuân Giang và vùng ven sông Lam tiếp giáp với đảo giữa dòng Lam.

“Phải lấy việc khôi phục và nâng cấp sông Đồng Kèn (còn gọi là Rào Mỹ Dương) làm trung tâm của đô thị mới”, GS Hòa nêu ý tưởng.

 Hiện tại, ngoài sông Lam “bổ đôi Nghệ Tĩnh”, (thơ Trần Mạnh Hảo), trên địa bàn Nghi Xuân có sông Đồng Kèn. Tiếc là, phần lớn đã bị bồi lấp, và thu hẹp, về mùa mưa sông không còn khả năng trữ nước phục vụ sản xuất và cắt lũ.

Đồng Kèn bắt nguồn từ núi Ông Bảng, dài khoảng 29km chảy vòng quanh chân núi Hồng Lĩnh đi qua địa phận các xã Xuân Viên, Xuân Mỹ, Cổ Đạm, Xuân Liên và Cương Gián thuộc huyện Nghi Xuân và đổ ra biển tại cửa Song Nam, có diện tích lưu vực khoảng 73km2. Trong đó đoạn thượng lưu đến hồ Mỹ Dương dài khoảng 17km và đoạn sông sau đập Mỹ Dương là 12km.

“Chúng tôi kiến nghị phục hồi và mở rộng sông theo phương án mở rộng đoạn Rào Mỹ Dương (thượng nguồn sông) theo hình thức vừa sông (để thoát nước) vừa là hồ để trữ nước. Với dung tích trữ nước vào khoảng 30 triệu m3. Toàn bộ đất lòng hồ được tôn tạo sang 2 bên bờ sông để hình thành các khu làng văn hóa, du lịch” vẫn theo GS Hòa. Ông nói, khi đó phía tả của sông Đồng Kèn chạy men theo chân núi Ông Bảng sẽ bố trí các khu nhà vườn mô phỏng đời sống của người dân vùng núi sinh sống bằng nghề đốn củi, săn bắn. Phía bờ hữu của sông Đồng Kèn bố trí các làng nghề truyền thống (trồng lúa, khoai, lạc,..); xen kẽ là các khu văn hóa truyền thống được tái tạo, phục dựng.

Nếu tổ chức được “không gian văn hóa” du khách sẽ được hiểu biết hơn về lịch sử, văn hóa đặc sắc của vùng đất “địa linh nhân kiệt” này; vừa có thể trải nghiệm, tham gia các công việc truyền thống nhà nông như trồng lúa, trồng khoai, lạc, bắt cá,..

Sông Đồng Kèn

Sông Đồng Kèn

Tôi đã có những trải nghiệm được thưởng thức các hình thức văn hóa dân gian Xứ Nghệ về hát ví giặm, hát phường vải,..; thưởng thức các món ăn quê dân dã từ đồng ruộng, sau khi được “tái sinh” đa dạng sinh học.

Rời Nghi Xuân, tôi nhớ mãi Chủ nhiệm HTX Thống Nhất Bùi Văn Chiến và nông dân Lê Văn Sơn trên cánh đồng Xuân Lam. Khi tôi đến, Lê Văn Sơn đang bón phân cho lúa, biết tôi là người mê mẩm với nông nghiệp sinh thái, “bợm” rươi, hai anh dặn tôi: “Hôm nào đến mùa bắt rươi, bọn em mời anh về”.

Trước mặt tôi là Lam Giang, sau lưng là Hồng Lĩnh hùng vĩ, xứ Nghệ gọi bằng phương ngữ là Rú Hồng. Rú Hồng ai đắp mà cao. Gió sông Lam hắt lên mát rượi.

 

Theo nongnghiepmoitruong.vn 

Ký kết hợp tác tiêu thụ vải thiều Bắc Giang năm 2025

NDO – Ngày 23/4, tại Hội nghị kết nối, thỏa thuận hợp tác tiêu thụ vải thiều tỉnh Bắc Giang năm 2025 đã diễn ra lễ ký kết biên bản ghi nhớ và hợp đồng giữa các đơn vị sản xuất, cung ứng dịch vụ và phân phối.
 
Ký kết hợp tác tiêu thụ vải thiều Bắc Giang 2025.
Ký kết hợp tác tiêu thụ vải thiều Bắc Giang 2025.

Tại hội nghị, ông La Văn Nam, Phó Giám đốc Sở Công thương tỉnh Bắc Giang nhấn mạnh giá trị kinh tế của vải thiều năm 2025 ước đạt gần 5.000 tỷ đồng. Với diện tích 29.700ha, sản lượng dự kiến đạt 165.000 tấn, chất lượng vải năm nay được đánh giá cao nhất từ trước đến nay nhờ thời tiết thuận lợi, tỷ lệ ra hoa trên 90% và kiểm soát chặt chẽ 240 mã vùng trồng theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP.

Tỉnh Bắc Giang đã ban hành kế hoạch xúc tiến thương mại, hỗ trợ nông dân kỹ thuật canh tác, bảo đảm an toàn thực phẩm và mở rộng thị trường xuất khẩu tới hơn 30 quốc gia như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và Trung Đông. Tỉnh cũng đẩy mạnh tiêu thụ trực tuyến qua các sàn thương mại điện tử (Buudien.vn, Shopee, Lazada) và mạng xã hội (TikTok, Facebook).

Ông Nam kêu gọi các siêu thị, sàn thương mại điện tử và đơn vị logistics hợp tác chặt chẽ, tối ưu hóa vận chuyển để bảo đảm vải thiều tươi ngon đến tay người tiêu dùng, đồng thời cam kết cung cấp dịch vụ hậu cần tốt nhất, từ nguồn vốn, kho bãi đến an ninh, trật tự.

Ký kết hợp tác tiêu thụ vải thiều Bắc Giang năm 2025 ảnh 1

Chăm sóc vải thiều tại Bắc Giang.

