Tag Archives: NÔNG SẢN

Có nhiều chính sách hỗ trợ nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp

Cử tri tỉnh Hưng Yên kiến nghị có chính sách gắn kết giữa nông dân với doanh nghiệp xuất khẩu nhằm tạo sự đồng bộ trong liên kết sản xuất với tiêu thụ.

 

Hình thành hàng nghìn mô hình liên kết gắn với vùng nguyên liệu nông sản đạt chuẩn

Trả lời kiến nghị, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, hiện nay, nhiều chính sách đã được ban hành nhằm trực tiếp hỗ trợ liên kết giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu như: Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 5/7/2018 về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; Đề án “Thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu giai đoạn 2022-2025” theo Quyết định số 1088/QĐ-BNN-KTHT ngày 25/3/2022; Đề án “Phát triển bền vững một triệu héc ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” theo Quyết định số 1490/QĐ-TTg.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, hiện nay, nhiều chính sách đã được ban hành nhằm trực tiếp hỗ trợ liên kết giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, hiện nay, nhiều chính sách đã được ban hành nhằm trực tiếp hỗ trợ liên kết giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đã tập trung chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương xây dựng vùng nguyên liệu gắn mã số vùng trồng, đáp ứng tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc để phục vụ xuất khẩu; thường xuyên tổ chức các diễn đàn, hội nghị kết nối cung – cầu nông sản, hội chợ xúc tiến thương mại trong và ngoài nước, tạo cầu nối trực tiếp giữa nông dân, hợp tác xã với doanh nghiệp xuất khẩu.

Đồng thời, phối hợp các Bộ, ngành tháo gỡ rào cản kỹ thuật, mở cửa thị trường cho nông sản Việt Nam; thường xuyên cập nhật thông tin về nhu cầu, thị hiếu và phổ biến quy định về thị trường trong và ngoài nước; tổ chức các hội thảo tập huấn kỹ năng khai thác, tìm kiếm, dự báo thông tin thị trường, kết nối giữa sản xuất, tiêu thụ.

Đến nay, hàng nghìn mô hình liên kết đã được hình thành gắn với phát triển và mở rộng các vùng nguyên liệu nông sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Tính đến hết tháng 6 năm 2025, các địa phương đã phê duyệt được 2.938 dự án, kế hoạch liên kết cho 119 sản phẩm nông nghiệp chủ lực, trong đó có 13 loại sản phẩm thuộc chủ lực quốc gia và 106 sản phẩm đặc trưng, lợi thế của địa phương; có 2.412 hợp tác xã, 538 tổ hợp tác, 1.305 doanh nghiệp và 211.545 hộ nông dân tham gia các chuỗi liên kết.

 

Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng nông sản, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, nhiều sản phẩm đã vào được thị trường cao cấp như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ.

Tuy vậy, một số liên kết còn chưa bền vững, quy mô liên kết còn nhỏ lẻ, manh mún, chưa tạo được ảnh hưởng thực sự đến thị trường tiêu thụ. Nông dân còn thiếu thông tin về thị trường và các quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn hàng hóa ở các thị trường quốc tế khác nhau. Vai trò trung tâm trong chuỗi liên kết của các hợp tác xã nông nghiệp chưa phát huy hiệu quả, do năng lực tổ chức sản xuất, kinh doanh còn hạn chế, thiếu vốn, thiếu hạ tầng và công nghệ phục vụ bảo quản, chế biến và logistics.

Đề xuất tăng hỗ trợ đầu tư vùng nguyên liệu nông sản đạt chuẩn

Thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ tiếp tục tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm phát triển hợp tác, liên kết bền vững giữa nông dân, hợp tác xã và các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu, trong đó có việc tổng kết, kiến nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 98/2018/NĐ-CP theo hướng tăng hỗ trợ đầu tư vùng nguyên liệu nông sản đạt chuẩn; có cơ chế tín dụng hỗ trợ theo chuỗi giá trị; thúc đẩy truy xuất, mã số vùng trồng; hỗ trợ bảo hiểm và chia sẻ rủi ro trong hợp đồng liên kết.

Việc liên kết sản xuất giữa nông dân, HTX, doanh nghiệp giúp nâng cao giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích. Ảnh: Quốc Toản.

Việc liên kết sản xuất giữa nông dân, HTX, doanh nghiệp giúp nâng cao giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích. Ảnh: Quốc Toản.

