NINH BÌNHGS.TS André Leu cho biết, nông nghiệp tái sinh đang được nông dân, các tổ chức nông dân, tập đoàn thực phẩm, dệt may và chính phủ khắp các châu lục ủng hộ.
Trong bài trình bày tại Hội nghị hữu cơ Châu Á lần thứ 8 diễn ra từ ngày 17 – 19/9 tại Ninh Bình, GS.TS André Leu – Giám đốc Quốc tế của Tổ chức Regeneration International (RI), nguyên Chủ tịch IFOAM quốc tế (Organics International), đồng thời là một nông dân canh tác nông nghiệp hữu cơ theo hướng tái sinh đã chia sẻ những quan điểm quan trọng về con đường phát triển nông nghiệp toàn cầu trong bối cảnh khủng hoảng khí hậu và môi trường.
Từ khủng hoảng nông nghiệp công nghiệp đến sự hình thành phong trào tái sinh
Theo ông Leu, trước năm 2015, khái niệm “nông nghiệp tái sinh” hầu như ít được nhắc tới. Thế nhưng chỉ sau một thập kỷ, nó đã trở thành thuật ngữ phổ biến trên báo chí toàn cầu, gắn liền với những thảo luận về môi trường, biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.
Năm 2015, các nhà lãnh đạo của nhiều phong trào hữu cơ, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp tổng hợp, các phong trào môi trường, sức khỏe tự nhiên đã thành lập RI. Ban chỉ đạo sáng lập gồm TS Vandana Shiva, Ronnie Cummins, TS. Hans Herren, Steve Rye và GS.TS André Leu. Sau 10 năm, hiện RI đã mở rộng tới 680 đối tác ở 80 quốc gia, trở thành một mạng lưới hợp tác toàn cầu có sức ảnh hưởng lớn.
GS.TS André Leu, Giám đốc Quốc tế của Tổ chức Regeneration International, nguyên Chủ tịch IFOAM quốc tế (Organics International) cho rằng, việc chuyển đổi khỏi nông nghiệp công nghiệp là yêu cầu cấp thiết. Ảnh: Hồng Thắm.
Ông Leu chỉ rõ, nông nghiệp công nghiệp là mối đe dọa hiện hữu đối với hành tinh do bản chất thoái hóa tự nhiên của nó. Đây là nguyên nhân của 80% tình trạng phá rừng và mất đa dạng sinh học, đồng thời là nguồn phát thải khí nhà kính lớn. Hệ thống chăn nuôi công nghiệp tiêu tốn tới 10 kg protein thực vật để sản xuất 1 kg protein động vật, vừa kém hiệu quả vừa tàn phá môi trường.
Bên cạnh đó, việc lạm dụng thuốc BVTV và phân bón hóa học đã để lại những hậu quả nặng nề cho sức khỏe con người và hệ sinh thái. Vì vậy theo ông, việc chuyển đổi khỏi nông nghiệp công nghiệp là yêu cầu cấp thiết nhằm bảo vệ sức khỏe của con người và phúc lợi của tất cả loài khác trong hành tinh này.
Tiêu chuẩn tái sinh quốc tế và lộ trình chuyển đổi
Một trong những định hướng then chốt mà ông Leu nhắc tới là khái niệm “hữu cơ 3.0 – Organic 3.0”, coi nông nghiệp hữu cơ như một “ngọn hải đăng” dẫn dắt sự thay đổi, góp phần nâng cao tính bền vững của các hệ thống nông nghiệp chính thống.
Tuy nhiên trong quá trình triển khai hợp tác, ông và đồng sự cũng vấp phải sự phản đối mạnh mẽ nông nghiệp hữu cơ, đặc biệt là những mô hình sản xuất đã đạt được chứng nhận hữu cơ.
Nếu chọn các từ như “hữu cơ” hay “nông nghiệp sinh thái” sẽ có nhiều ý kiến của các bên liên quan tiềm năng, chẳng hạn như nông lâm kết hợp, canh tác tổng hợp, canh tác bền vững… Vì vậy, RI đã chọn thuật ngữ “tái sinh” (regenerative) – một khái niệm rõ ràng, trung lập, giúp tiếp cận nông dân và các bên liên quan một cách cởi mở. “Tái sinh” cũng là khái niệm có sức cộng hưởng sâu sắc với hầu hết mọi người.
Nông nghiệp tái sinh là phương pháp canh tác bền vững nhằm phục hồi và nâng cao chất lượng đất đai, độ phì nhiêu, đa dạng sinh học, nguồn nước và hệ sinh thái tổng thể. Ảnh: RI.
Hiện nay, nông nghiệp tái sinh đã được nông dân, các tổ chức nông dân, tập đoàn thực phẩm, dệt may và nhiều chính phủ trên thế giới ủng hộ. Đáng chú ý, phong trào này không khởi phát từ các tập đoàn hay học giả mà được thúc đẩy bởi chính nông dân – những người trực tiếp đối mặt với thách thức của biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường.
Một điểm nhấn khác trong bài trình bày của ông Leu là Tiêu chuẩn tái sinh quốc tế của RI được công bố vào tháng 3/2025.
Ông Leu cho hay, lý do đưa ra tiêu chuẩn mới là bởi bang California (Mỹ) từng ban hành định nghĩa về nông nghiệp tái sinh nhưng lại cho phép sử dụng hóa chất độc hại và sinh vật biến đổi gen – đi ngược với tinh thần “tái sinh”.
Theo tiêu chuẩn RI, người sản xuất nông nghiệp tái sinh có thể được chứng nhận ở hai cấp độ. Một là nông nghiệp tái sinh hạng A – đáp ứng tất cả yêu cầu. Hai là nông nghiệp tái sinh trong giai đoạn chuyển đổi – đang trong quá trình đáp ứng tất cả yêu cầu.
Không có thời hạn cụ thể nào cho các nhà thực hành tiêu chuẩn để tiến tới chứng nhận nông nghiệp tái sinh hạng A. Tuy nhiên, tất cả các nhà thực hành được chứng nhận nông nghiệp tái sinh trong giai đoạn chuyển đổi phải nêu rõ khung thời gian và phương pháp để loại bỏ các đầu vào và thực hành bị cấm. Điều này cần được xem xét lại hàng năm, tập trung vào việc cải tiến liên tục.
Ông Leu nhấn mạnh: “Chúng tôi khuyến khích nông dân thực hiện bước đi đầu tiên hướng tới sự thay đổi tích cực. Đây thường là khía cạnh khó khăn nhất trong bất kỳ quá trình chuyển đổi nào. Theo nghiên cứu của chúng tôi, một trong những nguyên nhân chính khiến nhiều nông dân e ngại khi tham gia sản xuất hữu cơ có chứng nhận đó là yêu cầu về giai đoạn chuyển đổi kéo dài 3 năm”.
“Với tiêu chuẩn của chúng tôi, người sản xuất có thể dễ dàng đạt chứng nhận tái sinh trong giai đoạn chuyển đổi. Do đó, chúng tôi đã giúp nông dân bắt đầu hành trình trở thành tái sinh một cách đơn giản, với mục tiêu cuối cùng là đạt được chứng nhận tái sinh hạng A”, ông Leu nói thêm.