 

Cũng tại hội nghị, các đơn vị như Hợp tác xã Hồng Xuân, Viettel Post, Công ty vận tải đường sắt RATRACO, sàn thương mại điện tử Nongsan.buudien.vn và Tập đoàn MM Mega Market thảo luận để làm rõ các khâu sản xuất, logistics, phân phối vải thiều năm 2025. Hợp tác xã Hồng Xuân chia sẻ thành tựu đạt chứng nhận GlobalGAP và khó khăn về hạ tầng, hạn hán. MM Mega Market cam kết tiêu thụ 2.000 tấn vải, trong đó 60 tấn xuất khẩu, qua chương trình khuyến mãi tháng 5-6.

Tại đây, các đơn vị đã ký kết nhiều thỏa thuận hợp tác tiêu thụ vải thiểu như; các Hợp tác xã (Thanh Hải, Phì Điền, Lục Ngạn Xanh, Hồng Xuân) ký kết với Viettel Post, Central Retail, MM Mega Market, sàn thương mại điện tử Nongsan.buudien.vn và RATRACO, bảo đảm cung ứng vải thiều cho siêu thị, chợ đầu mối, sàn thương mại điện tử, và thị trường xuất khẩu.

Khẳng định cam kết hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp về logistics, an ninh và xúc tiến thương mại, ông Dương Ngọc Chiên, Giám đốc Sở Công thương tỉnh Bắc Giang kêu gọi các đối tác tiếp tục đồng hành, mở rộng kênh phân phối để đưa vải thiều Bắc Giang đến gần hơn với người tiêu dùng toàn cầu, củng cố thương hiệu vải thiều Bắc Giang, hứa hẹn vụ mùa 2025 thành công rực rỡ.

Theo nhandan.vn

Thúc đẩy ứng dụng công nghệ cao, Thái Nguyên đặt mục tiêu tăng trưởng 3,5% cho ngành nông nghiệp

Thái Nguyên đặt mục tiêu tăng trưởng 3,5% giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản trong năm 2025. Đây là một nhiệm vụ không hề dễ dàng khi tỉnh đang phải đối mặt với nhiều khó khăn từ kinh tế toàn cầu đến những thách thức nội tại của ngành. Tuy nhiên, với quyết tâm “tăng tốc, bứt phá” và kỳ vọng vào sự tham gia mạnh mẽ của nông nghiệp công nghệ cao, Thái Nguyên đang nỗ lực hiện thực hóa mục tiêu này…
Người nông dân Thái Nguyên thu hoạch trà tại Đồi chè Tân Cương
Người nông dân Thái Nguyên thu hoạch trà tại Đồi chè Tân Cương

Bức tranh kinh tế đầu năm 2025 của Thái Nguyên cho thấy nhiều gam màu xám đối với ngành nông nghiệp tại địa phương này. Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị quý 1/2025 của tỉnh ghi nhận sự tăng trưởng chung của các lĩnh vực kinh tế – xã hội, nhưng riêng ngành nông nghiệp lại có mức tăng trưởng thấp hơn bình quân và đáng lo ngại hơn là thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2024.

KHÓ KHĂN “BỦA VÂY” VÀ KỲ VỌNG NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO

Những khó khăn này không chỉ đến từ yếu tố nội tại mà còn chịu tác động mạnh mẽ từ tình hình kinh tế thế giới và trong nước. Sự phục hồi chậm của kinh tế toàn cầu, tình trạng lạm phát, giá cả nguyên vật liệu đầu vào ở mức cao đang gây áp lực lên chi phí sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế sâu rộng và sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường tiêu thụ nông sản, đặc biệt là với các tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng từ các nước nhập khẩu, đang đặt ra những rào cản không nhỏ cho hoạt động xuất khẩu, nhất là mặt hàng chè vốn là thế mạnh của Thái Nguyên.

Trong nước, nguy cơ bùng phát các dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trên đàn gia súc, gia cầm như cúm gia cầm, dịch tả lợn châu Phi vẫn luôn tiềm ẩn. Mặt khác, kinh tế hộ gia đình vẫn chiếm tỷ trọng lớn tại Thái Nguyên, việc ứng dụng sản xuất an toàn nhờ công nghệ cao còn hạn chế, cùng với đó là sự chậm phát triển của công nghiệp chế biến nông sản và công nghiệp phụ trợ.

Mặc dù đối diện với không ít thách thức, lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên vẫn thể hiện quyết tâm cao độ trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội năm 2025. Tại Kỳ họp thứ XXIII, Hội đồng nhân dân tỉnh mới đây, Bí thư Tỉnh uỷ Trịnh Việt Hùng nhấn mạnh năm 2025 là năm “tăng tốc, bứt phá” để tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Mục tiêu tăng 3,5% giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản được đánh giá là khả thi, dù những tháng đầu năm có những khó khăn nhất định.

Theo đó, để đạt được mục tiêu này, Thái Nguyên xác định cơ cấu lại ngành nông nghiệp, đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, an toàn và hữu cơ là giải pháp then chốt. Tỉnh có nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp công nghệ cao, trước hết là sự quan tâm đầu tư của chính quyền địa phương. Chiến lược phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Thái Nguyên tập trung vào việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng của nông sản, đặc biệt là phát triển và nâng cao giá trị cây chè Thái Nguyên.

Nông dân Thái Nguyên đã và đang ứng dụng các công nghệ tiên tiến như nhà màng, nhà lưới để kiểm soát môi trường sản xuất, hệ thống tưới phun, tưới nhỏ giọt tự động, canh tác trên giá thể và sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP và hướng hữu cơ.
Nông dân Thái Nguyên đã và đang ứng dụng các công nghệ tiên tiến như nhà màng, nhà lưới để kiểm soát môi trường sản xuất, hệ thống tưới phun, tưới nhỏ giọt tự động, canh tác trên giá thể và sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP và hướng hữu cơ.

Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên Nguyễn Huy Dũng khẳng định việc ứng dụng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo là lựa chọn duy nhất và tất yếu để các hợp tác xã nông nghiệp duy trì lợi thế cạnh tranh và vươn lên trong kỷ nguyên mới.