Đồng thời đẩy mạnh đào tạo, thông tin thị trường và chuyển giao khoa học kỹ thuật cho người sản xuất; tiếp tục hỗ trợ phát triển hợp tác xã, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào bảo quản chế biến nông sản và logistics, thúc đẩy chuyển đổi số và áp dụng truy xuất nguồn gốc, qua đó tạo sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ và bền vững giữa nông dân với doanh nghiệp xuất khẩu.

DIỄN ĐÀN CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG NÔNG NGHIỆP: NẮM BẮT CƠ HỘI, THÍCH ỨNG TƯƠNG LAI

7h30 sáng nay (29/10), Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tổ chức “Chuyển đổi số trong nông nghiệp – nắm bắt cơ hội, thích ứng tương lai”, thảo luận và nhận góp ý về công tác này từ các chuyên gia, các nhà khoa học và các doanh nghiệp trong cả nước.

Bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam chủ trì Diễn đàn. Bàn chủ tịch còn có ông Trần Duy Ninh, Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia – Bộ Khoa học và Công nghệ cùng ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng, Cục Kinh tế hợp tác và PTNT, Bộ Nông nghiệp và Môi trường.

Cùng tham dự có các đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường như Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Cục Biến đổi khí hậu, Vụ Khoa học và Công nghệ, các Viện nghiên cứu nông nghiệp, Hiệp hội chuyển đổi xanh VGA, các nhà khoa học, Tạp chí kinh doanh, các nhà báo, đại diện các Hợp tác xã các tỉnh, thành trên cả nước. TS Phạm Đình Nam, Viện trưởng Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam cùng một số chuyên gia của Viện cũng tham gia diễn đàn này.

Phát biểu khai mạc, Bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam nhiệt liệt chào mừng quý vị đại biểu đã đến tham dự Diễn đàn. Bà cho biết: Một cuộc khảo sát gần đây của Liên minh HTX Việt Nam cho thấy mức độ chuyển đổi số của HTX cả nước mới chỉ đạt 32%. Trong số gần 35.000 HTX thì chỉ có 13,6% HTX đã hoàn tất chuyển đổi số, 50% đang triển khai và 36,4% chưa thực hiện. Như vậy, một rào cản vô hình là vẫn còn nhiều HTX và các nông hộ hiểu chưa đúng bản chất của chuyển đổi số. Và một hiểu lầm phổ biến là đồng nhất chuyển đổi số với việc chạy theo những công nghệ “hào nhoáng” như Trí tuệ nhân tạo (AI), Công nghệ chuỗi khối (blockchain), dữ liệu lớn (Big Data) hay Internet vạn vật kết nối (IoT). Bởi thế HTX và người nông dân cần nâng cao năng lực số trong các hoạt động cốt lõi như: Sản xuất, quản lý, nâng cao khả năng truy xuất nguồn gốc và minh bạch thông tin, giám sát chất lượng nông sản, giảm phát thải và ô nhiễm môi trường, cũng nhưtrong hoạt động marketing, kết nối cung cầu, quản trị nhân sự…

Bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam phát biểu khai mạc Diễn đàn

Kế tiếp là phần trình bày về chương trình “Chuyển đổi số trong lĩnh vực kinh tế hợp tác và hợp tác xã nông nghiệp”. Ông Trần Duy Ninh, Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia – Bộ Khoa học và Công nghệ đã tổng hợp vắn tắt về Thực trạng chuyển đổi số trong kinh tế hợp tác nông nghiệp và Chủ trương, chính sách và định hướng đến năm 2030, Giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số trong kinh tế hợp tác nông nghiệp. Theo ông, việc Luật hóa công tác chuyển đổi số sẽ giúp cho các doanh nghiệp nói chung, các HTX nông nghiệp nói riêng nắm bắt được các nội dung cần thực hiện, đảm bảo tính pháp lý. Việc ban hành Luật Chuyển đổi số song song với ban hành các nghị định, thông tư, hướng dẫn… sẽ tạo nên một khung chuyển đổi số quốc gia chuẩn mực, phân rõ nền tảng nào dùng chung, nền tàng nào dùng riêng, các dữ liệu trước đây phân tán sẽ được Bộ Công an tập hợp, chia sẻ cho các doanh nghiệp và các HTX cách hợp lý. Ba nội dung cơ bản mà các HTX cần xây dựng là: Hạ tầng, nền tảng và nguồn lực. Nhà nước sẽ hỗ trợ.

