Hội nghị Phát triển bền vững cây ăn quả có múi tại các tỉnh phía bắc
Ngày 10/11, tại Hòa Bình, Bộ NN&PTNT phối hợp UBND tỉnh tổ chức hội nghị thúc đẩy phát triển bền vững cây ăn quả có múi (CAQCM) tại các tỉnh phía Bắc. Dự và chủ trì hội nghị có Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Quốc Doanh; Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Bùi Văn Khánh; Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đinh Công Sứ. Ngoài ra còn có lãnh đạo các sở, ngành của tỉnh và đại diện Sở NN&PTNT 22 tỉnh.
Theo báo cáo của Cục Trồng trọt (Bộ NNPTNT), đến nay tại nhiều địa phương đã hình thành các vùng sản xuất cây có múi hàng hóa tập trung như cam Hà Giang, Hòa Bình, Bắc Giang, bưởi Phú Thọ, Bắc Giang, Hòa Bình, Tuyên Quang, quýt Bắc Kạn và Lạng Sơn.
Tổng diện tích cây có múi của các tỉnh miền núi phía Bắc khoảng 121.000 ha (chiếm 47,5% diện tích của cả nước).
Đáng chú ý, điện tích cây có múi liên tục tăng trong những năm gần đây, với tốc độ tăng trưởng cao. Thống kê trong 10 năm từ 2009 – 2019, tốc độ tăng trưởng cây có múi bình quân 10%/năm về diện tích (tương đương 7,3 nghìn ha/năm), trên 12% về sản lượng (69,4 nghìn tấn).
Cùng với sự tăng trưởng diện tích, sản lượng, sản xuất cây có múi ở các tỉnh miền núi phía Bắc còn nhiều hạn chế và gặp nhiều khó khăn về khâu tiêu thụ sản phẩm, dịch bệnh. Ngoài ra, tình trạng lạm dụng phân bón vô cơ và thuốc bảo vệ thực vật hóa học, nguy cơ làm ô nhiễm môi trường đất, nước, bùng phát dịch hại và ảnh hưởng đến chất lượng.
Tại Hội nghị, các đại biểu đã đóng góp nhiều tham luận về tình hình sản xuất, tình hình dịch hại cây có múi, định hướng công tác bảo vệ thực vật và mở cửa thị trường, công nghiệp chế biến, xúc tiến các loại quả có múi; tổng hợp kết quả nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về giống, canh tác, sau thu hoạch trong những năm gần đây và định hướng trong thời gian tới…
Phát biểu tại hội nghị, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Bùi Văn Khánh nhấn mạnh: Những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp của tỉnh hình thành nhóm sản phẩm chủ lực, tạo được uy tín tại thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu. Tỉnh hoàn thành bản đồ phân hạng thích nghi đất cho sản xuất trồng trọt với diện tích phân hạng 116 nghìn ha. Đặc biệt, CAQCM là cây trồng chủ lực trong tiến trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh. Đến năm 2020, toàn tỉnh có khoảng 11.500 ha. Trong đó, diện tích kinh doanh khoảng 7.400 ha; 2.119 ha cây có múi được chứng nhận đủ điều kiện ATTP, VietGAP, hữu cơ. Dự kiến năm 2020, giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích canh tác đạt trên 350 triệu đồng/ha. Bên cạnh những kết quả đạt được, sản xuất CAQCM tại tỉnh còn một số hạn chế, tồn tại như: Tình trạng kinh doanh, buôn bán giống không rõ nguồn gốc, không đảm bảo chất lượng vẫn diễn ra; kỹ thuật áp dụng chưa đồng bộ; nhiều loại sâu bệnh mới phát sinh; hoạt động bảo quản, sơ chế, chế biến chưa phát triển; vấn đề bảo vệ thương hiệu và quyền sở hữu trí tuệ chưa được quan tâm.
Chủ tịch UBND tỉnh Bùi Văn Khánh đề nghị Bộ NN&PTNT cùng các ngành liên quan hỗ trợ tỉnh tổ chức rà soát cây có múi; cấp mã vùng; tăng cường xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường xuất khẩu; chuyển giao công nghệ bảo quản, chế biến sản phẩm CAQCM. Đồng thời, hỗ trợ tỉnh thực hiện đề án tái canh vùng cam Cao Phong.
Phát biểu kết luận Hội nghị, Thứ trưởng NN và PTNT Lê Quốc Doanh ghi nhận nỗ lực và những kết quả đạt được trong phát triển CAQCM của các tỉnh phía Bắc. Thứ trưởng khẳng định: Sản xuất cây có múi có vị trí, vai trò quan trọng trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Trước những khó khăn, bất cập còn tồn tại, đề nghị các cục, vụ, bộ, ban ngành T.Ư cần phối hợp chặt chẽ với các địa phương triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm phát triển cây có múi bền vững, thực hiện tốt quy hoạch vùng trồng.