ỨNG DỤNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Thái Nguyên đang tích cực thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng tập trung, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, sản xuất an toàn, hữu cơ, phù hợp với nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao thành công đã được triển khai, đặc biệt trong lĩnh vực trồng chè, rau, hoa và cây ăn quả.

Việc ứng dụng công nghệ trong sản xuất chè, từ khâu trồng trọt theo hướng hữu cơ đến bảo quản, chế biến và quảng bá sản phẩm, đang được đẩy mạnh. Tỉnh cũng tập trung phát triển các sản phẩm nông nghiệp chủ lực và sản phẩm OCOP gắn với ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số, đồng thời tăng cường liên kết giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ, xây dựng thương hiệu và nâng cao giá trị nông sản trong chuỗi giá trị.

Tỉnh khuyến khích kinh tế hộ, kinh tế hợp tác xã, thu hút doanh nghiệp đầu tư, cải tiến quản lý nhà nước để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp, đồng thời tăng cường quảng bá, xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm.

Với Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, Thái Nguyên sẽ có thêm động lực để phát triển nông nghiệp công nghệ cao trong năm 2025 và tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp trong những năm tiếp theo.

Tú Anh

Theo vneconomy.vn

Xanh mướt trang trại nông nghiệp thuận tự nhiên ở Hà Nội

Đất tơi xốp, cây xanh rì, rau quả tươi ngon đều xuất hiện tại trang trại nông nghiệp hữu cơ thuận tự nhiên ở Sóc Sơn (Hà Nội) hướng đến an toàn và bền vững.

Trong bối cảnh an toàn thực phẩm và sức khỏe cộng đồng đang trở thành mối quan tâm hàng đầu, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ không chỉ là xu hướng phát triển bền vững mà còn là lời giải cho bài toán nâng cao chất lượng sống. Không sử dụng hóa chất độc hại, chú trọng cân bằng hệ sinh thái tự nhiên, mô hình nông nghiệp sạch đang ngày càng chứng minh giá trị cả về kinh tế lẫn môi trường.

Hà Nội là một trong những nơi tiên phong trong việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ. Từ các vùng ngoại thành đến ven đô, nhiều hợp tác xã, trang trại, cá nhân tiêu biểu đã góp phần lan tỏa mô hình sản xuất xanh, sạch và giàu tính nhân văn này.

Nằm ở phía Bắc Thủ đô, Sóc Sơn – vùng đất có rừng, núi và đồng bằng trù phú – đang từng bước chuyển mình theo dòng chảy của nông nghiệp hữu cơ. Với điều kiện thổ nhưỡng tốt, khí hậu trong lành, nơi đây vốn là vùng canh tác nông nghiệp truyền thống từ bao đời.

Về Sóc Sơn ngày hôm nay, những luống rau hữu cơ, vườn trái cây không hóa chất, những đàn gia cầm nuôi theo chuẩn tự nhiên… đang dần thay thế cách làm nông nghiệp cũ. Tư duy sản xuất xanh không chỉ được ươm mầm mà còn lan tỏa, bén rễ trong cộng đồng.

Vốn là một kỹ sư xây dựng, được tiếp xúc với nông nghiệp sạch trong quá trình du học nước ngoài, anh Hoàng Hải Minh (phải) đã quyết định trở về quê hương để theo đuổi khát vọng sản xuất nông nghiệp thuận tự nhiên. Và từ đó, trang trại nông nghiệp hữu cơ Dako Farm tại Sóc Sơn đã ra đời.

Xác định sản phẩm sạch là mấu chốt của phát triển bền vững, anh Minh đã chủ động tìm kiếm nguồn nước sạch, phân bón an toàn và thuốc bảo vệ thực vật từ tự nhiên. Những luống hành tây xanh mướt, khu nhà màng trồng ớt chuông, măng tây và nho mẫu đơn đều được tưới mát bởi dòng nước suối tự nhiên, mát lành. Phân bón là loại phân chuồng ủ hoai, thuốc bảo vệ thực vật là những chế phẩm sinh học từ gừng, tỏi, ớt… Bên cạnh đó, hệ thống tưới tiêu cũng được đầu tư với công nghệ hiện đại, vừa tiết kiệm nước vừa đảm bảo cung cấp đúng và đủ lượng cho cây trồng.

Sau 3 năm đi vào hoạt động, mảnh đất nơi trang trại đặt chân ngày càng trù phú. Đất tơi xốp, cây xanh rì, rau quả tươi ngon và thơm đượm vị thiên nhiên. Đi qua nhiều vùng sản xuất, thử nghiệm nhiều mô hình, anh Hoàng Hải Minh đúc kết rằng, nông nghiệp thuận tự nhiên vẫn là an toàn và bền vững nhất. Dù phải chấp nhận nhiều rủi ro nhưng anh vẫn kiên định lựa chọn, cần mẫn chăm chút cho trang trại mỗi ngày để giờ đây đã dần mang về những trái ngọt.

Với 4 loại cây trồng thế mạnh măng tây, nho mẫu đơn, ớt chuông và hành tây, những sản phẩm nông nghiệp của trang trại đang từng bước khẳng định thương hiệu. Nhiều sản phẩm đã có mặt tại các siêu thị lớn ở Hà Nội và được các doanh nghiệp tin tưởng để liên kết xuất khẩu, trong đó chủ yếu là thị trường Hàn Quốc.

Điều quan trọng nông nghiệp hữu cơ mang lại chính là sức khỏe cho người tiêu dùng và cả người sản xuất. Trong những ngày này, đến với trang trại không chỉ cảm nhận được không khí trong lành, mùi hương của rau quả tươi, mà còn nghe thấy tiếng nói cười rộn ràng của người dân nơi thôn quê thanh bình. Không còn lo lắng vì hóa chất độc hại hay công việc nặng nhọc, họ gọi đó là niềm hạnh phúc của người nông dân.

Với cách làm tử tế, kiên trì và giàu tâm huyết, trang trại đang là một điểm sáng cho phát triển nông nghiệp sạch giữa vùng ven đô Hà Nội. Từ một ước mơ nhỏ, giờ đây mô hình ấy đang gieo niềm tin, gặt trái ngọt và lan tỏa cảm hứng về một nền nông nghiệp thân thiện, bền vững.