Ông Trần Duy Ninh, Cục trưởng Cục Chuyển đổi số – Bộ Nông nghiệp và Môi trường phát biểu tại Diễn đàn

Tiếp nối chương trình, ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng, Cục Kinh tế hợp tác và PTNT, Bộ Nông nghiệp và Môi trường trình bày về “Liên kết chuỗi giá trị và xây dựng hệ sinh thái số trong nông nghiệp”. Theo đó làm rõ vai trò, thực trạng, thách thức, giải pháp trong liên kết chuỗi nông sản; đề xuất mô hình hệ sinh thái số hỗ trợ phát triển chuỗi giá trị hiệu quả, bền vững; gợi mở hành động chính sách, đầu tư, đào tạo và hợp tác để thúc đẩy chuyển đổi số.

Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng, Cục Kinh tế hợp tác và PTNT, Bộ Nông nghiệp và Môi trường trình bày về “Liên kết chuỗi giá trị và xây dựng hệ sinh thái số trong nông nghiệp” tại Diễn đàn

Sau phần trình bày của ông Lê Đức Thịnh là bài phát biểu của PGS.TS Mai Quang Vinh, Chủ tịch Liên hiệp HTX Kinh tế số VN, Viện trưởng Viện Công nghệ Xanh về Chuyển đổi kép “Xanh – Số” trong nông nghiệp: Nắm bắt cơ hội, thích ứng tương lai của nông sản Việt. Theo ông chuyển đổi xanh là hết sức cấp bách trong thời đại ngày nay và việc kết hợp với chuyển đổi số sẽ đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh, giúp cải tạo và bảo vệ môi trường, tăng thu nhập từ việc bán tín chỉ các-bon… đổi lại chuyển đổi xanh cũng giúp công tác chuyển đổi số trở nên thuận lợi, thu thập được nhiều dữ liệu hữu ích.

PGS.TS Mai Quang Vinh, Chủ tịch Liên hiệp HTX Kinh tế số VN, Viện trưởng Viện Công nghệ Xanh trình bày về “Chuyển đổi kép “Xanh – Số” trong nông nghiệp: Nắm bắt cơ hội, thích ứng tương lai của nông sản Việt” tại Diễn đàn

Sau đó là phần tham luận của các lãnh đạo HTX trên cả nước. Bà Lê Thị Thu Hiền, Trưởng đại diện Tổ chức Agriterra tại Việt Nam trình bày nội dung “Xây dựng hệ thống dữ liệu số phục vụ quản trị HTX và liên kết thị trường: Một vài kinh nghiệm từ Hà Lan và Việt Nam”. Ông Nguyễn Thanh Mộng, Giám đốc phát triển thị trường Việt Nam giới thiệu “Hệ sinh thái chuyển đổi số cho các HTX – cơ quan hỗ trợ/quản lý HTX”. Các tham luận khác về chuyển đổi số trong các HTX như sản xuất các sản phẩm từ hoa hồi (Tràng Định, Lạng Sơn), Cam (Cao Phong, Hòa Bình – nay là Phú Thọ), Canxi từ vỏ trứng gà (Hà Đông, Hà Nội)… đã cho thấy tính cấp bách trong công tác chuyển đổi số và một số bất cập, vướng mắc, các điểm “nghẽn” khi triển khai chương trình này tại cơ sở.

Đoàn chủ tịch đã từng bước trả lời câu hỏi thảo luận của các lãnh đạo HTX và đi đến thống nhất một số nội dung liên quan đến công tác chuyển đổi số. Hai cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia – Bộ Khoa học và Công nghệ và Cục Kinh tế hợp tác và PTNT, Bộ Nông nghiệp và Môi trường hứa sẽ luôn đồng hành với các HTX trên cả nước, hỗ trợ về chính sách, vốn, kỹ thuật và tài liệu, tạo điều kiện cho Liên minh Hợp tác xã Việt Nam hoàn thành chương trình chuyển đổi số cách sớm nhất, chuẩn xác và hợp pháp.

Phát biểu tổng kết Diễn đàn, Bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam khẳng định chủ trương chuyển đổi số trong nông nghiệp sẽ được thực hiện một cách triệt để, công khai và minh bạch. Liên minh HTX sẽ nắm bắt cơ hội này để kịp thời thích ứng tương lai, khi Luật Chuyển đổi số được áp dụng và phổ biến tới từng người dân, từng xã viên HTX. Bà Cao Xuân Thu Vân cũng mong muốn lãnh đạo của Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường hỗ trợ tối đa cho Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trong công tác này.

Một số hình ảnh của Diễn đàn:

Thực hiện: Thành Vinh

            

Một triệu hecta lúa chất lượng cao: Đi sớm, đón đầu xu thế tiêu dùng xanh

Sau hơn một năm triển khai, Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao khẳng định sự đúng đắn, nhưng cần giải pháp đột phá để đi vào chiều sâu trong giai đoạn tới.

