Đề xuất tăng nhập khẩu nông sản từ Mỹ giữa trở ngại thuế quan
Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai đề xuất thúc đẩy nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp từ Mỹ, giúp giảm bớt gánh nặng cho ngành chăn nuôi, tạo cơ hội cân bằng thương mại.
Tiếp tục giải quyết các quan tâm của phía Hoa Kỳ
Hải quan và Biên phòng Hoa Kỳ hướng dẫn thực thi thuế đối ứng
Hỗ trợ doanh nghiệp trước việc Mỹ áp thuế đối ứng

1 trại heo giống nhập khẩu khoảng 250 con giống heo cụ kỵ (GGP) mỗi năm, trị giá khoảng 0,5 triệu USD. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Trong bối cảnh khó khăn do chính sách thuế quan của Mỹ áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam, ngày 6/4, Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai có văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp từ Mỹ trước bối cảnh Mỹ công bố áp thuế đối ứng đối với hàng hóa từ Việt Nam với mức thuế suất 46%.
Theo Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai, hiện nay, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đang triển khai chương trình GSM-102, là chương trình cung cấp bảo lãnh tín dụng để khuyến khích xuất khẩu hàng hóa nông nghiệp Mỹ với lãi suất trả chậm chỉ 1%/năm.
Trong khi đó, tại Việt Nam, có 6 ngân hàng được tham gia chương trình GSM-102, nhưng lãi suất các ngân hàng này đưa ra chưa hợp lý, dẫn đến việc triển khai chưa được hiệu quả.
Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai đề xuất Thủ tướng Chính phủ và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quan tâm, xem xét tạo điều kiện cho các ngân hàng bảo lãnh chương trình GSM-102 lãi suất từ 1-1,5% để giảm bớt gánh nặng cho các doanh nghiệp nhập khẩu.
Giải pháp này không chỉ giúp giảm chi phí cho các doanh nghiệp nhập khẩu mà còn hỗ trợ ngành chăn nuôi Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh.
Chương trình GSM-102 của USDA cung cấp bảo lãnh tín dụng với lãi suất trả chậm chỉ 1%/năm, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu các sản phẩm nông sản như đậu nành, khô đậu nành, bắp và DDGS (bã rượu khô) từ Mỹ, với giá trị nhập khẩu hàng tỷ USD. Đây là những mặt hàng đang đóng vai trò quan trọng trong ngành chăn nuôi. Tuy nhiên, vấn đề lãi suất cao từ các ngân hàng Việt Nam tham gia chương trình này đã khiến việc triển khai chưa thực sự hiệu quả.
Ngoài ra, Mỹ còn là nguồn cung cấp con giống heo chất lượng cao. Theo ước tính, mỗi năm một trại heo giống ở Việt Nam nhập khẩu khoảng 250 con giống heo cụ kỵ (GGP) trị giá gần 0,5 triệu USD.
Dự kiến, vào tháng 6 tới đây, Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai sẽ cùng một số trang trại chăn nuôi sang Mỹ, ký hợp đồng nhập khẩu heo giống từ Công ty AG World và hợp tác với Công ty Waldo để phát triển mô hình liên doanh chăn nuôi. Ngoài ra, Hiệp hội cũng xúc tiến nhập khẩu các sản phẩm nguyên liệu dinh dưỡng từ Công ty International Nutrition (Mỹ) nhằm cải thiện chất lượng thịt heo, bò, và môi trường chăn nuôi tại Việt Nam.
Tuy nhiên, một điểm đáng chú ý là Nghị định 73/2025 mới đây, đã giảm thuế suất đối với một số mặt hàng nông sản từ Mỹ, bao gồm ngô hạt và khô dầu đậu tương từ mức 1-2% xuống 0%.
“Thuế nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp từ Mỹ giảm, nếu được kèm theo chính sách hỗ trợ theo chương trình GSM-102 sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gia tăng nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp từ Mỹ.
Điều này không chỉ góp phần cân bằng thương mại Việt Nam – Mỹ mà còn giúp giảm chi phí cho ngành chăn nuôi Việt Nam, giúp nâng chất lượng chăn nuôi và nâng khả năng cạnh tranh của ngành trong hội nhập”, Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai nhận định.
Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai cho rằng, trước tình hình khó khăn hiện nay, đặc biệt khi Mỹ dự kiến áp thuế đối ứng lên hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam 46% vào ngày 9/4 tới, Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai khẩn thiết mong Thủ tướng Chính phủ và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quan tâm, chỉ đạo kịp thời để các doanh nghiệp nhập khẩu trong ngành được tham gia triển khai chương trình GSM-102 với mức lãi suất phù hợp 1-1,5%.
Đồng thời, Hiệp hội cũng cam kết sẽ tiếp tục tìm kiếm các đối tác tin cậy để nhập khẩu hàng hóa từ Mỹ, và mong muốn nhận được sự đồng hành, chia sẻ từ các ngân hàng Việt Nam để hỗ trợ ngành nông nghiệp vượt qua khó khăn trong giai đoạn đầy thách thức này.
Nguyễn Thủy
Theo nongnghiep.vn
Canh tác lúa giảm phát thải lợi nhuận tăng cao hơn 55 triệu đồng/ha
Mô hình canh tác lúa giảm phát thải tại Kiên Giang gắn với tăng trưởng xanh, mỗi ha giảm trên 13 tấn CO2, năng suất lúa hơn 10 tấn và cho lợi nhuận cao trên 55 triệu đồng.
Canh tác lúa giảm phát thải, chi phí giảm 4 triệu đồng/ha
Canh tác lúa giảm phát thải, lợi nhuận tăng, khí nhà kính giảm
Canh tác lúa giảm phát thải tăng thu nhập 10 triệu đồng/ha
Phát thải giảm sâu – lợi nhuận tăng vọt
Đó là những con số ấn tượng được báo cáo tại Diễn đàn Khuyến nông & Nông nghiệp với chủ đề “Giải pháp thúc đầy canh tác lúa phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh tại vùng ĐBSCL”. Diễn đàn do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Kiên Giang tổ chức sáng 28/3, tại xã Nam Thái Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Lê Quốc Thanh (thứ 2 từ trái qua) cùng các đại biểu tham quan, đánh giá ruộng canh tác lúa giảm phát thải thuộc dự án Khuyến nông Trung ương triển khai tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất. Ảnh: Trung Chánh.
Tham dự diễn đàn có lãnh đạo Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Trung tâm Khuyến nông một số tỉnh thành vùng ĐBSCL và 120 đại biểu là nông dân, thành viên Hợp tác xã tham gia Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”. Ngoài ra, còn có các đơn vị đối tác cung cấp vật tư, thiết bị cơ giới và giải pháp canh tác lúa giảm phát thải gắn với tăng trưởng xanh.
Diễn đàn nhằm sơ kết dự án Khuyến nông Trung ương: “Xây dựng mô hình canh tác lúa giảm phát thải phục vụ phát triển bền vững vùng nguyên liệu lúa gạo xuất khẩu vùng ĐBSCL” trên diện tích 50ha của Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất (xã Nam Thái Sơn, Hòn Đất).
Qua quá trình triển khai, mô hình thí điểm đã mang lại những chuyển biến tích cực, nhiều hộ nông dân đã chủ động áp dụng các tiến bộ kỹ thuật như giảm lượng giống gieo sạ, áp dụng tưới ướt khô xen kẽ (AWD), sử dụng phân bón cân đối, cơ giới hóa sản xuất và quản lý rơm rạ theo hướng tuần hoàn. Những thay đổi này không chỉ giúp giảm chi phí đầu vào, tăng lợi nhuận, mà còn góp phần giảm đáng kể phát thải khí nhà kính, nâng cao chất lượng sản phẩm và hướng đến sản xuất lúa gạo bền vững.

Các đại biểu xem trình diễn máy gặt tuốt có chức năng băm rơm hoặc rải rơm theo luống, giúp xử lý rơm rạ hiệu quả theo hướng tuần hoàn. Ảnh: Trung Chánh.
Ông Nguyễn Văn Bắc – Phó Trưởng Văn phòng thường trực tại Nam Bộ, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đánh giá, thực tế mô hình thí điểm trong vụ đông xuân 2024-2025 tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất đã mang lại hiệu quả rõ rệt: Với giống lúa ĐS1 năng suất trung bình đạt 10,3 tấn/ha (lúa tươi), tổng thu nhập đạt 82,2 triệu đồng/ha, mang lại lợi nhuận cho nhà nông lên đến 55,5 triệu đồng/ha, cao hơn ruộng đối chứng 6,7 triệu đồng/ha. Khí phát thải nhà kính giảm trung bình 13.05 tấn CO2 tương đương/ha so với mô hình canh tác truyền thống.