GS.TS André Leu hiện là Giám đốc Quốc tế của Tổ chức Regeneration International (RI) từ năm 2017. Trước đó, ông từng giữ chức Chủ tịch IFOAM quốc tế (Organics International) từ năm 2011 đến 2017 – một tổ chức đại diện toàn cầu duy nhất cho lĩnh vực nông nghiệp hữu cơ. Ông là chuyên gia hàng đầu về hệ thống canh tác sinh thái dựa trên tự nhiên với hơn 50 năm kinh nghiệm làm nông nghiệp hữu cơ theo hướng tái sinh, tập trung vào nông sinh thái (agroecology).
Khi tới nhiều nước vùng Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, bạn thường được mời thưởng thức những ly trà tuyệt đỉnh, những sản phẩm trà có hạn sử dụng lên tới hàng chục năm và họ tự hào về “văn hóa thưởng trà” của mình. Việt Nam có làm được điều đó không? Cao trà Mục Nhan phải chăng là một câu trả lời cho bạn.
Hội đồng khoa học “Đánh giá tư vấn và định hướng phát triển Cao trà Mục Nhan cho Công ty Cổ phần Thương mại và dịch vụ nông nghiệp Vườn Táo Cổ”
Sản phẩm này được Hội đồng khoa học đánh giá, tư vấn và đề ra đinh hướng phát triển trong thời gian tới cho Công ty Cổ phần Thương mại và dịch vụ nông nghiệp Vườn Táo Cổ vào ngày 6/9/2025 tại Phòng họp 102, số 24 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Hội đồng gồm các chuyên gia khoa học công nghệ: PGS.TS Trần Mạnh Trí – Chủ tịch Hội đồng, PGS.TS Đỗ Thị Việt Hương – Chuyên gia Hóa học, TS Phạm Đình Nam – Chuyên gia Kinh tế nông nghiệp, ThS Đào Văn Núi – Chuyên gia dược liệu, KS Phùng Văn Chung – Chuyên gia cấp chứng chỉ nông nghiệp; TS Nguyễn Hồng Hạnh, TS Nguyễn Thị Ngọc Dinh đều là các nhà khoa học hàng đầu Việt Nam hiện nay trên lĩnh vực khoa học công nghệ và nông nghiệp.
Tại đây, chị Lê Thị Hoa, Giám đốc Công ty Cổ phần Thương mại và dịch vụ nông nghiệp Vườn Táo Cổ đã nêu mục đích và ý nghĩa của việc sản xuất Cao tra Mục Nhan. Theo đó giới thiệu đây là sản phẩm Cao trà đầu tiên tại Việt Nam và xác lập kỷ lục có hàm lượng polyphenol lên tới 45,1%, cao nhất trong các loại trà thương mại hiện nay trên thị trường trong nước. Để có được thành công này, chính chị Hoa đã sang Trung Quốc học hỏi công nghệ sản xuất các loại trà được xem là “tuyệt đỉnh” của đất nước này: Không chỉ là hương vị, không chỉ là khả năng lưu hương và tuổi thọ của sản phẩm, các loại trà này còn là dược liệu chữa bệnh, tạo cảm giác thư thái cho người sử dụng, sảng khoái nhưng không làm mất ngủ. Tóm lại, thưởng trà không chỉ là thú chơi mà còn là một nét văn hóa thanh lịch và có lợi cho sức khỏe. Tuy nhiên các sản phẩm này hầu như chỉ phục vụ cho tầng lớp có thu nhập cao vì giá thành rất đắt, lên tới hàng ngàn nhân dân tệ một ấm trà (tức là khoảng 5-10 triệu đồng) và tất nhiên, nguyên liệu để sản xuất ra những loại trà “tuyệt đỉnh” này không hề rẻ. Sau khoảng thời gian dài theo đuổi công nghệ sản xuất trà, chị Hoa đã phát hiện vùng núi phía Bắc nước ta có những gốc trà cổ hàng trăm tuổi có chất lượng tương đương hoặc tốt hơn của Trung Quốc với giá thành rẻ hơn hẳn. Chị đã áp dụng công nghệ mình học được và sản xuất thành công “Cao trà Mục Nhan”, từ đó mở rộng sang các loại trà độc đáo khác như Trà San Tuyết Mục Nhan, Trà Vàng Cổ Thụ Mục Nhan hay Trà Ô Long Mục Nhan. Các sản phẩm này có chất lượng không hề kém so với trà “tuyệt đỉnh” của Trung Quốc, chưa kể một số thành phần hữu ích trong sản phẩm có tỷ lệ còn cao hơn, đặc biệt là polyphenol, với đỉnh cao là 45,1% trong Cao trà Mục Nhan và được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục này vào ngày 02/04/2025 vừa qua. Kỷ lục này có ý nghĩa vô cùng to lớn khi polyphenol chất chống oxy hoá mạnh mẽ, có khả năng trung hòa gốc tự do, hỗ trợ phòng ngừa ung thư, làm chậm quá trình lão hoá tế bào và tỷ lệ này trong trà tự nhiên chỉ khoảng 10-18%, đối với trà thương mại bằng công nghệ hiện đại nhất hiện nay cũng chỉ đạt dưới 40%. Ngoài ra Cao trà Mục Nhan cũng có hàm lượng catechin (có tính năng phòng ngừa ung thu và giảm lão hóa tế bào tương tự polyphenol) khá cao, lên tới 19,9% và không bị biến đổi theo nhiệt độ, do đó có thể pha trà với nước nóng 95-100 độ mà trà không bị biến chất, có thể pha với nước ấm dùng luôn cũng được. Do nguyên liệu rẻ và tự sản xuất trong nước, Cao trà Mục Nhan hiện nay có giá chỉ bằng 1/10 so với trà cao cấp của Trung Quốc, với độ đậm đặc cực cao, một viên Cao trà đường kính khoảng 2cm có thể pha được 25 ấm trà, trong đó vùng ngon nhất ở các lượt pha thứ 9 đến 12.
Chị Lê Thị Hoa giới thiệu sản phẩm Cao trà Mục Nhan và các loại trà của Công ty Cổ phần Thương mại và dịch vụ nông nghiệp Vườn Táo Cổ
Như vậy chúng ta hoàn toàn có thể sản xuất được “tuyệt đỉnh Cao trà” với chất lượng tương đương các loại trà cao cấp nhất của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc mà giá thành thấp hơn rất nhiều và có thể đa dạng hóa sản phẩm theo nhu cầu sử dụng. Cao trà Mục Nhan không chỉ là sản phẩm tiên phong, hơn thế, còn xác lập kỷ lục quốc gia về thành phần có lợi cho sức khỏe, được quan tâm nhất hiện nay đó là chống lão hóa và phòng ngừa ung thư: chất polyphenol.
Xác lập kỷ lục Cao trà có hàm lượng polyphenol cao nhất tại Việt Nam
Đánh giá sản phẩm này, sau khi thưởng thức thực tế tại cuộc họp, TS. Nguyễn Thị Ngọc Dinh, người tự nhận mình là “nghiện trà” cho rằng đây là một sản phẩm tuyệt vời mà lần đầu chị được thưởng thức và mong muốn sản phẩm này sẽ được biết đến nhiều hơn. TS. Dinh góp ý, để làm được điều này, Công ty Cổ phần Thương mại và dịch vụ nông nghiệp Vườn Táo Cổ – đơn vị sản xuất Cao trà Mục Nhan cần bổ sung thêm kết quả phân tích y sinh, bổ sung kế hoạch lấy mẫu, kiểm nghiệm sản phẩm để nâng cao chất lượng và đảm bảo tính an toàn cho sức khỏe con người về mặt pháp lý.