 

Đi sớm, đón đầu

Sáng 9/4, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy chủ trì Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện Đề án “Phát triển bền vững một triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030” (gọi tắt là Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao).

Hội nghị còn có sự tham dự của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam và các đơn vị trực thuộc; Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đào Minh Tú; đại diện lãnh đạo UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp và Môi trường 12 tỉnh, thành vùng ĐBSCL; cùng các tổ chức quốc tế, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp và hợp tác xã tham gia đề án.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy chủ trì Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao tại TP Cần Thơ. Ảnh: Kim Anh.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy chủ trì Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao tại TP Cần Thơ. Ảnh: Kim Anh.

Sau hơn một năm thực hiện Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy khẳng định, đề án là bước đi chủ động, “đi trước, đi sớm” đón đầu xu hướng tiêu dùng xanh và hoàn toàn phù hợp với định hướng phát triển nông nghiệp bền vững. Bởi nếu không có sự chuẩn bị từ bây giờ, các doanh nghiệp – đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu lúa gạo sẽ đối mặt với nguy cơ bị loại khỏi thị trường quốc tế.

Bộ trưởng nhận định, tới một thời điểm nào đó, thế giới sẽ tuyên bố ngừng nhập khẩu lúa gạo không đạt tiêu chí phát thải thấp. Lúc ấy, chỉ những sản phẩm gạo xanh, canh tác theo quy trình giảm phát thải mới vào được các thị trường khó tính.

Thực tế, điều tương tự đã xảy ra với ngành thủy sản và gỗ. Nếu như trước đây, xuất khẩu thủy sản khá thuận lợi, thì hiện nay bắt buộc phải minh bạch từ khâu truy xuất nguồn gốc, kiểm soát dư lượng và kháng sinh, mới có thể vào được những thị trường khó tính.

Ngành gỗ cũng vậy, từng xuất khẩu dễ dàng, nhưng hiện tại muốn tiếp cận thị trường quốc tế, sản phẩm gỗ buộc phải có chứng chỉ FSC về phát triển rừng bền vững.

Lúa gạo – một trong những ngành hàng xuất khẩu chiến lược chắc chắn không nằm ngoài xu hướng này. Việc dán nhãn “gạo phát thải thấp” sẽ trở thành điều kiện tiên quyết để được chấp nhận ở nhiều thị trường.

Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhận định, tham gia Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao không chỉ là sự chuẩn bị cần thiết, mà còn là cơ hội để doanh nghiệp duy trì và mở rộng thị trường. Ảnh: Kim Anh.

Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhận định, tham gia Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao không chỉ là sự chuẩn bị cần thiết, mà còn là cơ hội để doanh nghiệp duy trì và mở rộng thị trường. Ảnh: Kim Anh.

Đến nay, bước đầu Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao đã cho thấy những kết quả tích cực, thể hiện tính đúng đắn, hiệu quả và khả thi. Rõ nét là sự chuyển biến về tư duy và nhận thức của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân về mục tiêu phát triển bền vững ngành lúa gạo Việt Nam.

Từ 7 mô hình thí điểm do Trung ương triển khai tại 5 tỉnh, thành vùng ĐBSCL, đến nay đã mở rộng được 101 mô hình, với tổng diện tích hơn 4.500 ha. 

Nông dân từng bước tiếp cận và áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến như: “1 phải 5 giảm”, “3 giảm 3 tăng”, tưới ngập khô xen kẽ (AWD), sử dụng phân bón hợp lý và quan tâm nhiều hơn đến việc giảm phát thải khí nhà kính. Đây là những tiền đề quan trọng để xây dựng, hoàn thiện, chuẩn hóa và nhân rộng quy trình sản xuất lúa bền vững ở ĐBSCL.

Thông qua đề án cũng đã hình thành chuỗi sản xuất lúa gạo bền vững. Một số doanh nghiệp lớn đã tham gia chuỗi giá trị lúa gạo chất lượng cao, hỗ trợ nông dân từ khâu giống, vật tư đầu vào, đến bao tiêu sản phẩm đầu ra.

Bên cạnh đó, Hiệp hội ngành hàng lúa gạo Việt Nam cũng đang phối hợp với các doanh nghiệp, đối tác quốc tế xây dựng bộ nhận diện nhãn hiệu gạo Việt Nam xanh, phát thải thấp.