Ông Nguyễn Văn Nghĩa, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Kiên Giang cho biết, tham gia Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”, tỉnh đặt mục tiêu đến năm 2025 đạt diện tích 100.000ha và năm 2030 đạt 200.000ha. Để thực hiện, Kiên Giang đã tăng cường đào tạo tập huấn cho cán bộ kỹ thuật, hợp tác xã, nông dân tham gia đề án. Cùng với đó là phối hợp với các đơn vị khởi động các mô hình điểm ở các huyện sản xuất lúa trọng điểm của tỉnh, trong đó có mô hình trình diễn thuộc dự án Khuyến nông Trung ương tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất.

Thu gom, di chuyển rơm khỏi ruộng sau khi thu hoạch để sử dụng theo hướng tuần hoàn, vừa giúp tăng thu nhập, vừa giảm phát thải do đốt rơm gây ra. Ảnh: Trung Chánh.
Theo ông Nghĩa, mô hình triển khai thức tế đã mang lại hiệu quả rất thiết thực cho người dân, giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất, chất lượng, gia tăng hiệu quả kinh tế, giảm phát thải giúp ngành lúa gạo tăng trưởng xanh, phát triển bền vững. Tuy nhiên, ông Nghĩa cũng nêu thực tế nông dân còn gặp khó khăn trong việc thu gom, đưa rơm rạ ra khỏi đồng ruộng để xử lý theo hướng nông nghiệp tuần hoàn đối với diện tích lớn. Vì vậy, có thể thay thế bằng giải pháp băm rơm rạ, cày vùi kết hợp với sử dụng chế phẩm vi sinh để phân hủy nhanh thành phân bón hữu cơ tại ruộng.
Huy động tốt nguồn lực tham gia
Ông Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, nhằm giải quyết đồng thời bài toán phát triển bền vững, nâng cao giá trị sản xuất lúa gạo và giảm phát thải khí nhà kính, Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”. Đề án được triển khai nhằm tổ chức lại hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị, áp dụng các quy trình canh tác bền vững, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thu nhập và đời sống của người dân trồng lúa, bảo vệ môi trường, góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế.

Các đại biểu tham quan, đánh giá giải pháp băm rơm kết hợp với xử lý vi sinh để phân hủy nhanh thành phân hữu cơ tại ruộng, giúp giảm phát thải trong canh tác lúa. Ảnh: Trung Chánh.
Theo ông Lê Quốc Thanh, để đạt được mục tiêu của Đề án, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân. Cùng với đó là các chính sách hỗ trợ kịp thời nhằm thúc đẩy sản xuất lúa theo hướng phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh. Và thực tế cho thấy, khi xây dựng các mô hình thí điểm tại các địa phương, đã huy động tốt các nguồn lực tham gia, với sự đồng hành của các chuyên gia, nhà khoa học, các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị lúa gạo và tổ chức nông dân.
Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đề nghị các địa phương duy trì, nhân rộng diện tích tham gia Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”, tránh trường hợp khi mô hình, dự án kết thúc, khuyến nông rút đi thì dự án cũng chết theo. Cần xây dựng Tổ Khuyến nông cộng đồng, cùng với khuyến nông doanh nghiệp để hỗ trợ hợp tác xã tham gia Đề án, mở rộng diện tích ở các địa phương.
Cũng tại diễn đàn, các đại biểu đã dành thời gian tham quan đánh giá ruộng mô hình và xem các doanh nghiệp đối tác trình diễn thiết bị cơ giới và giải pháp canh tác lúa giảm phát thải gắn với tăng trưởng xanh, gồm máy gặt tuốt có chức năng băm rơm hoặc rải rơm theo luống, máy cuộn rơm đưa khỏi đồng ruộng, máy xới vùi rơm rạ kết hợp phun chế phẩm vi sinh phân hủy nhanh rơm rạ thành phân bón hữu cơ ngay tại ruộng.

Cánh đồng canh tác lúa giảm phát thải với giống lúa ĐS1 tại Hợp tác xã nông nghiệp Vinacam Hòn Đất cho năng suất hơn 10 tấn/ha, nông dân đạt lợi nhuận cao trên 55 triệu đồng/ha. Ảnh: Trung Chánh.