TS Nguyễn Hồng Hạnh góp ý nên có mã QR kể câu chuyện về từng loại trà phù hợp với xu hướng thưởng trà hiện nay. PGS.TS Đỗ Thị Việt Hương bổ sung cảm quan về các sản phầm trà để nâng cao ý nghĩa của sản phẩm về mặt văn hóa và lợi ích sức khỏe cho người sử dụng. Theo TS. Hương, nên bổ sung thêm các thông số kỹ thuật như nhiệt độ, độ ẩm… trong quy trình sản xuất cũng như hướng dẫn sử dụng. ThS Đào Văn Núi cho rẳng doanh nghiệm nên bổ sung tiêu chuẩn cơ sở cho vùng nguyên liệu còn KS Phùng Văn Chung tư vấn doanh nghiệp về các chứng chỉ nông nghiệp đáp ứng TCVN, QCVN để sản phẩm được công nhận rộng rãi hơn.
Phát biểu tại cuộc họp, TS Phạm Đình Nam, Viện trưởng VITAD-AGRI đề nghị Công ty Cổ phần Thương mại và dịch vụ nông nghiệp Vườn Táo Cổ nên có phương án tốt cho việc phát triển vùng nguyên liệu, để bà con nông dân – chủ các cây trà cổ – có thể phát triển nguyên liệu nhiều hơn, tốt hơn, bán với giá cao hơn, sống tốt và tiến tới làm giàu nhờ nguyên liệu mình trồng.
TS. Phạm Đình Nam – chuyên gia Kinh tế Nông nghiệp – phát biểu tại cuộc họp
PGS.TS Trần Mạnh Trí, Chủ tịch hội đồng đã tổng hợp ý kiến của các chuyên gia, đánh giá cao Cao trà Mục Nhan, tin tưởng sản phẩm này sẽ phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. Ông cũng hứa với doanh nghiệp sẽ có những kiến nghị lên các cấp hỗ trợ bà con phát triển vùng nguyên liệu cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất sản phẩm có lợi cho sức khỏe mà đậm đà tính văn hóa này.
PGS.TS Trần Mạnh Trí – Chủ tịch Hội tổng hợp ý kiến của các thành viên Hội đồng khoa học
Theo ông, việc phát triển các sản phẩm trà của Công ty Cổ phần Thương mại và dịch vụ nông nghiệp Vườn Táo Cổ hoàn toàn khả thi và trong tương lai gần, các loại trà, đặc biệt là Cao trà Mục Nhan sẽ là thức uống tuyệt vời, là món quà quý giá và quen thuộc của người lữ hành, dễ mang theo sử dụng khi du lịch cũng như làm quà cho gia đình, người thân và cùng với sự nghiên cứu, đổi mới về công nghệ, những kỷ lục mới cũng sẽ được xác lập.
Hội đồng khoa học cam kết đồng hành cùng Công ty Cổ phần Thương mại và dịch vụ nông nghiệp Vườn Táo Cổ trong quá trình phát triển các sản phẩm trà, đặc biệt là Cao trà Mục Nhan
Gấp rút hoàn thành công tác trưng bày cho Triển lãm thành tựu ngành Nông nghiệp và Môi trường. Ảnh: Linh Linh.
Chiều 25/8, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến chủ trì cuộc họp với lãnh đạo các đơn vị trực thuộc về công tác chuẩn bị cho Triển lãm thành tựu ngành Nông nghiệp và Môi trường.
Theo báo cáo, các đơn vị đã cơ bản hoàn tất khung thiết kế, bố cục trưng bày và đang gấp rút hoàn thiện các hạng mục để kịp tiến độ. Nhiều ý kiến đề xuất triển lãm cần tạo điểm nhấn rõ ràng, lựa chọn các sản phẩm, mô hình tiêu biểu nhất của ngành, đồng thời nhấn mạnh về nội dung về khoa học công nghệ, chuyển đổi số, bảo vệ môi trường, bên cạnh trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, thủy lợi và lâm nghiệp.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến yêu cầu các đơn vị rà soát, sắp xếp để Triển lãm thể hiện rõ dấu ấn 80 năm của ngành. Ảnh: Linh Linh.
Tại cuộc họp, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh yêu cầu cao về chất lượng trưng bày. Theo Thứ trưởng, triển lãm lần này là dịp đặc biệt để tái hiện hành trình 80 năm phát triển của ngành, từ những năm tháng khó khăn thiếu đói đến thành tựu hôm nay khi nông nghiệp trở thành trụ đỡ của nền kinh tế với kim ngạch xuất khẩu hàng chục tỷ USD cũng như môi trường – là một trong ba trụ cột phát triển bền vững của đất nước (kinh tế – xã hội – môi trường).
Thứ trưởng đề nghị các đơn vị rà soát kỹ, phân khu trưng bày theo các giai đoạn lịch sử và thành tựu nổi bật của từng lĩnh vực. Trồng trọt cần thể hiện rõ bước chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ sang nền nông nghiệp hàng hóa, với các sản phẩm tỷ đô như gạo, cà phê, rau quả. Chăn nuôi phải phản ánh sự phát triển từ quy mô hộ gia đình đến trang trại công nghệ cao, bảo đảm an toàn sinh học. Thủy sản cần có cả hình ảnh khai thác và nuôi trồng, thể hiện vai trò của ngư dân và thành tựu xuất khẩu. Lâm nghiệp giới thiệu giống cây, sản phẩm gỗ, tín chỉ carbon, mô hình rừng đa dụng. Lĩnh vực thủy lợi trưng bày các công trình tiêu biểu đã góp phần quan trọng vào an ninh lương thực và kiểm soát thiên tai. Môi trường và khoa học công nghệ phải được lồng ghép xuyên suốt, với các mô hình quan trắc, xử lý chất thải, công nghệ sinh học, vaccine…
Chiều 25/8, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến chủ trì cuộc họp với lãnh đạo các đơn vị trực thuộc về công tác chuẩn bị cho Triển lãm thành tựu ngành Nông nghiệp và Môi trường. Ảnh: Linh Linh.
“Triển lãm phải toát lên được dấu ấn 80 năm, vừa khẳng định truyền thống, vừa thể hiện bước tiến mới, đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên hiện đại. Các đơn vị cần phối hợp chặt chẽ, chọn lọc tinh gọn, sắp xếp khoa học, để khách tham quan dễ dàng cảm nhận được những thành tựu nổi bật nhất của ngành”, Thứ trưởng nói.
Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng lưu ý, bên cạnh hiện vật, hình ảnh và phim tư liệu phải được thiết kế hợp lý, giúp truyền tải sinh động tới công chúng và báo chí. Các sản phẩm OCOP, làng nghề truyền thống sẽ được trưng bày như nền tảng bổ trợ, tạo sự phong phú bên cạnh những thành tựu then chốt của ngành.
Triển lãm thành tựu ngành Nông nghiệp và Môi trường dự kiến khai mạc từ 28/8 đến 5/9 tại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Quốc gia, xã Đông Anh, Hà Nội, trong khuôn khổ Triển lãm thành tựu kinh tế – xã hội đất nước kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9. Với diện tích hàng trăm mét vuông, không gian trưng bày được bố trí thành các khu chuyên đề, tái hiện hành trình phát triển của ngành qua từng giai đoạn lịch sử, từ thời kỳ kháng chiến, bao cấp, đến công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế.