Khơi thông điểm nghẽn

Mặc dù ghi nhận nhiều kết quả, tuy nhiên, thực tế quá trình triển khai Đề án một triệu hecta vẫn còn những tồn tại, thách thức.

 

Điển hình, một số địa phương còn lúng túng trong việc hiểu rõ nội hàm của đề án. “Có một số địa phương đặt vấn đề phải đầu tư hạ tầng trước. Điều này đúng, nhưng phải làm song song, không phải chờ làm xong hạ tầng mới triển khai. Có những khâu có thể làm được ngay, kế thừa những dự án đầu tư trước đây”, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy chỉ rõ.

Dự kiến trong năm 2025, diện tích áp dụng quy trình canh tác giảm phát thải sẽ đạt gần 313.000 ha. Ảnh: Kim Anh.

Dự kiến trong năm 2025, diện tích áp dụng quy trình canh tác giảm phát thải sẽ đạt gần 313.000 ha. Ảnh: Kim Anh.

Mặt khác, một số địa phương còn chú trọng vào mục tiêu trao đổi tín chỉ carbon, trong khi mục tiêu chính của đề án là chuyển đổi sản xuất bền vững, giảm chi phí, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng sản phẩm và thu nhập nông dân. Dẫn đến, một số khâu dù rất quan trọng nhưng chưa được chú trọng như: quy trình canh tác, chế biến sâu, đầu tư hệ thống logistics…

Bên cạnh đó, việc xây dựng hạ tầng thủy lợi phục vụ yêu cầu tưới tiêu, quản lý đồng ruộng chưa theo kịp tiến độ, trong khi đây là điều kiện tiên quyết để áp dụng các biện pháp canh tác tiên tiến.

Nhiều nơi, nông dân, HTX và cả doanh nghiệp chưa chủ động đổi mới phương thức sản xuất. Nhất là trường hợp phải đầu tư thêm chi phí ban đầu, còn tâm lý trông chờ vào hỗ trợ của Nhà nước.

Hay vấn đề xử lý phụ phẩm (rơm, rạ) để giảm phát thải mới chỉ dừng lại ở việc thí điểm một số mô hình và khối lượng xử lý còn ở mức thấp.

Những tồn tại, thách thức trên đang trở thành điểm nghẽn, cần được nhận diện và có giải pháp tháo gỡ kịp thời để triển khai đề án hiệu quả hơn trong thời gian tiếp theo.

Do đó, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đề nghị các địa phương vùng ĐBSCL khẩn trương phê duyệt dự án/đề án. Đồng thời ban hành chính sách hỗ trợ theo thẩm quyền và điều kiện cụ thể của địa phương.

Sở Nông nghiệp và Môi trường các tỉnh, thành ĐBSCL thường xuyên phối hợp với doanh nghiệp tổ chức trình diễn, hướng dẫn quy trình canh tác lúa chất lượng cao, giảm phát thải cho nông dân. Ảnh: Kim Anh.

Sở Nông nghiệp và Môi trường các tỉnh, thành ĐBSCL thường xuyên phối hợp với doanh nghiệp tổ chức trình diễn, hướng dẫn quy trình canh tác lúa chất lượng cao, giảm phát thải cho nông dân. Ảnh: Kim Anh.

Tiếp tục mở rộng diện tích áp dụng quy trình canh tác bền vững theo lộ trình, xác định diện tích các vùng canh tác, bao gồm các vùng đệm và xây dựng kế hoạch, triển khai cụ thể.

Bên cạnh đó, ưu tiên đầu tư nâng cấp hệ thống thủy lợi nội đồng, phát triển các mô hình tưới tiết kiệm nước, giảm phát thải; cải thiện hạ tầng, kho chứa, logistics, để giảm thất thoát sau thu hoạch…

“Đối với hạ tầng cấp vùng và liên vùng, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ chịu trách nhiệm chính, đề xuất với Chính phủ để tìm kiếm các nguồn lực thực hiện. Nhưng hạ tầng trong từng quy mô diện tích, vùng sản xuất các địa phương phải hết sức chú trọng, bố trí ngân sách địa phương và nguồn vốn lồng ghép để triển khai”, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy cho biết.

Bộ trưởng cũng đề nghị Bộ Công Thương nghiên cứu, tham mưu Chính phủ điều chỉnh, bổ sung chính sách quản lý hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo bảo đảm hiệu quả bền vững; hỗ trợ các đơn vị, doanh nghiệp trong xúc tiến thương mại, phát triển thị trường.