Trong đó, Công ty TNHH TMDV Sài Gòn Kim Hồng trình diễn máy gặt tuốt có chức năng băm rơm hoặc rải rơm theo luống. Công ty TNHH MTV Cơ khí Nông nhiệp Phan Tấn trình diễn máy cuộn rơm đưa khỏi đồng ruộng, máy xới vùi rơm rạ kết hợp phun chế phẩm vi sinh xử lý thành phân bón hữu cơ ngay tại ruộng. Công ty CP Phân bón Bình Điền trình diễn sản phẩm Đầu trâu Bio-Canxi thúc đầy phân hủy nhanh rơm rạ và giả ngộ độc hữu cơ.
Ngoài ra, ruộng mô hình còn có sự tham gia của các doanh nghiệp đối tác, gồm Công ty TNHH Lúa gạo Việt nam (Vinarice) cung cấp và hỗ trợ lúa giống chất lượng cao phục vụ mô hình trình diễn. Công ty Bayer Việt Nam hướng dẫn quy trình quản lý dịch hại IPM, IPHM. Công ty CP Tập đoàn Tân Long thực hiện liên kết tiêu thu lúa có kiểm soát dư lượng.
Đ.T.Chánh
Theo nongnghiep.vn
Nông nghiệp hữu cơ: Xu hướng mới gia tăng giá trị nông sản
Việc nhân rộng các mô hình sử dụng phân bón hữu cơ không những nâng cao sản lượng, giúp nông dân tiết kiệm chi phí mà còn giúp cải tạo đất, bảo vệ môi trường.
Nâng cao năng suất và thu nhập, tiết kiệm chi phí đồng thời giúp cải tạo đất, bảo vệ môi trường là hiệu quả mang lại từ những mô hình sản xuất theo hướng hữu cơ và hữu cơ đã và đang được tỉnh Vĩnh Phúc quan tâm đầu tư trong giai đoạn 2021-2025.
Những ngày này, cánh đồng su su ngay dưới chân núi Tam Đảo ở xã Hồ Sơn, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc luôn tấp nập người dân thu hái, vận chuyển su su. Từ sau Tết Nguyên đán đến nay, giá su su luôn ở mức cao nên bà con nông dân nơi đây rất phấn khởi.
Bà Lê Thị Chín, thôn Làng Hạ, xã Hồ Sơn chia sẻ, với 2 sào su su sau hơn 1 năm tham gia mô hình theo hướng hữu cơ của Tập đoàn Quế Lâm với tiêu chuẩn “5 không”: Không thuốc diệt cỏ, không thuốc trừ sâu, không chất bảo quản, không chất kích thích sinh trưởng, không dư lượng hóa chất độc hại. Khi vào vụ, bình quân 2 ngày/lần gia đình sẽ thu hoạch ngọn su su.
Mô hình trồng su su hữu cơ ở Vĩnh Phúc.
Nếu những ruộng su su canh tác theo phương pháp thông thường chỉ thu được 35 – 40kg/sào/lần hái thì ruộng nhà bà Chín cho sản lượng từ 45 – 50kg. Với giá bán bình quân 14.000 đồng/kg, mỗi tháng bà Chín có thể thu cả chục triệu đồng, trong khi mỗi vụ su su có thể thu hoạch kéo dài từ 7 – 8 tháng.
“Trước đây bón phân vô cơ và những loại phân thông thường chi phí từ 2 – 3 triệu/sào, còn bón phân bón hữu cơ chỉ hơn 1 triệu/sào nhưng giá su su bán ra lúc nào cũng cao hơn. Su su bán chợ có nhiều giá từ 10.000 – 15.000 đồng/kg nhưng su su trồng theo hướng hữu cơ lúc nào giá cũng cao nhất. Về chăm bón, phân hữu cơ không gây hại như bón phân vô cơ mà cây lại sinh trưởng tốt, chất lượng rau ngon”, bà Chín cho biết.
Trước nhu cầu sử dụng sản phẩm hữu cơ của người dân trên địa bàn ngày càng tăng, những năm qua, tỉnh Vĩnh Phúc đã có nhiều chính sách hỗ trợ người dân sản xuất an toàn. Chỉ tính riêng trong năm 2021, Vĩnh Phúc đã cấp kinh phí 45 tỷ đồng hỗ trợ nông dân xây dựng các mô hình trồng trọt an toàn, theo hướng hữu cơ, xử lý rơm rạ, môi trường.