Những thành tựu khoa học công nghệ gắn với các lĩnh vực sẽ được trưng bày tại Triển lãm. Ảnh: Linh Linh.
Hàng trăm sản phẩm, mô hình, hình ảnh, phim tư liệu sẽ được giới thiệu, trong đó có những điểm nhấn đặc sắc như cây cà phê Tây Nguyên thật, mô hình rừng đa dụng, công trình thủy lợi tiêu biểu, sản phẩm gỗ và tín chỉ carbon, cùng các ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số và mô hình xử lý môi trường.
Triển lãm được tổ chức song song trên nền tảng trực tuyến với công nghệ 3D, VR, kéo dài đến tháng 8/2026, tạo điều kiện để đông đảo người dân và bạn bè quốc tế cùng tham quan, tương tác. Đây không chỉ là dịp để nhìn lại những thành tựu nổi bật của nông nghiệp, nông thôn, nông dân và môi trường trong 80 năm qua, mà còn khẳng định quyết tâm đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững của ngành trong giai đoạn tới.
Vừa qua, Viện Ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam (Vitad – Agri) đã họp với đối tác đến từ tập đoàn dược phẩm Bayer (Đức) về loại cây trồng tạo ra “đường không năng lượng” này.
Viện trưởng Phạm Đình Nam gặp gỡ Mr Hoàng Mộc Kiên và Mr Uber Thom về nguồn cung cấp dược liệu
Theo đó, ngày nay, tình trạng các bệnh liên quan đến việc thừa đường trong cơ thể người diễn ra khá nghiêm trọng, ảnh hưởng lâu dài tới sức khỏe, thậm chí có thể gây tai biến cho con người, nhất là bệnh tiểu đường đối với người cao tuổi. Chính vì vậy các sản phẩm ngọt nhưng không chứa đường, hay chính xác hơn là sử dụng “đường không năng lượng” được người dùng ngày càng ưa chuộng. Một trong những sản phẩm đó là các loại nước uống, các thực phẩm chức năng có vị ngọt nhưng không chứa đường.
Đường cỏ ngọt cho người ăn kiêng
Làm một phép so sánh nho nhỏ, chúng ta có thể thấy lợi ích rất lớn từ loại “đường không năng lượng” này. Khi sử dụng chế phẩm dùng đường cỏ ngọt cho người ăn kiêng và cả người bình thường đều có thể ngăn ngừa tiểu đường và các căn bệnh khác liên quan đến đường mà vẫn đảm bảo sức khỏe và vị ngon. Coca Cola cũng đã áp dụng đường cỏ ngọt cho sản phẩm của mình, gọi là “Coca Cola light” có vị ngọt gần giống hương vị Cola truyền thống. Sản phẩm này có thể dùng cho người mắc bệnh tiểu đường.
Ưu điểm của đường không năng lượng
Cây đường có ngọt khá dễ trồng và có thể thu hoạch chỉ sau hơn 1 tháng bằng cách hái lá mà không làm hư hại đến cây. Đây là giống cây trồng có suất lợi nhuận lớn và thời gian thu hồi vốn nhanh. Các sản phầm từ đường cỏ ngọt càng ngày càng được thị trường ưa chuộng, chẳng hạn các loại trà, các loại nước giải khát…
Trà cỏ ngọt – một loại thức uống được giới trẻ ngày nay và người ăn kiêng ưa chuộng
Tập đoàn dược phẩm Bayer (Đức) là một tập đoàn rất lớn của CHLB Đức, chuyên cung cấp các dược phẩm tự nhiên có lợi cho sức khỏe con người và rất quan tâm đến loại cây chế xuất ra “đường không năng lượng” này. Đây là cơ hội giúp bà con nông dân có thêm một loại cây trồng hiệu quả cao và là cơ hội hợp tác của các doanh nghiệp trong nước với một tập đoàn dược phẩm hàng đầu thế giới. Viện Ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam (Vitad – Agri) đã có chiến lược hợp tác lâu dài, sẵn sàng làm đầu mối liên kết giữa bà con nông dân và các doanh nghiệp chế biến nông sản trong nước với Tập đoàn Bayer trong việc thử nghiệm, kiểm nghiệm và xin cấp giấy chứng nhận VIETGAP, OCOP cho các sản phẩm “đường không năng lượng” chế biến từ cây đường cỏ ngọt, tiến tới chứng nhận hữu cơ cho các chế phẩm cơ lợi cho sức khỏe này.
Trụ sở và vùng trồng của Tập đoàn Bayer (Đức)
Quý vị có thể liên hệ với Viện Ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam (Vitad – Agri) thông qua website này, hoặc số điện thoại +84 912217468 để phát triển giống cây trồng đường cỏ ngọt này.
ĐÀ NẴNG – Tận dụng lợi thế địa phương và tư duy sáng tạo, nhiều nông dân Đà Nẵng đang từng bước làm giàu từ mô hình nông nghiệp tuần hoàn, chi phí thấp mà hiệu quả cao.
Gần 15 năm gắn bó với nghề nông, chị Nguyễn Thị Nhinh (thôn An Châu, xã Hòa Vang) đã xây dựng thành công mô hình nông nghiệp tuần hoàn cho hiệu quả cao. Xuất phát điểm chỉ với vài nghìn mét vuông đất và 8 con dê giống được địa phương hỗ trợ vào năm 2010, đến nay, chị đã sở hữu trang trại rộng gần 2 ha kết hợp trồng trọt và chăn nuôi.
Chị Nguyễn Thị Nhinh chăm sóc đàn dê tại trang trại chăn nuôi kết hợp trồng trọt theo mô hình tuần hoàn ở xã Hòa Vang, TP Đà Nẵng. Ảnh: Phạm Huy.
Ban đầu, chị Nhinh trồng thanh long ruột đỏ trên diện tích 1.000 m² và chăn nuôi dê theo hướng tự nhiên. Nhận thấy tiềm năng phát triển, chị mạnh dạn vay 370 triệu đồng từ ngân hàng và tổ phụ nữ thôn để mở rộng quy mô sản xuất, mua thêm bò, xây chuồng trại, trồng thêm các loại cây có giá trị như mãng cầu, chuối lùn, rau ăn lá…
Đặc biệt từ năm 2017, chị quyết định chuyển đổi toàn bộ diện tích trồng cây kém hiệu quả sang trồng cỏ làm thức ăn cho vật nuôi. Song song đó, chị đầu tư xây 12 bể với diện tích 100 m² để nuôi trùn quế để vừa xử lý phân bò, phân dê, vừa tạo ra nguồn đạm tự nhiên cho vật nuôi.
Hiện trang trại của chị có hơn 100 con dê, 5 con bò, hơn 200 con gà, hơn 1 ha trồng cỏ và 200 m² trồng rau các loại. Trung bình 3 tháng chị thu 4 tạ phân chuồng để nuôi trùn quế. Mỗi năm, 12 bể trùn quế cho 5 đợt thu hoạch với sản lượng khoảng 180 kg/đợt. Trùn quế được dùng làm thức ăn cho gà, dê, bò, phần còn lại bán ra thị trường với giá 70.000 đồng/kg giun và 2.000 đồng/kg phân.
“Mô hình này giúp tôi giảm đáng kể chi phí thức ăn, tăng giá trị sản phẩm và hạn chế ô nhiễm môi trường. Dù thị trường biến động tôi vẫn có nguồn thu ổn định. Doanh thu trung bình mỗi năm từ 250 – 300 triệu đồng, sau khi trừ chi phí còn lãi ròng 130 – 150 triệu đồng”, chị Nhinh chia sẻ.