Đối với các tổ chức quốc tế, đối tác phát triển, Bộ trưởng đề nghị phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhằm hỗ trợ kỹ thuật, tài chính, chia sẻ kinh nghiệm. Nhất là sáng kiến huy động nguồn lực tài chính xanh, phục vụ triển khai các mô hình giảm phát thải trong sản xuất lúa.

Ứng dụng cơ giới hóa là một trong những giải pháp thúc đẩy sản xuất lúa chất lượng cao, giảm phát thải. Ảnh: Kim Anh.10

Ứng dụng cơ giới hóa là một trong những giải pháp thúc đẩy sản xuất lúa chất lượng cao, giảm phát thải. Ảnh: Kim Anh.

Đối với các đơn vị thuộc Bộ, Bộ trưởng giao Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật khẩn trương hoàn thiện quy trình đo đếm, báo cáo và kiểm định kết quả phát thải (MRV), quy trình canh tác bền vững trong phạm vi đề án.

Vụ Hợp tác quốc tế được giao nhiệm vụ phối hợp với Cục Biến đổi khí hậu tham mưu, trình thành lập tổ đàm phán Thỏa thuận chi trả giảm phát thải (ERPA). Đồng thời hoàn thiện thủ tục phê duyệt chủ trương đầu tư và triển khai nghiên cứu tiền khả thi cho dự án vốn vay Ngân hàng Thế giới (WB) hỗ trợ đầu tư hạ tầng cho các vùng tham gia đề án.

 

Theo nongnghiep.vn 

Sản xuất lúa gạo gặp nhiều thách thức từ biến động thị trường quốc tế

 

[Cần Thơ] Sản xuất lúa gạo đang gặp nhiều thách thức từ các biến động thị trường quốc tế, điều kiện khí hậu ảnh hưởng nông dân, theo Phó thủ tướng Trần Hồng Hà.

Thông tin được Phó thủ tướng Trần Hồng Hà nêu ra trong cuộc họp với lãnh đạo các tỉnh, thành miền Tây về việc điều hành sản xuất, tiêu thụ lúa gạo diễn ra ngày 7/3, tại TP Cần Thơ.

“Việt Nam hiện là quốc gia đứng thứ ba thế giới về sản xuất và xuất khẩu lúa gạo, nhưng đang gặp nhiều thách thức từ các biến động thị trường quốc tế, điều kiện khí hậu”, ông Hà nói và cho biết người nông dân đang gặp nhiều khó khăn do giá lúa gạo giảm mạnh, trong khi vẫn phải chịu nhiều rủi ro do biến đổi khí hậu và thời tiết. Theo ông, việc “được mùa mất giá, được giá mất mùa” đối với người nông dân, đặc biệt là người trồng lúa đã trở thành câu chuyện quen thuộc.

Phó thủ tướng nhìn nhận đây là vấn đề kéo dài nhiều năm qua. Nếu không có giải pháp hiệu quả, nguy cơ nông dân rời bỏ mảnh ruộng của mình. Vì vậy nhà nước cần có các giải pháp như các công cụ, chính sách, như điều chỉnh giá, cung cấp tín dụng… hỗ trợ kịp thời để bảo vệ quyền lợi của người nông dân. Các bộ, ngành liên quan đánh giá rõ ràng, cụ thể các thị trường nhập khẩu chính của gạo Việt Nam cũng như các đối thủ cạnh tranh, phối hợp chặt chẽ để triển khai giải pháp.

Về lâu dài, Phó thủ tướng chỉ đạo cần phải xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành toàn diện về lĩnh vực lúa gạo. Hệ thống này sẽ tích hợp thông tin từ nhiều khâu: sản xuất, khoa học công nghệ, chế biến, bảo quản, thị trường và dự báo… với mục tiêu cung cấp thông tin kịp thời và chính xác cho các bên liên quan, từ nông dân đến doanh nghiệp và cơ quan quản lý…

Đối với việc quản lý xuất khẩu lúa gạo, Phó thủ tướng đề nghị sửa đổi Nghị định 107/2018 của Chính phủ với những điều chỉnh quan trọng. Theo đó, các doanh nghiệp muốn được cấp phép xuất khẩu phải đáp ứng các tiêu chí nghiêm ngặt, bao gồm năng lực liên kết sản xuất, hệ thống kho bãi và năng lực tài chính…

Nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nông nghiệp, Phó thủ tướng đề nghị Ngân hàng nhà nước cần xem xét áp dụng chính sách cho vay ưu đãi tương tự vay mua nhà xã hội. Đồng thời, ông kiến nghị miễn thuế thu nhập cho lĩnh vực nông nghiệp trong hai năm, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư, phát triển. Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp Bộ Khoa học và Công nghệ cần xây dựng chiến lược ngăn chặn việc các nước khác sử dụng trái phép nhãn hiệu gạo Việt Nam.