Giữa một thế giới đang ngày càng chịu nhiều tác động từ biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường, nông nghiệp sạch không chỉ là lựa chọn, mà là con đường tất yếu để bảo vệ sức khỏe, bảo vệ môi trường và giữ gìn sự sống bền vững.

Theo nongnghiep.vn

Một triệu hecta lúa chất lượng cao: Đi sớm, đón đầu xu thế tiêu dùng xanh

Sau hơn một năm triển khai, Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao khẳng định sự đúng đắn, nhưng cần giải pháp đột phá để đi vào chiều sâu trong giai đoạn tới.

 

Đi sớm, đón đầu

Sáng 9/4, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy chủ trì Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện Đề án “Phát triển bền vững một triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030” (gọi tắt là Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao).

Hội nghị còn có sự tham dự của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam và các đơn vị trực thuộc; Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đào Minh Tú; đại diện lãnh đạo UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp và Môi trường 12 tỉnh, thành vùng ĐBSCL; cùng các tổ chức quốc tế, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp và hợp tác xã tham gia đề án.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy chủ trì Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao tại TP Cần Thơ. Ảnh: Kim Anh.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy chủ trì Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao tại TP Cần Thơ. Ảnh: Kim Anh.

Sau hơn một năm thực hiện Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy khẳng định, đề án là bước đi chủ động, “đi trước, đi sớm” đón đầu xu hướng tiêu dùng xanh và hoàn toàn phù hợp với định hướng phát triển nông nghiệp bền vững. Bởi nếu không có sự chuẩn bị từ bây giờ, các doanh nghiệp – đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu lúa gạo sẽ đối mặt với nguy cơ bị loại khỏi thị trường quốc tế.

Bộ trưởng nhận định, tới một thời điểm nào đó, thế giới sẽ tuyên bố ngừng nhập khẩu lúa gạo không đạt tiêu chí phát thải thấp. Lúc ấy, chỉ những sản phẩm gạo xanh, canh tác theo quy trình giảm phát thải mới vào được các thị trường khó tính.

Thực tế, điều tương tự đã xảy ra với ngành thủy sản và gỗ. Nếu như trước đây, xuất khẩu thủy sản khá thuận lợi, thì hiện nay bắt buộc phải minh bạch từ khâu truy xuất nguồn gốc, kiểm soát dư lượng và kháng sinh, mới có thể vào được những thị trường khó tính.

Ngành gỗ cũng vậy, từng xuất khẩu dễ dàng, nhưng hiện tại muốn tiếp cận thị trường quốc tế, sản phẩm gỗ buộc phải có chứng chỉ FSC về phát triển rừng bền vững.

Lúa gạo – một trong những ngành hàng xuất khẩu chiến lược chắc chắn không nằm ngoài xu hướng này. Việc dán nhãn “gạo phát thải thấp” sẽ trở thành điều kiện tiên quyết để được chấp nhận ở nhiều thị trường.

Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhận định, tham gia Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao không chỉ là sự chuẩn bị cần thiết, mà còn là cơ hội để doanh nghiệp duy trì và mở rộng thị trường. Ảnh: Kim Anh.

Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhận định, tham gia Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao không chỉ là sự chuẩn bị cần thiết, mà còn là cơ hội để doanh nghiệp duy trì và mở rộng thị trường. Ảnh: Kim Anh.

Đến nay, bước đầu Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao đã cho thấy những kết quả tích cực, thể hiện tính đúng đắn, hiệu quả và khả thi. Rõ nét là sự chuyển biến về tư duy và nhận thức của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân về mục tiêu phát triển bền vững ngành lúa gạo Việt Nam.

Từ 7 mô hình thí điểm do Trung ương triển khai tại 5 tỉnh, thành vùng ĐBSCL, đến nay đã mở rộng được 101 mô hình, với tổng diện tích hơn 4.500 ha. 

Nông dân từng bước tiếp cận và áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến như: “1 phải 5 giảm”, “3 giảm 3 tăng”, tưới ngập khô xen kẽ (AWD), sử dụng phân bón hợp lý và quan tâm nhiều hơn đến việc giảm phát thải khí nhà kính. Đây là những tiền đề quan trọng để xây dựng, hoàn thiện, chuẩn hóa và nhân rộng quy trình sản xuất lúa bền vững ở ĐBSCL.

Thông qua đề án cũng đã hình thành chuỗi sản xuất lúa gạo bền vững. Một số doanh nghiệp lớn đã tham gia chuỗi giá trị lúa gạo chất lượng cao, hỗ trợ nông dân từ khâu giống, vật tư đầu vào, đến bao tiêu sản phẩm đầu ra.

Bên cạnh đó, Hiệp hội ngành hàng lúa gạo Việt Nam cũng đang phối hợp với các doanh nghiệp, đối tác quốc tế xây dựng bộ nhận diện nhãn hiệu gạo Việt Nam xanh, phát thải thấp.

Khơi thông điểm nghẽn

Mặc dù ghi nhận nhiều kết quả, tuy nhiên, thực tế quá trình triển khai Đề án một triệu hecta vẫn còn những tồn tại, thách thức.

 

Điển hình, một số địa phương còn lúng túng trong việc hiểu rõ nội hàm của đề án. “Có một số địa phương đặt vấn đề phải đầu tư hạ tầng trước. Điều này đúng, nhưng phải làm song song, không phải chờ làm xong hạ tầng mới triển khai. Có những khâu có thể làm được ngay, kế thừa những dự án đầu tư trước đây”, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy chỉ rõ.

Dự kiến trong năm 2025, diện tích áp dụng quy trình canh tác giảm phát thải sẽ đạt gần 313.000 ha. Ảnh: Kim Anh.

Dự kiến trong năm 2025, diện tích áp dụng quy trình canh tác giảm phát thải sẽ đạt gần 313.000 ha. Ảnh: Kim Anh.