Sâu canxi góp phần tái chế phế phẩm nông nghiệp, tạo nguồn thức ăn sạch và thân thiện với môi trường. Ảnh: Phạm Huy.
Thời gian tới, chị dự định mở rộng quy mô chăn nuôi, cải tạo chuồng trại, đưa cơ giới hóa vào sản xuất để nâng cao năng suất và giữ gìn vệ sinh môi trường.
Anh Nguyễn Quang Phú ở phường Hòa Khánh thì chọn hướng đi mới là đầu tư nuôi sâu canxi – sinh vật có vòng đời ngắn, ít tốn chi phí nhưng mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Sâu canxi là ấu trùng của ruồi lính đen, có giá trị cao trong chăn nuôi. Giai đoạn trưởng thành hoặc sau lột xác, sâu để lại lớp vỏ chứa hàm lượng canxi dồi dào. Cả sâu và vỏ đều có thể làm thức ăn giàu dinh dưỡng cho gia súc, gia cầm.
Bắt đầu từ năm 2023, anh Phú đầu tư mô hình nuôi sâu canxi trên diện tích 100 m². Dù gặp không ít khó khăn do giai đoạn đầu sâu bò ra khỏi khay, chết bất thường, song anh vẫn kiên trì nghiên cứu, điều chỉnh điều kiện nuôi, nhiệt độ và thức ăn phù hợp.
Cơ sở vật chất để nuôi sâu khá đơn giản. Khay nuôi ấu trùng, lồng nuôi ruồi rộng khoảng 15 m³, khung sắt bọc vải mùng để ruồi giao phối và đẻ trứng. Trung bình 1 gram trứng sâu sẽ cho ra 2,5 – 3 kg sâu sau 15 – 20 ngày. Với 1 kg trứng mỗi năm, anh thu được khoảng 2,5 – 3 tấn sâu canxi. Giá bán 30 gram trứng là 170.000 đồng, 1 kg sâu 30.000 đồng, 1 kg phân sâu 7.000 đồng.
Khu nuôi trùn quế – một phần trong mô hình nông nghiệp tuần hoàn giúp tái sử dụng nguồn phân chuồng hiệu quả. Ảnh: Phạm Huy.
“Tôi quyết định gắn bó với mô hình này vì thấy rõ lợi ích kép, vừa xử lý được phế phẩm nông nghiệp, vừa làm thức ăn sạch, giàu dinh dưỡng cho vật nuôi. Gia đình tôi nuôi nhiều gà, vịt, từ khi dùng sâu canxi làm thức ăn, vật nuôi ít bệnh, chất lượng thịt ngon hơn, chi phí thức ăn giảm tới 70 – 80%”, anh Phú cho biết.
Hiện mỗi tháng anh Phú có thu nhập ổn định khoảng 8 – 10 triệu đồng từ việc bán trứng sâu, sâu trưởng thành và phân sâu. Đây là mô hình phù hợp với diện tích nhỏ, dễ nhân rộng, đặc biệt ở các khu vực đô thị có quỹ đất hạn chế.
Từ hai mô hình thực tế của chị Nhinh và anh Phú, có thể thấy phát triển nông nghiệp theo hướng tuần hoàn, tối ưu chi phí đang mở ra hướng đi hiệu quả cho nông dân Đà Nẵng. Không chỉ giúp nâng cao thu nhập cho hộ gia đình, mô hình còn góp phần bảo vệ môi trường, tạo ra sản phẩm an toàn, giàu dinh dưỡng.
Trong bối cảnh đô thị hóa ngày càng tăng, đất sản xuất ngày càng thu hẹp, những mô hình sử dụng hợp lý diện tích và nguồn lực như trên cần được nhân rộng, hỗ trợ kỹ thuật, kết nối tiêu thụ và truyền thông mạnh mẽ, hướng đến nền nông nghiệp xanh, thông minh và phát triển bền vững.
Vải u trứng trắng ở Thanh Hà, tỉnh Hải Dương đang được nhiều khách hàng đặt mua 100.000 đồng/kg, mức giá cao nhất trong các loại vải của địa phương này.
Hiện nay, huyện Thanh Hà đã có một số hộ thu hoạch vải u trứng trắng. Chính quyền địa phương đã khuyến cáo người dân thu hoạch vải khi đã bảo đảm độ chín, để vải đạt chất lượng cao nhất. Vải u trứng trắng sẽ cho thu hoạch đúng thời điểm vào tuần tới.
Vải u trứng trắng sẽ cho thu hoạch rộ vào tuần tới. Ảnh: Minh họa.
Do trà vải u trứng trắng sản lượng không nhiều và cho thu hoạch sớm nhất, nên giá bán cao. Nhiều hộ có vải u trứng trắng cho biết nhiều khách quen đã đặt mua trước với giá 100.000 đồng/kg, cao hơn vải thiều chính vụ khoảng 40.000 đồng/kg.
Vải u trứng trắng có vị thơm, cùi dầy, quả to, mọng. Loại vải này sản lượng không lớn như các loại vải u hồng, u gai, tàu lai và vải thiều chính vụ.
Huyện Thanh Hà hiện có 3.285 ha vải, trong đó có khoảng 1.900 ha vải sớm trồng tập trung ở khu Hà Đông. Năm nay do ảnh hưởng của thời tiết lạnh kéo dài nên các trà vải cho thu hoạch muộn hơn khoảng 10 ngày.
Hà Tĩnh xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ theo chuỗi giá trị để nhân ra diện rộng; hình thành hệ thống cung ứng vật tư đầu cho sản xuất.
Bí thư Huyện ủy Nghi Xuân, Hà Tĩnh Đặng Trần Phong giúp đỡ tôi lăn lộn với những chuyển dịch đang ầm thầm thay đổi trên cánh đồng. Nơi tôi đến đầu tiên là Hợp tác xã nông nghiệp (HTX) Thống Nhất, của xã Xuân Lam. Làm nông nghiệp hữu cơ (NNHC) nông dân được nhiều cái lợi, hạt gạo gia tăng giá trị, cánh đồng đã trở lại là nơi đa dạng sinh học.
“Cổ tích” đã trở lại
Chủ nhiệm HTX Thống Nhất Bùi Văn Chiến dẫn tôi ra cánh đồng. Nhiều nông dân đang bón phân cho lúa. HTX Thống Nhất này có 218 ha đất nông nghiệp. Toàn HTX có hơn 690 xã viên, đều là những nông dân giỏi giang, cần cù.
Hà Tĩnh nói chung, trong đó có Nghi Xuân từ nhiều năm trước đã vận động nông dân thực hiện cuộc dồn điền đổi thửa. Không dồn, không sử dụng được máy móc, ứng dụng khoa học kỹ thuật. Bây giờ đồng ruộng Nghi Xuân thẳng cánh cò bay.
– Anh thử tính, một công cấy bây giờ 400.000 đ, trong khi thuê máy cấy chỉ mất 120.000 đ/sào; trong khi 2 thợ cấy trong ngày mới xong 1 sào. Bùi Văn Chiến nói, người nông dân tính được ngay hơn, thiệt. Từ đó họ ủng hộ, không mất công vận động như trước.
Chủ nhiệm Hợp tác xã Thống Nhất, Bùi Văn Chiến (phải) giới thiệu về trồng lúa hữu cơ
Theo Bùi Văn Chiến, trong số 218 ha, Thống Nhất có 10 ha cấy lúa, nuôi rươi. Từ năm 2022, bà con nông dân bắt đầu cải tạo đất. Con rươi, không hề dễ tính.