Thu hoạch lúa tại Cần Thơ. Ảnh: An Bình

 

Thu hoạch lúa tại Cần Thơ. Ảnh: An Bình

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong hai tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu gạo đạt khoảng 1,1 triệu tấn, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, giá trị kim ngạch chỉ đạt 613 triệu USD, giảm 13,6%. Giá gạo xuất khẩu trung bình giảm sâu, xuống còn 553,6 USD một tấn, thấp hơn 18,3% so với cùng kỳ năm 2024. Đầu tháng 3, giá gạo xuất khẩu tiếp tục giảm mạnh, chỉ còn: 310-367 USD mỗi tấn. Các thị trường lớn như Philippines, Bờ Biển Ngà và Ghana vẫn là những khách hàng chính của gạo Việt Nam, nhưng sức mua không còn sôi động như trước.

Giá gạo sụt giảm do nguồn cung thế giới tăng cao, nhu cầu nhập khẩu suy giảm và đặc biệt là việc Ấn Độ dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo, đẩy một lượng lớn gạo ra thị trường quốc tế…

 

Nhằm đảm bảo ổn định sản xuất và tiêu thụ lúa gạo trong bối cảnh thời tiết và thị trường diễn biến phức tạp, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề nghị các địa phương cần bám sát lịch thời vụ, đẩy nhanh tiến độ thu hoạch vụ Đông Xuân, đặc biệt ở các vùng ven biển có nguy cơ ảnh hưởng mặn cao. Bộ sẽ phối hợp các ngành liên quan theo dõi chặt chẽ biến động thị trường gạo thế giới, kịp thời thông tin cho doanh nghiệp và nông dân để điều chỉnh sản xuất và tiêu thụ phù hợp.

Về lâu dài, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục đẩy mạnh triển khai Đề án phát triển bền vững một triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh ở Đồng bằng sông Cửu Long…

Dự báo của Hiệp hội Lương thực Việt Nam, xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2025 sẽ gặp khó khăn, có thể chỉ đạt 7,5 triệu tấn, giảm so với mức kỷ lục hơn 9 triệu tấn năm 2024.

An Bình

Theo vnexpress.net

Nông sản xuất khẩu: Nâng cao năng suất, chất lượng nhờ khoa học – công nghệ

Nông sản xuất khẩu: Nâng cao năng suất, chất lượng nhờ khoa học – công nghệ

Nông sản là một trong những ngành xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước. Để nâng cao năng suất, chất lượng các sản phẩm nông sản, thời gian qua các ngành, địa phương đã tích cực đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN).

Là lĩnh vực chiếm tỷ lệ nghiên cứu, ứng dụng lớn nhất của hầu hết địa phương, kết quả của ngành nông nghiệp đều có sự đóng góp của KH&CN thông qua việc khuyến khích phát triển sản xuất quy mô lớn, hợp tác liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị; ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ vào sản xuất; năng lực nghiên cứu, dự báo và thông tin thị trường được nâng cao để kịp thời định hướng tổ chức sản xuất, tiêu thụ nông sản.

Nhờ đó, KH&CN đang cho thấy vai trò ngày càng quan trọng nhằm nâng cao năng suất, chất lượng nông sản Việt Nam và là đòn bẩy để mặt hàng này vươn xa đến nhiều thị trường quốc tế. Đặc biệt, trong năm 2021, mặc dù gặp nhiều khó khăn do đại dịch Covid-19, ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất, kinh doanh nhưng xuất khẩu nông sản của Việt Nam vẫn đạt 48,6 tỷ USD. Điển hình, năm 2021, sản lượng vải thiều Lục Ngạn, Bắc Giang tiêu thụ và xuất khẩu sang thị trường “khó tính” như Nhật Bản, Pháp, CH. Czech, Australia, Mỹ, Đức… với sản lượng cao nhất từ trước đến nay.