Mặt khác, một số địa phương còn chú trọng vào mục tiêu trao đổi tín chỉ carbon, trong khi mục tiêu chính của đề án là chuyển đổi sản xuất bền vững, giảm chi phí, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng sản phẩm và thu nhập nông dân. Dẫn đến, một số khâu dù rất quan trọng nhưng chưa được chú trọng như: quy trình canh tác, chế biến sâu, đầu tư hệ thống logistics…

Bên cạnh đó, việc xây dựng hạ tầng thủy lợi phục vụ yêu cầu tưới tiêu, quản lý đồng ruộng chưa theo kịp tiến độ, trong khi đây là điều kiện tiên quyết để áp dụng các biện pháp canh tác tiên tiến.

Nhiều nơi, nông dân, HTX và cả doanh nghiệp chưa chủ động đổi mới phương thức sản xuất. Nhất là trường hợp phải đầu tư thêm chi phí ban đầu, còn tâm lý trông chờ vào hỗ trợ của Nhà nước.

Hay vấn đề xử lý phụ phẩm (rơm, rạ) để giảm phát thải mới chỉ dừng lại ở việc thí điểm một số mô hình và khối lượng xử lý còn ở mức thấp.

Những tồn tại, thách thức trên đang trở thành điểm nghẽn, cần được nhận diện và có giải pháp tháo gỡ kịp thời để triển khai đề án hiệu quả hơn trong thời gian tiếp theo.

Do đó, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đề nghị các địa phương vùng ĐBSCL khẩn trương phê duyệt dự án/đề án. Đồng thời ban hành chính sách hỗ trợ theo thẩm quyền và điều kiện cụ thể của địa phương.

Sở Nông nghiệp và Môi trường các tỉnh, thành ĐBSCL thường xuyên phối hợp với doanh nghiệp tổ chức trình diễn, hướng dẫn quy trình canh tác lúa chất lượng cao, giảm phát thải cho nông dân. Ảnh: Kim Anh.

Sở Nông nghiệp và Môi trường các tỉnh, thành ĐBSCL thường xuyên phối hợp với doanh nghiệp tổ chức trình diễn, hướng dẫn quy trình canh tác lúa chất lượng cao, giảm phát thải cho nông dân. Ảnh: Kim Anh.

Tiếp tục mở rộng diện tích áp dụng quy trình canh tác bền vững theo lộ trình, xác định diện tích các vùng canh tác, bao gồm các vùng đệm và xây dựng kế hoạch, triển khai cụ thể.

Bên cạnh đó, ưu tiên đầu tư nâng cấp hệ thống thủy lợi nội đồng, phát triển các mô hình tưới tiết kiệm nước, giảm phát thải; cải thiện hạ tầng, kho chứa, logistics, để giảm thất thoát sau thu hoạch…

“Đối với hạ tầng cấp vùng và liên vùng, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ chịu trách nhiệm chính, đề xuất với Chính phủ để tìm kiếm các nguồn lực thực hiện. Nhưng hạ tầng trong từng quy mô diện tích, vùng sản xuất các địa phương phải hết sức chú trọng, bố trí ngân sách địa phương và nguồn vốn lồng ghép để triển khai”, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy cho biết.

Bộ trưởng cũng đề nghị Bộ Công Thương nghiên cứu, tham mưu Chính phủ điều chỉnh, bổ sung chính sách quản lý hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo bảo đảm hiệu quả bền vững; hỗ trợ các đơn vị, doanh nghiệp trong xúc tiến thương mại, phát triển thị trường.

Đối với các tổ chức quốc tế, đối tác phát triển, Bộ trưởng đề nghị phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhằm hỗ trợ kỹ thuật, tài chính, chia sẻ kinh nghiệm. Nhất là sáng kiến huy động nguồn lực tài chính xanh, phục vụ triển khai các mô hình giảm phát thải trong sản xuất lúa.

Ứng dụng cơ giới hóa là một trong những giải pháp thúc đẩy sản xuất lúa chất lượng cao, giảm phát thải. Ảnh: Kim Anh.10

Ứng dụng cơ giới hóa là một trong những giải pháp thúc đẩy sản xuất lúa chất lượng cao, giảm phát thải. Ảnh: Kim Anh.

Đối với các đơn vị thuộc Bộ, Bộ trưởng giao Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật khẩn trương hoàn thiện quy trình đo đếm, báo cáo và kiểm định kết quả phát thải (MRV), quy trình canh tác bền vững trong phạm vi đề án.

Vụ Hợp tác quốc tế được giao nhiệm vụ phối hợp với Cục Biến đổi khí hậu tham mưu, trình thành lập tổ đàm phán Thỏa thuận chi trả giảm phát thải (ERPA). Đồng thời hoàn thiện thủ tục phê duyệt chủ trương đầu tư và triển khai nghiên cứu tiền khả thi cho dự án vốn vay Ngân hàng Thế giới (WB) hỗ trợ đầu tư hạ tầng cho các vùng tham gia đề án.

 

Theo nongnghiep.vn 

Canh tác lúa giảm phát thải lợi nhuận tăng cao hơn 55 triệu đồng/ha

 

Mô hình canh tác lúa giảm phát thải tại Kiên Giang gắn với tăng trưởng xanh, mỗi ha giảm trên 13 tấn CO2, năng suất lúa hơn 10 tấn và cho lợi nhuận cao trên 55 triệu đồng.

Phát thải giảm sâu – lợi nhuận tăng vọt

Đó là những con số ấn tượng được báo cáo tại Diễn đàn Khuyến nông & Nông nghiệp với chủ đề “Giải pháp thúc đầy canh tác lúa phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh tại vùng ĐBSCL”. Diễn đàn do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Kiên Giang tổ chức sáng 28/3, tại xã Nam Thái Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Lê Quốc Thanh (thứ 2 từ trái qua) cùng các đại biểu tham quan, đánh giá ruộng canh tác lúa giảm phát thải thuộc dự án Khuyến nông Trung ương triển khai tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất. Ảnh: Trung Chánh.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Lê Quốc Thanh (thứ 2 từ trái qua) cùng các đại biểu tham quan, đánh giá ruộng canh tác lúa giảm phát thải thuộc dự án Khuyến nông Trung ương triển khai tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất. Ảnh: Trung Chánh.