Theo anh Chiến, để cải tạo được 10 ha đó, mỗi nhà nông phải đầu tư vốn từ 1 đến 1,5 tỷ đồng. Hói Ải của xóm Minh Tân là nơi dẫn nước từ sông Lam về làm mát ngọt cánh đồng, và tạo môi trường cho rươi sinh trưởng. Nghề nào cũng phải công phu, tảo tần. Ngoài kinh phí cải tạo đất là mương dẫn nước, lắp cửa cống, sử dụng mùn hữu cơ bón lót dưới ruộng…Và phải học, không thầy đố mày làm nên, như thành ngữ Việt và việc ứng dụng tri thức mới.
“Sản xuất lúa kết hợp nuôi rươi theo hướng hữu cơ”, mô hình ngày càng lan tỏa, không riêng ở Nghi Xuân, mà nhiều nơi ở Hà Tĩnh. Năm 2022 nông dân Hà Tĩnh, trong đó có Nghi Xuân bắt đầu thực hiện chủ trương sản xuất lúa hàng hóa theo hướng hữu cơ. Sau đó tỉnh hoàn thiện Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2024 – 2030. Đề án đặt mục tiêu đến năm 2030, diện tích đất trồng trọt hữu cơ đạt 2.500 ha.
Để thực hiện được mục tiêu này, Hà Tĩnh xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ theo chuỗi giá trị để nhân ra diện rộng; hình thành hệ thống cung ứng vật tư đầu vào và dịch vụ cho sản xuất; phát triển các hình thức tổ chức sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm; tăng cường quản lý nhà nước về nông nghiệp hữu cơ…
Anh Bùi Văn Chiến tâm đắc, không chỉ chủ trương mà kỹ thuật nằm lòng. Sau khi tiến hành sản xuất hoàn toàn theo hướng hữu cơ, ai dùng thuốc bảo vệ thực vật thì rươi xuất hiện và phát triển khá nhanh. Các loại sinh vật sống ở ruộng như: niềng niễng, cà cuống, cáy… được tái sinh; các loại ốc, cá, cua đồng cũng xuất hiện ngày càng nhiều. Một thời bị hủy diệt, bây giờ “cổ tích” đã xuất hiện.
– Truyền thông kết hợp với hướng dẫn ngay đầu bờ, anh à, Bùi Văn Chiến khẳng định. Về phía huyện Nghi Xuân, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện rất chú trọng công tác đào tạo, tập huấn, xây dựng nguồn nhân lực để triển khai nông nghiệp hữu cơ, kinh tế tuần hoàn.
Phác thảo một “không gian”
Nghi Xuân có gì? Nghi Xuân không chỉ có biển, đồng bằng mà có nhiều tiềm năng phi vật thể, tạo ra dư địa phát triển.
Nói về tự nhiên, địa hình, địa mạo, trên có núi Hồng, dưới có sông Lam, khi mở rộng phát triển sẽ tiếp cận với vùng ven biển tạo nên địa thế của đô thị “sơn, thủy hữu tình”. Khi đó Nghi Xuân sẽ là điểm nhấn, đối xứng với TP. Vinh, trung tâm văn hóa, chính trị và du lịch của tỉnh Nghệ An qua trục sông Lam.
Đây là vùng địa linh, nhân kiệt, quê hương của Đại thi hào Nguyễn Du, danh nhân văn hóa thế giới và nhà văn hóa, quân sự, chính trị Nguyễn Công Trứ, quê hương của ca trù Cổ Đạm. Nói không ngoa, đây là điểm kết nối lý tưởng với các địa danh du lịch, các địa danh lịch sử của cả tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
Nông dân bón phân hữu cơ trên thuở ruộng lúa – rươi.
GS.TS. Trần Đình Hòa, Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, tác giả của đề án “Sử dụng đa mục tiêu Tài nguyên nước gắn với du lịch sinh thái, cội nguồn văn hóa tỉnh Hà Tĩnh”, trong đó có phần nói về Nghi Xuân.
Theo đề án ông đề xuất, nên lựa chọn, bổ sung vùng đô thị Nghi Xuân thành một “Đô thị cội nguồn văn hóa” theo hướng lấy nguồn nước làm trung tâm, tái tạo lại các hoạt động lao động, sản xuất và văn hóa lịch sử truyền thống ngày xưa làm điểm đến cho hình thức du lịch văn hóa trải nghiệm.
Hiện nay Hà Tĩnh đã có chủ trương kêu gọi đầu tư xây dựng khu đô thị trên đảo Xuân Giang và vùng ven sông Lam tiếp giáp với đảo giữa dòng Lam.
“Phải lấy việc khôi phục và nâng cấp sông Đồng Kèn (còn gọi là Rào Mỹ Dương) làm trung tâm của đô thị mới”, GS Hòa nêu ý tưởng.
Hiện tại, ngoài sông Lam “bổ đôi Nghệ Tĩnh”, (thơ Trần Mạnh Hảo), trên địa bàn Nghi Xuân có sông Đồng Kèn. Tiếc là, phần lớn đã bị bồi lấp, và thu hẹp, về mùa mưa sông không còn khả năng trữ nước phục vụ sản xuất và cắt lũ.
Đồng Kèn bắt nguồn từ núi Ông Bảng, dài khoảng 29km chảy vòng quanh chân núi Hồng Lĩnh đi qua địa phận các xã Xuân Viên, Xuân Mỹ, Cổ Đạm, Xuân Liên và Cương Gián thuộc huyện Nghi Xuân và đổ ra biển tại cửa Song Nam, có diện tích lưu vực khoảng 73km2. Trong đó đoạn thượng lưu đến hồ Mỹ Dương dài khoảng 17km và đoạn sông sau đập Mỹ Dương là 12km.
“Chúng tôi kiến nghị phục hồi và mở rộng sông theo phương án mở rộng đoạn Rào Mỹ Dương (thượng nguồn sông) theo hình thức vừa sông (để thoát nước) vừa là hồ để trữ nước. Với dung tích trữ nước vào khoảng 30 triệu m3. Toàn bộ đất lòng hồ được tôn tạo sang 2 bên bờ sông để hình thành các khu làng văn hóa, du lịch” vẫn theo GS Hòa. Ông nói, khi đó phía tả của sông Đồng Kèn chạy men theo chân núi Ông Bảng sẽ bố trí các khu nhà vườn mô phỏng đời sống của người dân vùng núi sinh sống bằng nghề đốn củi, săn bắn. Phía bờ hữu của sông Đồng Kèn bố trí các làng nghề truyền thống (trồng lúa, khoai, lạc,..); xen kẽ là các khu văn hóa truyền thống được tái tạo, phục dựng.
Nếu tổ chức được “không gian văn hóa” du khách sẽ được hiểu biết hơn về lịch sử, văn hóa đặc sắc của vùng đất “địa linh nhân kiệt” này; vừa có thể trải nghiệm, tham gia các công việc truyền thống nhà nông như trồng lúa, trồng khoai, lạc, bắt cá,..
Sông Đồng Kèn
Tôi đã có những trải nghiệm được thưởng thức các hình thức văn hóa dân gian Xứ Nghệ về hát ví giặm, hát phường vải,..; thưởng thức các món ăn quê dân dã từ đồng ruộng, sau khi được “tái sinh” đa dạng sinh học.