Thứ trưởng đề nghị Cục Trồng trọt chủ trì hướng dẫn các địa phương rà soát, điều chỉnh diện tích cây có múi theo quy hoạch. Đối với Cục Bảo vệ thực vật tập trung chỉ đạo phòng, chống các loại bệnh gây hại; ban hành quy trình phòng trừ bệnh Greening và bệnh vàng lá, thối rễ. Trung tâm Khuyến nông quốc gia ưu tiên phát triển mô hình vườn mẫu. Các Viện triển khai tốt chương trình giống cây trồng của Bộ NN&PTNT…
Nguồn: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
Phương pháp xác minh sản phẩm hữu cơ
Một dự án của Châu Âu đang dẫn đầu trong việc củng cố lòng tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm hữu cơ, với việc tạo ra một hệ thống trực quan giúp minh bạch tốt hơn trong chuỗi cung ứng hữu cơ.
Ngoài ra, đại dịch COVID-19 dường như đã có tác động lớn đến việc người dân muốn lựa chọn thực phẩm có lợi cho sức khỏe hơn. Nhu cầu đối với sản phẩm hữu cơ rõ ràng đang tăng lên, đây là một tin tuyệt vời cho nông dân sản xuất hữu cơ, nhưng điều gì sẽ xảy ra khi cầu vượt quá cung? Thông thường, kết quả là thiếu hụt và / hoặc tăng giá mạnh. Nó cũng tạo cơ hội cho những ai muốn gian lận và bán các sản phẩm thông thường dưới dạng hữu cơ.
Với các chuỗi cung ứng hiện đại, phức tạp, thường rất khó để biết sản phẩm chính xác đến từ đâu – và thật không may, một số người thiếu hiểu biết có thể khai thác điều này. Thử nghiệm trong phòng thí nghiệm để phân biệt hữu cơ với thông thường cũng là một nhiệm vụ rất khó khăn. Ngoài việc lập hồ sơ cho thuốc trừ sâu hoặc phân bón, “kiểm tra hữu cơ” trong phòng thí nghiệm gần như không thể.
Làm thế nào để xác minh sản phẩm hữu cơ?
Một sự đổi mới dự kiến được tài trợ bởi Viện Đổi mới và Công nghệ-Thực phẩm Châu Âu (EIT-food) có thể đã phát triển một câu trả lời cho những thách thức về xác minh hữu cơ.
Là một phần của quá trình này, một nhóm quốc tế, do Viện An ninh lương thực toàn cầu tại Đại học Queen Belfast dẫn đầu, đã lập bản đồ và số hóa hai chuỗi cung ứng hữu cơ – một cho thịt đỏ và một cho sản phẩm tươi sống. Các chuyên gia từ Đại học Cambridge, Siemens, ABP và Colruyt đã làm việc chặt chẽ cùng nhau để đạt được công trình đột phá này. Bằng cách tạo ra một bộ đôi kỹ thuật số của các yếu tố quan trọng trong chuỗi, họ có thể có được cái nhìn tổng quan hơn về chuỗi cung ứng – một công cụ hữu ích cho các nhà bán lẻ. Cách tiếp cận này cũng trao quyền cho người tiêu dùng, giúp họ có cái nhìn sâu sắc về nguồn gốc thực phẩm của họ.
Về mặt khoa học đo lường, các nhà nghiên cứu của Viện An ninh lương thực toàn cầu đã hợp tác với các chuyên gia từ Viện Fraunhofer để xem xét các cách sáng tạo để xác định xem thịt và sản phẩm tươi sống từ các hệ thống hữu cơ và thông thường có thể được phân biệt bằng cách sử dụng “công nghệ lấy dấu vân tay thực phẩm” hay không. Kết quả thật ấn tượng; sử dụng các dạng khối phổ rất nhanh đã cho thấy nhiều hứa hẹn, với tỷ lệ phân tách thành công từ 90% đến 100%. Nhóm nghiên cứu cũng đang nỗ lực sử dụng một thiết bị cầm tay để thực hiện phương pháp tương tự; kết quả từ việc này sẽ sẵn sàng vào cuối năm nay.