Tham dự diễn đàn có lãnh đạo Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Trung tâm Khuyến nông một số tỉnh thành vùng ĐBSCL và 120 đại biểu là nông dân, thành viên Hợp tác xã tham gia Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”. Ngoài ra, còn có các đơn vị đối tác cung cấp vật tư, thiết bị cơ giới và giải pháp canh tác lúa giảm phát thải gắn với tăng trưởng xanh.

Diễn đàn nhằm sơ kết dự án Khuyến nông Trung ương: “Xây dựng mô hình canh tác lúa giảm phát thải phục vụ phát triển bền vững vùng nguyên liệu lúa gạo xuất khẩu vùng ĐBSCL” trên diện tích 50ha của Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất (xã Nam Thái Sơn, Hòn Đất).

Qua quá trình triển khai, mô hình thí điểm đã mang lại những chuyển biến tích cực, nhiều hộ nông dân đã chủ động áp dụng các tiến bộ kỹ thuật như giảm lượng giống gieo sạ, áp dụng tưới ướt khô xen kẽ (AWD), sử dụng phân bón cân đối, cơ giới hóa sản xuất và quản lý rơm rạ theo hướng tuần hoàn. Những thay đổi này không chỉ giúp giảm chi phí đầu vào, tăng lợi nhuận, mà còn góp phần giảm đáng kể phát thải khí nhà kính, nâng cao chất lượng sản phẩm và hướng đến sản xuất lúa gạo bền vững.

Các đại biểu xem trình diễn máy gặt tuốt có chức năng băm rơm hoặc rải rơm theo luống, giúp xử lý rơm rạ hiệu quả theo hướng tuần hoàn. Ảnh: Trung Chánh.

Các đại biểu xem trình diễn máy gặt tuốt có chức năng băm rơm hoặc rải rơm theo luống, giúp xử lý rơm rạ hiệu quả theo hướng tuần hoàn. Ảnh: Trung Chánh.

Ông Nguyễn Văn Bắc – Phó Trưởng Văn phòng thường trực tại Nam Bộ, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đánh giá, thực tế mô hình thí điểm trong vụ đông xuân 2024-2025 tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất đã mang lại hiệu quả rõ rệt: Với giống lúa ĐS1 năng suất trung bình đạt 10,3 tấn/ha (lúa tươi), tổng thu nhập đạt 82,2 triệu đồng/ha, mang lại lợi nhuận cho nhà nông lên đến 55,5 triệu đồng/ha, cao hơn ruộng đối chứng 6,7 triệu đồng/ha. Khí phát thải nhà kính giảm trung bình 13.05 tấn CO2 tương đương/ha so với mô hình canh tác truyền thống.

Ông Nguyễn Văn Nghĩa, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Kiên Giang cho biết, tham gia Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”, tỉnh đặt mục tiêu đến năm 2025 đạt diện tích 100.000ha và năm 2030 đạt 200.000ha. Để thực hiện, Kiên Giang đã tăng cường đào tạo tập huấn cho cán bộ kỹ thuật, hợp tác xã, nông dân tham gia đề án. Cùng với đó là phối hợp với các đơn vị khởi động các mô hình điểm ở các huyện sản xuất lúa trọng điểm của tỉnh, trong đó có mô hình trình diễn thuộc dự án Khuyến nông Trung ương tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất.

Thu gom, di chuyển rơm khỏi ruộng sau khi thu hoạch để sử dụng theo hướng tuần hoàn, vừa giúp tăng thu nhập, vừa giảm phát thải do đốt rơm gây ra. Ảnh: Trung Chánh.

Thu gom, di chuyển rơm khỏi ruộng sau khi thu hoạch để sử dụng theo hướng tuần hoàn, vừa giúp tăng thu nhập, vừa giảm phát thải do đốt rơm gây ra. Ảnh: Trung Chánh.

Theo ông Nghĩa, mô hình triển khai thức tế đã mang lại hiệu quả rất thiết thực cho người dân, giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất, chất lượng, gia tăng hiệu quả kinh tế, giảm phát thải giúp ngành lúa gạo tăng trưởng xanh, phát triển bền vững. Tuy nhiên, ông Nghĩa cũng nêu thực tế nông dân còn gặp khó khăn trong việc thu gom, đưa rơm rạ ra khỏi đồng ruộng để xử lý theo hướng nông nghiệp tuần hoàn đối với diện tích lớn. Vì vậy, có thể thay thế bằng giải pháp băm rơm rạ, cày vùi kết hợp với sử dụng chế phẩm vi sinh để phân hủy nhanh thành phân bón hữu cơ tại ruộng.

Huy động tốt nguồn lực tham gia

Ông Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, nhằm giải quyết đồng thời bài toán phát triển bền vững, nâng cao giá trị sản xuất lúa gạo và giảm phát thải khí nhà kính, Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”. Đề án được triển khai nhằm tổ chức lại hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị, áp dụng các quy trình canh tác bền vững, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thu nhập và đời sống của người dân trồng lúa, bảo vệ môi trường, góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế.

Các đại biểu tham quan, đánh giá giải pháp băm rơm kết hợp với xử lý vi sinh để phân hủy nhanh thành phân hữu cơ tại ruộng, giúp giảm phát thải trong canh tác lúa. Ảnh: Trung Chánh.

Các đại biểu tham quan, đánh giá giải pháp băm rơm kết hợp với xử lý vi sinh để phân hủy nhanh thành phân hữu cơ tại ruộng, giúp giảm phát thải trong canh tác lúa. Ảnh: Trung Chánh.