Mặc dù vậy, theo ông Lê Văn Dũng, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Vĩnh Phúc, để sản phẩm nông nghiệp theo hướng hữu cơ ngày càng phát triển, có chỗ đứng trên thị trường, Bộ NN&PTNT cần ủy quyền cho Sở NN&PTNT các địa phương đứng ra cấp mã số vùng trồng cho các vùng sản xuất trên cơ sở thống nhất theo chỉ đạo của Bộ.
“Ngay cả sản phẩm tiêu thụ tại thị trường nội địa cũng cần có mã số vùng trồng, do vậy, nếu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ủy quyền cho các Sở thực hiện thì tiến độ sẽ nhanh hơn rất nhiều lần”, ông Dũng đề xuất.
Từ cách làm của doanh nghiệp trong gần 20 năm qua, ông Khắc Ngọc Bá, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Quế Lâm cho rằng, phát triển canh tác theo hướng hữu cơ là đòi hỏi tất yếu để cung cấp những sản phẩm sạch, an toàn cho người tiêu dùng, vì mục tiêu bảo vệ sức khỏe cộng đồng; định hướng sản xuất hữu cơ tạo ra giá trị nhân văn, là xu thế của tương lai cũng là mục tiêu hướng đến của doanh nghiệp.
“Doanh nghiệp đang phối hợp với nhiều địa phương chuyển giao công nghệ cho bà con nông dân sử dụng chế phẩm sinh học, từ đó có thể sản xuất phân hữu cơ từ chính những phụ phẩm nông nghiệp xung quanh vốn đang bị vứt bỏ một cách lãng phí. Nếu địa phương nào có lãnh đạo và ngành chuyên môn quan tâm, các mô hình sản xuất hữu cơ sẽ phát triển nhanh và có sự lan tỏa mạnh mẽ”, ông Bá cho biết.
Theo các chuyên gia, trong bối cảnh giá phân bón tăng tới 200% thì giá phân bón hữu cơ chỉ tăng 20% – 30%, bởi vậy việc nhân rộng các mô hình sử dụng phân bón hữu cơ không những giúp nông dân tiết kiệm chi phí mà còn giúp cải tạo đất, bảo vệ môi trường.
Giám sát sinh trưởng su su theo hướng hữu cơ ở Tam Đảo.
Bà Phạm Thị Vượng, nguyên Viện trưởng Viện Bảo vệ thực vật cho biết, thực tế sản xuất những mô hình sử dụng phân bón hữu cơ ở nhiều địa phương đã giúp tăng đáng kể hiệu quả sử dụng đất, mật độ số giun trong đất tăng cao, các chủng vi sinh vật có ích cũng tăng, hàm lượng kim loại nặng giảm, sản phẩm không còn dư lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật.
“Từ thực tế hiệu quả mô hình trồng su su theo hướng hữu cơ ở Hồ Sơn, ban đầu chỉ có 1 hộ tham gia nhưng chỉ sau 1 năm diện tích đã tăng lên 20 ha. Canh tác theo hướng hữu cơ bà con nông dân sẽ được 1 chữ “L” là lãi, và 2 chữ “H” đó là hạnh phúc và hồi sinh vì không lạm dụng phân bón vô cơ, thuốc trừ sâu, người tiêu dùng được ăn sản phẩm sạch, an toàn”, bà Vượng chia sẻ.
Trong Chỉ thị về sử dụng phân bón tiết kiệm, cân đối và hiệu quả, Bộ NN&PTNT đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo Sở NN&PTNT tập huấn, truyền thông, hướng dẫn người dân sử dụng phân bón cân đối và hiệu quả, tăng cường sản xuất, sử dụng phân bón hữu cơ, thay thế phân bón vô cơ bằng phân bón hữu cơ theo tỷ lệ phù hợp.
Đối với các doanh nghiệp thực hiện cam kết về sản xuất, sử dụng phân bón cân đối, tiết kiệm, hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp; chủ động tham gia liên kết sản xuất để hỗ trợ, khuyến khích nông dân tăng cường sử dụng phân bón hữu cơ./.