Một phần quan trọng khác của dự án là sự tham gia với các bên liên quan chính và người tiêu dùng trong lĩnh vực hữu cơ. Một loạt các cuộc họp và hội thảo đã được tổ chức để thu hút và thảo luận về những phát hiện của nghiên cứu này. Kết quả ban đầu từ một cuộc khảo sát quy mô lớn trên toàn châu Âu đã chỉ ra rằng bằng cách đưa công nghệ truy xuất nguồn gốc vào chuỗi thực phẩm hữu cơ, niềm tin của người tiêu dùng tăng lên. Họ không chỉ coi đó là an toàn hơn và ít chủ quan hơn đối với gian lận mà còn sẵn sàng trả một khoản phí bảo hiểm cho những đảm bảo này. Công việc của người tiêu dùng và các bên liên quan đã được phát triển bởi một nhóm chuyên gia đa ngành từ khắp các trường đại học châu Âu, bao gồm Đại học Hohenheim, Đại học Turin và Đại học Queen’s Belfast.
Kết quả của dự án này sẽ mang lại sự thay đổi mô hình, cho thấy rằng các chuỗi cung ứng hữu cơ có thể trở nên minh bạch hơn thông qua việc sử dụng các kỹ thuật số đổi mới và khoa học tiên tiến.
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Khảo sát cho thấy sự gia tăng tiêu thụ rau trong thời kỳ đại dịch
Nghiên cứu này được cho là nghiên cứu đa châu lục đầu tiên được thực hiện về tác động của COVID-19 đối với thói quen ăn uống.
Những thay đổi tích cực như gia tăng nấu ăn tại nhà và nấu ăn từ đầu với nguyên liệu tươi đã được ghi nhận. Tuy nhiên, cũng có những xu hướng tiêu cực, chẳng hạn như sự gia tăng lượng chất béo bão hòa được báo cáo.
Việc mua số lượng lớn tăng đột biến – gây áp lực lên các hệ thống thực phẩm vốn đã căng thẳng và có thể dẫn đến tình trạng thiếu hàng, gây ra tình trạng mua hàng hoảng loạn hơn nữa – cũng được quan sát thấy trong quá trình nghiên cứu.
Cuộc khảo sát được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 6 năm 2020, khi nhiều quốc gia đang bị cấm vận và sử dụng mẫu 2.360 người trưởng thành ở bốn khu vực – đảo Ireland, Anh, Mỹ và Niu Di-lân .
Nhìn chung, cuộc khảo sát cho thấy có ít thay đổi hơn trong hành vi thực phẩm ở Mỹ so với ba khu vực còn lại và sự khác biệt rõ rệt nhất giữa các khu vực xảy ra giữa Mỹ và các nơi khác. Ví dụ, sự gia tăng lượng rau đã được chứng minh ở tất cả các vùng ngoại trừ Hoa Kỳ. Cũng có một sự gia tăng trong tần suất nấu ăn tại nhà và làm bánh tại nhà ở tất cả các vùng ngoại trừ Hoa Kỳ.
Việc cha mẹ nấu ăn (và làm bánh) cùng con cái cũng được nhận thấy tăng ở tất cả các mẫu ngoại trừ Hoa Kỳ (điều thú vị là nghiên cứu cho thấy rằng những bậc cha mẹ đưa con cái họ vào việc chuẩn bị bữa ăn gia đình thường xuyên hơn có chất lượng chế độ ăn uống cao hơn).
Ngược lại, sự gia tăng lượng chất béo bão hòa đã được chứng kiến ở khắp mọi nơi ngoại trừ Hoa Kỳ.
Nhìn chung, đã có sự sụt giảm trong việc tiêu thụ thực phẩm mang đi và sự gia tăng trong “thực hành tổ chức thực phẩm” (lập kế hoạch trước, mua sắm với danh sách tạp hóa, v.v.). Khi nói đến “thực hành quản lý thực phẩm” (chuẩn bị trước, nấu theo mẻ, v.v.), không có thay đổi nào rõ ràng đối với Ai-len hoặc Niu Di-lân. Điều này có thể liên quan đến thực tế là các hạn chế của Ai-len và Niu Di-lân nghiêm ngặt hơn các khu vực khác, vì vậy có thể ít cần chuẩn bị trước thực phẩm hơn.
“Những phát hiện này không chỉ cung cấp dữ liệu quan trọng về cách các hành vi và hệ thống thực phẩm của chúng ta đã thích ứng với đại dịch, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng khi chúng ta tiếp tục cố gắng quản lý COVID-19 bằng các biện pháp ngăn chặn và hạn chế liên tục”, trưởng nhóm nghiên cứu – Tiến sĩ Fiona Lavelle từ IGFS cho biết về dự án,.
“Chúng tôi muốn tìm hiểu tác động của đại dịch và sự cố đóng cửa đối với sức khỏe của mọi người nhưng chúng tôi cũng muốn cố gắng tìm ra cách đo lường tác động lên hệ thống lương thực toàn cầu.