Theo ông Lê Quốc Thanh, để đạt được mục tiêu của Đề án, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân. Cùng với đó là các chính sách hỗ trợ kịp thời nhằm thúc đẩy sản xuất lúa theo hướng phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh. Và thực tế cho thấy, khi xây dựng các mô hình thí điểm tại các địa phương, đã huy động tốt các nguồn lực tham gia, với sự đồng hành của các chuyên gia, nhà khoa học, các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị lúa gạo và tổ chức nông dân.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đề nghị các địa phương duy trì, nhân rộng diện tích tham gia Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”, tránh trường hợp khi mô hình, dự án kết thúc, khuyến nông rút đi thì dự án cũng chết theo. Cần xây dựng Tổ Khuyến nông cộng đồng, cùng với khuyến nông doanh nghiệp để hỗ trợ hợp tác xã tham gia Đề án, mở rộng diện tích ở các địa phương.

Cũng tại diễn đàn, các đại biểu đã dành thời gian tham quan đánh giá ruộng mô hình và xem các doanh nghiệp đối tác trình diễn thiết bị cơ giới và giải pháp canh tác lúa giảm phát thải gắn với tăng trưởng xanh, gồm máy gặt tuốt có chức năng băm rơm hoặc rải rơm theo luống, máy cuộn rơm đưa khỏi đồng ruộng, máy xới vùi rơm rạ kết hợp phun chế phẩm vi sinh phân hủy nhanh rơm rạ thành phân bón hữu cơ ngay tại ruộng.

Cánh đồng canh tác lúa giảm phát thải với giống lúa ĐS1 tại Hợp tác xã nông nghiệp Vinacam Hòn Đất cho năng suất hơn 10 tấn/ha, nông dân đạt lợi nhuận cao trên 55 triệu đồng/ha. Ảnh: Trung Chánh.

Cánh đồng canh tác lúa giảm phát thải với giống lúa ĐS1 tại Hợp tác xã nông nghiệp Vinacam Hòn Đất cho năng suất hơn 10 tấn/ha, nông dân đạt lợi nhuận cao trên 55 triệu đồng/ha. Ảnh: Trung Chánh.

Trong đó, Công ty TNHH TMDV Sài Gòn Kim Hồng trình diễn máy gặt tuốt có chức năng băm rơm hoặc rải rơm theo luống. Công ty TNHH MTV Cơ khí Nông nhiệp Phan Tấn trình diễn máy cuộn rơm đưa khỏi đồng ruộng, máy xới vùi rơm rạ kết hợp phun chế phẩm vi sinh xử lý thành phân bón hữu cơ ngay tại ruộng. Công ty CP Phân bón Bình Điền trình diễn sản phẩm Đầu trâu Bio-Canxi thúc đầy phân hủy nhanh rơm rạ và giả ngộ độc hữu cơ.

Ngoài ra, ruộng mô hình còn có sự tham gia của các doanh nghiệp đối tác, gồm Công ty TNHH Lúa gạo Việt nam (Vinarice) cung cấp và hỗ trợ lúa giống chất lượng cao phục vụ mô hình trình diễn. Công ty Bayer Việt Nam hướng dẫn quy trình quản lý dịch hại IPM, IPHM. Công ty CP Tập đoàn Tân Long thực hiện liên kết tiêu thu lúa có kiểm soát dư lượng.

Theo nongnghiep.vn

 

Hoa tươi thời Công nghệ

Hiện tại, vẫn chưa có chứng cứ khoa học nào khẳng định sử dụng thực phẩm biến đổi gen có hại cho sức khỏe. Tuy nhiên, trong khi thực phẩm biến đổi gen vẫn là một vấn đề gây tranh cãi thì công nghệ gen đã mang lại những kết quả mỹ mãn trong nhiều lĩnh vực khác, trong đó hoa tươi là một ví dụ điển hình.

Từ xưa, hoa Ly (Lily) hay còn gọi là Bách Hợp, Huệ Tây, hoa có tên tiếng Anh là Lily, thuộc họ Liliaceae (Loa Kèn) đã có mặt rất nhiều nơi trên toàn thế giới, gồm các nước châu Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Úc, Việt Nam, và phần lớn các nước châu Âu. Ngày nay, hoa Lily là một trong những loài hoa phổ biến nhất ở châu Âu, rất nhiều gia đình dùng loài hoa này để trang trí nhà cửa hoặc trồng trong vườn. Đây cũng là loài hoa được yêu thích bậc nhất thế giới, trong đó có Việt Nam. Ngày nay, cùng với công nghệ gen, hoa Ly đã có những chuyển biến mới đặc sắc về chủng loại, trong đó phải kể đến việc thay đổi kích thước của đóa hoa. Chúng ta có thể bắt gặp những bông Lily có sải cánh lên tới 30cm mọi nơi trên đất Việt Nam này bởi Lily dễ trồng ở khắp mọi miền nước ta.  

Hoa Ly đại đóa với sải cánh lên tới 30cm

Gần đây, công nghệ gen đã giúp cho Lily được “khoác một chiếc áo mới” gọi là “Ly kép” với hai hoặc ba lớp cánh hoa. “Ly kép” tuy không rực rỡ như Lily truyền thống, cũng không to như “Ly đại đóa” kể trên, nhưng chiều sâu nội tâm của loài hoa đứng trong top đầu được yêu thích này mang đến những trải nghiệm độc đáo. Tất nhiên, cùng với thời gian, các Nhà khoa học sẽ khám phá các công nghệ gen mới, lai tạo nên những bông Lily gợi hứng hơn nữa.

Lily kép với nhiều lớp cánh hoa

Với hoa Hồng – Nữ hoàng các loài hoa, công nghệ gen cũng mang lại những làn gió mới. Nếu trước đây, Bông Hồng Đen chỉ có trong phim hoặc hoa giả, thì ngày nay người ta có thể dễ dàng ươm trồng chúng. Nếu bạn tới vườn hoa Đà Lạt, bạn có thể ngắm những bông hồng đen đúng nghĩa, và là… hoa thật.