Rời Nghi Xuân, tôi nhớ mãi Chủ nhiệm HTX Thống Nhất Bùi Văn Chiến và nông dân Lê Văn Sơn trên cánh đồng Xuân Lam. Khi tôi đến, Lê Văn Sơn đang bón phân cho lúa, biết tôi là người mê mẩm với nông nghiệp sinh thái, “bợm” rươi, hai anh dặn tôi: “Hôm nào đến mùa bắt rươi, bọn em mời anh về”.
Trước mặt tôi là Lam Giang, sau lưng là Hồng Lĩnh hùng vĩ, xứ Nghệ gọi bằng phương ngữ là Rú Hồng. Rú Hồng ai đắp mà cao. Gió sông Lam hắt lên mát rượi.
NDO – Ngày 23/4, tại Hội nghị kết nối, thỏa thuận hợp tác tiêu thụ vải thiều tỉnh Bắc Giang năm 2025 đã diễn ra lễ ký kết biên bản ghi nhớ và hợp đồng giữa các đơn vị sản xuất, cung ứng dịch vụ và phân phối.
Ký kết hợp tác tiêu thụ vải thiều Bắc Giang 2025.
Tại hội nghị, ông La Văn Nam, Phó Giám đốc Sở Công thương tỉnh Bắc Giang nhấn mạnh giá trị kinh tế của vải thiều năm 2025 ước đạt gần 5.000 tỷ đồng. Với diện tích 29.700ha, sản lượng dự kiến đạt 165.000 tấn, chất lượng vải năm nay được đánh giá cao nhất từ trước đến nay nhờ thời tiết thuận lợi, tỷ lệ ra hoa trên 90% và kiểm soát chặt chẽ 240 mã vùng trồng theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP.
Tỉnh Bắc Giang đã ban hành kế hoạch xúc tiến thương mại, hỗ trợ nông dân kỹ thuật canh tác, bảo đảm an toàn thực phẩm và mở rộng thị trường xuất khẩu tới hơn 30 quốc gia như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và Trung Đông. Tỉnh cũng đẩy mạnh tiêu thụ trực tuyến qua các sàn thương mại điện tử (Buudien.vn, Shopee, Lazada) và mạng xã hội (TikTok, Facebook).
Ông Nam kêu gọi các siêu thị, sàn thương mại điện tử và đơn vị logistics hợp tác chặt chẽ, tối ưu hóa vận chuyển để bảo đảm vải thiều tươi ngon đến tay người tiêu dùng, đồng thời cam kết cung cấp dịch vụ hậu cần tốt nhất, từ nguồn vốn, kho bãi đến an ninh, trật tự.
Chăm sóc vải thiều tại Bắc Giang.
Cũng tại hội nghị, các đơn vị như Hợp tác xã Hồng Xuân, Viettel Post, Công ty vận tải đường sắt RATRACO, sàn thương mại điện tử Nongsan.buudien.vn và Tập đoàn MM Mega Market thảo luận để làm rõ các khâu sản xuất, logistics, phân phối vải thiều năm 2025. Hợp tác xã Hồng Xuân chia sẻ thành tựu đạt chứng nhận GlobalGAP và khó khăn về hạ tầng, hạn hán. MM Mega Market cam kết tiêu thụ 2.000 tấn vải, trong đó 60 tấn xuất khẩu, qua chương trình khuyến mãi tháng 5-6.
Tại đây, các đơn vị đã ký kết nhiều thỏa thuận hợp tác tiêu thụ vải thiểu như; các Hợp tác xã (Thanh Hải, Phì Điền, Lục Ngạn Xanh, Hồng Xuân) ký kết với Viettel Post, Central Retail, MM Mega Market, sàn thương mại điện tử Nongsan.buudien.vn và RATRACO, bảo đảm cung ứng vải thiều cho siêu thị, chợ đầu mối, sàn thương mại điện tử, và thị trường xuất khẩu.
Khẳng định cam kết hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp về logistics, an ninh và xúc tiến thương mại, ông Dương Ngọc Chiên, Giám đốc Sở Công thương tỉnh Bắc Giang kêu gọi các đối tác tiếp tục đồng hành, mở rộng kênh phân phối để đưa vải thiều Bắc Giang đến gần hơn với người tiêu dùng toàn cầu, củng cố thương hiệu vải thiều Bắc Giang, hứa hẹn vụ mùa 2025 thành công rực rỡ.
Thái Nguyên đặt mục tiêu tăng trưởng 3,5% giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản trong năm 2025. Đây là một nhiệm vụ không hề dễ dàng khi tỉnh đang phải đối mặt với nhiều khó khăn từ kinh tế toàn cầu đến những thách thức nội tại của ngành. Tuy nhiên, với quyết tâm “tăng tốc, bứt phá” và kỳ vọng vào sự tham gia mạnh mẽ của nông nghiệp công nghệ cao, Thái Nguyên đang nỗ lực hiện thực hóa mục tiêu này…
Người nông dân Thái Nguyên thu hoạch trà tại Đồi chè Tân Cương
Bức tranh kinh tế đầu năm 2025 của Thái Nguyên cho thấy nhiều gam màu xám đối với ngành nông nghiệp tại địa phương này. Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị quý 1/2025 của tỉnh ghi nhận sự tăng trưởng chung của các lĩnh vực kinh tế – xã hội, nhưng riêng ngành nông nghiệp lại có mức tăng trưởng thấp hơn bình quân và đáng lo ngại hơn là thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2024.
KHÓ KHĂN “BỦA VÂY” VÀ KỲ VỌNG NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
Những khó khăn này không chỉ đến từ yếu tố nội tại mà còn chịu tác động mạnh mẽ từ tình hình kinh tế thế giới và trong nước. Sự phục hồi chậm của kinh tế toàn cầu, tình trạng lạm phát, giá cả nguyên vật liệu đầu vào ở mức cao đang gây áp lực lên chi phí sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế sâu rộng và sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường tiêu thụ nông sản, đặc biệt là với các tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng từ các nước nhập khẩu, đang đặt ra những rào cản không nhỏ cho hoạt động xuất khẩu, nhất là mặt hàng chè vốn là thế mạnh của Thái Nguyên.
Trong nước, nguy cơ bùng phát các dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trên đàn gia súc, gia cầm như cúm gia cầm, dịch tả lợn châu Phi vẫn luôn tiềm ẩn. Mặt khác, kinh tế hộ gia đình vẫn chiếm tỷ trọng lớn tại Thái Nguyên, việc ứng dụng sản xuất an toàn nhờ công nghệ cao còn hạn chế, cùng với đó là sự chậm phát triển của công nghiệp chế biến nông sản và công nghiệp phụ trợ.
Mặc dù đối diện với không ít thách thức, lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên vẫn thể hiện quyết tâm cao độ trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội năm 2025. Tại Kỳ họp thứ XXIII, Hội đồng nhân dân tỉnh mới đây, Bí thư Tỉnh uỷ Trịnh Việt Hùng nhấn mạnh năm 2025 là năm “tăng tốc, bứt phá” để tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Mục tiêu tăng 3,5% giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản được đánh giá là khả thi, dù những tháng đầu năm có những khó khăn nhất định.