Hay tại Sơn La, thị trường xuất khẩu nông sản của tỉnh này cũng ngày càng được mở rộng như Trung Quốc, Campuchia, Anh, Mỹ, Australia, Hàn Quốc, Nhật Bản… Từ chỗ là tỉnh miền núi có diện tích đất nương đồi trồng ngô lớn nhất nước, Sơn La đã nhanh chóng chuyển đổi sang trồng cây ăn quả trên đất dốc, trở thành vựa cây ăn quả lớn thứ hai của cả nước, với tổng diện tích trên 70.000 ha. Thu nhập bình quân trên 1 ha đạt từ 150 – 500 triệu đồng/ha, góp phần nâng cao mức sống của người dân và mở rộng phát triển sản xuất.

Cũng nhờ đẩy mạnh chuyển giao khoa học, kỹ thuật, sản xuất na Chi Lăng, Hữu Lũng tại Lạng Sơn đã đạt diện tích trên 3.500 ha, trong đó hơn 400 ha Na được chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP; tổng giá trị sản xuất ước đạt khoảng 1.200 tỷ đồng, bình quân thu nhập trên 1ha canh tác na đạt 275 triệu đồng/ha.

“Nhờ ứng dụng KH&CN, năng suất một số vật nuôi, cây trồng của Việt Nam đạt cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cụ thể, năng suất lúa cao nhất trong các nước ASEAN (trong đó cao hơn gấp rưỡi Thái Lan), cà phê có năng suất đứng thứ 2 trên thế giới (chỉ sau Brazil), năng suất hồ tiêu đứng đầu thế giới, cao su đứng thứ 2 thế giới (chỉ sau Ấn Độ), cá tra với năng suất 500 tấn/ha cũng cao nhất thế giới” – đại diện Bộ KH&CN cho biết.

Nhiều chuyên gia cho rằng, để tiến vào thị trường các nước, tận dụng cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA), các sản phẩm nông sản của Việt Nam phải đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường quốc tế về chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, mẫu mã đa dạng, giá thành hợp lý, đồng thời cũng phải đảm bảo khâu cung ứng kịp thời cho nhà nhập khẩu…

Ông Nguyễn Đình Phong – Phó giám đốc Sở Công Thương tỉnh Sơn La – cho biết, để các sản phẩm nông sản có thể mở rộng thị trường, tận dụng được các cơ hội từ các Hiệp định FTA, thì trước tiên các yếu tố đầu vào như vật tư, giống cây trồng cho đến quản lý, chăm sóc, bao gói, truy xuất nguồn gốc sản phẩm… đều phải đáp ứng tiêu chuẩn, sau đó mới đưa đi giới thiệu, xúc tiến tiêu thụ sản phẩm, tiếp cận thị trường.

Nguyễn Quỳnh (Báo Công Thương)

18 nhóm thực phẩm cần phải đăng ký trước khi sang Trung Quốc

18 nhóm thực phẩm cần phải đăng ký trước khi sang Trung Quốc

Theo Lệnh 248, doanh nghiệp sản xuất nước ngoài phải đăng ký khi xuất khẩu 18 nhóm thực phẩm vào thị trường Trung Quốc.

Cụ thể, nhóm thực phẩm là là thịt và các sản phẩm từ thịt, vỏ ruột, sản phẩm thủy sản, sản phẩm từ sữa, yến sào và sản phẩm từ tổ yến, sản phẩm từ ong, trứng và các sản phẩm từ trứng, chất béo và dầu thực phẩm, thực phẩm chế biến hỗn hợp từ bột mỳ, thực phẩm từ ngũ cốc.

Sản phẩm công nghiệp xay xát ngũ cốc và mạch nha, rau củ tươi và khô (rau tách nước, sấy), đậu khô, gia vị, các loại hạt (quả hạch) và hạt giống, trái cây sấy khô, hạt cà phê và hạt ca cao chưa rang, thực phẩm dinh dưỡng đặc biệt, thực phẩm chức năng.

Đối với sản phẩm không thuộc nhóm 18 loại trên, doanh nghiệp phải tự nộp hồ sơ đăng ký hoặc ủy thác đại lý thực hiện đăng ký.

Việc thực hiện đăng ký được thực hiện thông qua “Ứng dụng quản lý đăng ký doanh nghiệp sản xuất thực phẩm nước ngoài” trên cổng thông tin điện tử một cửa thương mại quốc tế của Tổng cục Hải quan Trung Quốc.

Thông tin mới nhất từ Văn phòng SPS Việt Nam cho biết, đến ngày 1/3/2022, Tổng cục Hải quan Trung Quốc đã cấp 1.776 mã sản phẩm nông sản, thực phẩm cho các doanh nghiệp Việt Nam để xuất khẩu sang thị trường này.

Nguồn: Lãng Hồng – Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam

Copyrights © 2019 VITAD-AGRI All Rights Reserved.

X