Hoa hồng đen Đà Lạt

Hoa hồng xanh cũng là một nét thú vị của loài hoa được yêu thích số một thế giới bên cạnh những bông hồng đa sắc màu khác cùng những bông hồng được pha màu như trắng hồng, hồng kem, hồng phớt, vàng cam…

 Hoa hồng xanh/tím pha

Công nghệ gen cũng làm cho ngàn hoa trở nên xinh tươi rực rỡ trỗi vượt, thậm chí nhiều người còn phải sờ thử coi có phải là… hoa thật hay không. Chúng ta sẽ thường xuyên gặp đâu đó trên đường những bông hoa lạ, hay cũng là những loài hoa bình thường trong “chiếc áo mới” đầy sắc hương được các Nhà khoa học dệt nên, đó là những thứ không một loại hoa giả nào có thể thay thế được.

Thực hiện: Thành Vinh

Sản xuất lúa gạo gặp nhiều thách thức từ biến động thị trường quốc tế

 

[Cần Thơ] Sản xuất lúa gạo đang gặp nhiều thách thức từ các biến động thị trường quốc tế, điều kiện khí hậu ảnh hưởng nông dân, theo Phó thủ tướng Trần Hồng Hà.

Thông tin được Phó thủ tướng Trần Hồng Hà nêu ra trong cuộc họp với lãnh đạo các tỉnh, thành miền Tây về việc điều hành sản xuất, tiêu thụ lúa gạo diễn ra ngày 7/3, tại TP Cần Thơ.

“Việt Nam hiện là quốc gia đứng thứ ba thế giới về sản xuất và xuất khẩu lúa gạo, nhưng đang gặp nhiều thách thức từ các biến động thị trường quốc tế, điều kiện khí hậu”, ông Hà nói và cho biết người nông dân đang gặp nhiều khó khăn do giá lúa gạo giảm mạnh, trong khi vẫn phải chịu nhiều rủi ro do biến đổi khí hậu và thời tiết. Theo ông, việc “được mùa mất giá, được giá mất mùa” đối với người nông dân, đặc biệt là người trồng lúa đã trở thành câu chuyện quen thuộc.

Phó thủ tướng nhìn nhận đây là vấn đề kéo dài nhiều năm qua. Nếu không có giải pháp hiệu quả, nguy cơ nông dân rời bỏ mảnh ruộng của mình. Vì vậy nhà nước cần có các giải pháp như các công cụ, chính sách, như điều chỉnh giá, cung cấp tín dụng… hỗ trợ kịp thời để bảo vệ quyền lợi của người nông dân. Các bộ, ngành liên quan đánh giá rõ ràng, cụ thể các thị trường nhập khẩu chính của gạo Việt Nam cũng như các đối thủ cạnh tranh, phối hợp chặt chẽ để triển khai giải pháp.

Về lâu dài, Phó thủ tướng chỉ đạo cần phải xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành toàn diện về lĩnh vực lúa gạo. Hệ thống này sẽ tích hợp thông tin từ nhiều khâu: sản xuất, khoa học công nghệ, chế biến, bảo quản, thị trường và dự báo… với mục tiêu cung cấp thông tin kịp thời và chính xác cho các bên liên quan, từ nông dân đến doanh nghiệp và cơ quan quản lý…

Đối với việc quản lý xuất khẩu lúa gạo, Phó thủ tướng đề nghị sửa đổi Nghị định 107/2018 của Chính phủ với những điều chỉnh quan trọng. Theo đó, các doanh nghiệp muốn được cấp phép xuất khẩu phải đáp ứng các tiêu chí nghiêm ngặt, bao gồm năng lực liên kết sản xuất, hệ thống kho bãi và năng lực tài chính…

Nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nông nghiệp, Phó thủ tướng đề nghị Ngân hàng nhà nước cần xem xét áp dụng chính sách cho vay ưu đãi tương tự vay mua nhà xã hội. Đồng thời, ông kiến nghị miễn thuế thu nhập cho lĩnh vực nông nghiệp trong hai năm, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư, phát triển. Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp Bộ Khoa học và Công nghệ cần xây dựng chiến lược ngăn chặn việc các nước khác sử dụng trái phép nhãn hiệu gạo Việt Nam.

Thu hoạch lúa tại Cần Thơ. Ảnh: An Bình

 

Thu hoạch lúa tại Cần Thơ. Ảnh: An Bình

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong hai tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu gạo đạt khoảng 1,1 triệu tấn, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, giá trị kim ngạch chỉ đạt 613 triệu USD, giảm 13,6%. Giá gạo xuất khẩu trung bình giảm sâu, xuống còn 553,6 USD một tấn, thấp hơn 18,3% so với cùng kỳ năm 2024. Đầu tháng 3, giá gạo xuất khẩu tiếp tục giảm mạnh, chỉ còn: 310-367 USD mỗi tấn. Các thị trường lớn như Philippines, Bờ Biển Ngà và Ghana vẫn là những khách hàng chính của gạo Việt Nam, nhưng sức mua không còn sôi động như trước.

Giá gạo sụt giảm do nguồn cung thế giới tăng cao, nhu cầu nhập khẩu suy giảm và đặc biệt là việc Ấn Độ dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo, đẩy một lượng lớn gạo ra thị trường quốc tế…

 

Nhằm đảm bảo ổn định sản xuất và tiêu thụ lúa gạo trong bối cảnh thời tiết và thị trường diễn biến phức tạp, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề nghị các địa phương cần bám sát lịch thời vụ, đẩy nhanh tiến độ thu hoạch vụ Đông Xuân, đặc biệt ở các vùng ven biển có nguy cơ ảnh hưởng mặn cao. Bộ sẽ phối hợp các ngành liên quan theo dõi chặt chẽ biến động thị trường gạo thế giới, kịp thời thông tin cho doanh nghiệp và nông dân để điều chỉnh sản xuất và tiêu thụ phù hợp.

Về lâu dài, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục đẩy mạnh triển khai Đề án phát triển bền vững một triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh ở Đồng bằng sông Cửu Long…

Dự báo của Hiệp hội Lương thực Việt Nam, xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2025 sẽ gặp khó khăn, có thể chỉ đạt 7,5 triệu tấn, giảm so với mức kỷ lục hơn 9 triệu tấn năm 2024.

An Bình

Theo vnexpress.net

Copyrights © 2019 VITAD-AGRI All Rights Reserved.

X