Theo đó, để đạt được mục tiêu này, Thái Nguyên xác định cơ cấu lại ngành nông nghiệp, đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, an toàn và hữu cơ là giải pháp then chốt. Tỉnh có nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp công nghệ cao, trước hết là sự quan tâm đầu tư của chính quyền địa phương. Chiến lược phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Thái Nguyên tập trung vào việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng của nông sản, đặc biệt là phát triển và nâng cao giá trị cây chè Thái Nguyên.
Nông dân Thái Nguyên đã và đang ứng dụng các công nghệ tiên tiến như nhà màng, nhà lưới để kiểm soát môi trường sản xuất, hệ thống tưới phun, tưới nhỏ giọt tự động, canh tác trên giá thể và sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP và hướng hữu cơ.
Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên Nguyễn Huy Dũng khẳng định việc ứng dụng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo là lựa chọn duy nhất và tất yếu để các hợp tác xã nông nghiệp duy trì lợi thế cạnh tranh và vươn lên trong kỷ nguyên mới.
ỨNG DỤNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Thái Nguyên đang tích cực thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng tập trung, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, sản xuất an toàn, hữu cơ, phù hợp với nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao thành công đã được triển khai, đặc biệt trong lĩnh vực trồng chè, rau, hoa và cây ăn quả.
Việc ứng dụng công nghệ trong sản xuất chè, từ khâu trồng trọt theo hướng hữu cơ đến bảo quản, chế biến và quảng bá sản phẩm, đang được đẩy mạnh. Tỉnh cũng tập trung phát triển các sản phẩm nông nghiệp chủ lực và sản phẩm OCOP gắn với ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số, đồng thời tăng cường liên kết giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ, xây dựng thương hiệu và nâng cao giá trị nông sản trong chuỗi giá trị.
Tỉnh khuyến khích kinh tế hộ, kinh tế hợp tác xã, thu hút doanh nghiệp đầu tư, cải tiến quản lý nhà nước để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp, đồng thời tăng cường quảng bá, xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm.
Với Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, Thái Nguyên sẽ có thêm động lực để phát triển nông nghiệp công nghệ cao trong năm 2025 và tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp trong những năm tiếp theo.
Đất tơi xốp, cây xanh rì, rau quả tươi ngon đều xuất hiện tại trang trại nông nghiệp hữu cơ thuận tự nhiên ở Sóc Sơn (Hà Nội) hướng đến an toàn và bền vững.
Trong bối cảnh an toàn thực phẩm và sức khỏe cộng đồng đang trở thành mối quan tâm hàng đầu, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ không chỉ là xu hướng phát triển bền vững mà còn là lời giải cho bài toán nâng cao chất lượng sống. Không sử dụng hóa chất độc hại, chú trọng cân bằng hệ sinh thái tự nhiên, mô hình nông nghiệp sạch đang ngày càng chứng minh giá trị cả về kinh tế lẫn môi trường.
Hà Nội là một trong những nơi tiên phong trong việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ. Từ các vùng ngoại thành đến ven đô, nhiều hợp tác xã, trang trại, cá nhân tiêu biểu đã góp phần lan tỏa mô hình sản xuất xanh, sạch và giàu tính nhân văn này.
Nằm ở phía Bắc Thủ đô, Sóc Sơn – vùng đất có rừng, núi và đồng bằng trù phú – đang từng bước chuyển mình theo dòng chảy của nông nghiệp hữu cơ. Với điều kiện thổ nhưỡng tốt, khí hậu trong lành, nơi đây vốn là vùng canh tác nông nghiệp truyền thống từ bao đời.
Về Sóc Sơn ngày hôm nay, những luống rau hữu cơ, vườn trái cây không hóa chất, những đàn gia cầm nuôi theo chuẩn tự nhiên… đang dần thay thế cách làm nông nghiệp cũ. Tư duy sản xuất xanh không chỉ được ươm mầm mà còn lan tỏa, bén rễ trong cộng đồng.
Vốn là một kỹ sư xây dựng, được tiếp xúc với nông nghiệp sạch trong quá trình du học nước ngoài, anh Hoàng Hải Minh (phải) đã quyết định trở về quê hương để theo đuổi khát vọng sản xuất nông nghiệp thuận tự nhiên. Và từ đó, trang trại nông nghiệp hữu cơ Dako Farm tại Sóc Sơn đã ra đời.
Xác định sản phẩm sạch là mấu chốt của phát triển bền vững, anh Minh đã chủ động tìm kiếm nguồn nước sạch, phân bón an toàn và thuốc bảo vệ thực vật từ tự nhiên. Những luống hành tây xanh mướt, khu nhà màng trồng ớt chuông, măng tây và nho mẫu đơn đều được tưới mát bởi dòng nước suối tự nhiên, mát lành. Phân bón là loại phân chuồng ủ hoai, thuốc bảo vệ thực vật là những chế phẩm sinh học từ gừng, tỏi, ớt… Bên cạnh đó, hệ thống tưới tiêu cũng được đầu tư với công nghệ hiện đại, vừa tiết kiệm nước vừa đảm bảo cung cấp đúng và đủ lượng cho cây trồng.
Sau 3 năm đi vào hoạt động, mảnh đất nơi trang trại đặt chân ngày càng trù phú. Đất tơi xốp, cây xanh rì, rau quả tươi ngon và thơm đượm vị thiên nhiên. Đi qua nhiều vùng sản xuất, thử nghiệm nhiều mô hình, anh Hoàng Hải Minh đúc kết rằng, nông nghiệp thuận tự nhiên vẫn là an toàn và bền vững nhất. Dù phải chấp nhận nhiều rủi ro nhưng anh vẫn kiên định lựa chọn, cần mẫn chăm chút cho trang trại mỗi ngày để giờ đây đã dần mang về những trái ngọt.
Với 4 loại cây trồng thế mạnh măng tây, nho mẫu đơn, ớt chuông và hành tây, những sản phẩm nông nghiệp của trang trại đang từng bước khẳng định thương hiệu. Nhiều sản phẩm đã có mặt tại các siêu thị lớn ở Hà Nội và được các doanh nghiệp tin tưởng để liên kết xuất khẩu, trong đó chủ yếu là thị trường Hàn Quốc.
Điều quan trọng nông nghiệp hữu cơ mang lại chính là sức khỏe cho người tiêu dùng và cả người sản xuất. Trong những ngày này, đến với trang trại không chỉ cảm nhận được không khí trong lành, mùi hương của rau quả tươi, mà còn nghe thấy tiếng nói cười rộn ràng của người dân nơi thôn quê thanh bình. Không còn lo lắng vì hóa chất độc hại hay công việc nặng nhọc, họ gọi đó là niềm hạnh phúc của người nông dân.
Với cách làm tử tế, kiên trì và giàu tâm huyết, trang trại đang là một điểm sáng cho phát triển nông nghiệp sạch giữa vùng ven đô Hà Nội. Từ một ước mơ nhỏ, giờ đây mô hình ấy đang gieo niềm tin, gặt trái ngọt và lan tỏa cảm hứng về một nền nông nghiệp thân thiện, bền vững.
Giữa một thế giới đang ngày càng chịu nhiều tác động từ biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường, nông nghiệp sạch không chỉ là lựa chọn, mà là con đường tất yếu để bảo vệ sức khỏe, bảo vệ môi trường và giữ gìn sự sống bền vững.
Pellentesque habitant morbi tristique senectus et netus et malesuada fames ac turpis egestas. Vestibulum tortor quam, feugiat vitae, ultricies eget, tempor sit amet, ante. Donec eu libero sit amet quam egestas semper. Aenean ultricies mi…