“Rất may, có một số tin tốt trong phát hiện của chúng tôi và nhiều người đã nhận được lợi ích từ việc nấu ăn ở nhà nhiều hơn và ăn nhiều loại thực phẩm tươi ngon hơn. Nhưng cũng có một số dấu hiệu đỏ trong đó, chẳng hạn như sự gia tăng tiêu thụ chất béo bão hòa, có thể giảm xuống mức ‘ăn thoải mái’ trong thời gian phong tỏa. Điều rất quan trọng – đặc biệt là trong thời kỳ đại dịch, vì những lý do rõ ràng – để duy trì một chế độ ăn uống cân bằng, bổ dưỡng.
“Một trong những kết quả khảo sát mà tôi quan tâm nhất là việc nấu ăn với trẻ em đã tăng lên, điều này tốt cho trẻ em – nhưng nghiên cứu của chúng tôi nêu bật những lợi ích tích cực tiềm năng đối với chất lượng chế độ ăn uống của cha mẹ khi trẻ em tham gia”.
“Với việc phong tỏa tiếp tục và có lẽ sẽ có nhiều người làm việc tại nhà hơn trong tương lai, tôi tin rằng việc đưa trẻ em vào các hoạt động nấu ăn sẽ là một thông điệp chính về sức khỏe cộng đồng trong tương lai.”
Nghiên cứu do Viện An ninh Lương thực Toàn cầu (IGFS) tại Queen’s hợp tác với Trường Cao đẳng St Angela, Sligo (một phần của Đại học Quốc gia Ai-len, Galway) dẫn đầu. Các phát hiện chính đã được công bố trên tạp chí Nutrients và nhóm nghiên cứu tin rằng đây là nghiên cứu đầu tiên được công bố trên nhiều châu lục về việc thay đổi thực hành thực phẩm do COVID-19.
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Phê duyệt đề án lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình HTX kiểu mới hiệu quả tại các địa phương trên cả nước giai đoạn 2021 – 2025
Ngày 03/02/2021, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 167/QĐ-TTg phê duyệt Đề án lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới hiệu quả tại các địa phương trên cả nước giai đoạn 2021 – 2025.
Mục tiêu chung của Đề án là cung cấp cơ sở thực tiễn về hợp tác xã kiểu mới hoạt động hiệu quả góp phần thực hiện thành công đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; Xây dựng các mô hình hợp tác xã trở thành kiểu mẫu nhằm tuyên truyền, nâng cao nhận thức và tạo sức hút để người dân, tổ chức, doanh nghiệp tham gia, liên kết với hợp tác xã; Làm cơ sở để nhân rộng các mô hình hợp tác xã kiểu mới hoạt động hiệu quả trong nhiều lĩnh vực, thúc đẩy khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển trên phạm vi cả nước. Theo đó:
Quan điểm của Đề án:
– Xây dựng, tổ chức thực hiện đề án “Lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới hiệu quả tại các địa phương trên cả nước giai đoạn 2021 – 2025” phù hợp với đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã cam kết.
– Huy động đồng bộ các chính sách hỗ trợ, nguồn lực hiện có của Nhà nước và xã hội để thực hiện Đề án, tạo sự đột phá cho các hợp tác xã về tổ chức và hiệu quả hoạt động.
– Tôn trọng các nguyên tắc tổ chức hoạt động cơ bản về tính tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, phát huy nội lực của hợp tác xã. Nhà nước không can thiệp, áp đặt mệnh lệnh hành chính vào công tác tổ chức, điều hành và hoạt động sản xuất kinh doanh của hợp tác xã.
Mục tiêu cụ thể (đến năm 2025):
– Lựa chọn được tối thiểu 300 hợp tác xã/liên hiệp hợp tác xã tham gia, hoạt động theo 12 mô hình của Đề án;
– 100% hợp tác xã thí điểm hoạt động hiệu quả cao, được đánh giá xếp loại Tốt, đạt từ 80 điểm trở lên theo Thông tư số 01/2020/TT-BKHĐT ngày 19/02/2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về hướng dẫn phân loại và đánh giá hợp tác xã (sau đây gọi tắt là Thông tư số 01/2020/TT-BKHĐT);
– Xây dựng Phương án nhân rộng các mô hình hợp tác xã kiểu mới hiệu quả trên phạm vi cả nước trong 05 năm tiếp theo (giai đoạn 2026 – 2030).
Đối tượng thực hiện là các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đang hoạt động hiệu quả trên phạm vi cả nước, có nhu cầu tham gia Đề án, được các địa phương, lựa chọn, đáp ứng các điều kiện tham gia. Số lượng tham gia khoảng 300 hợp tác xã trên cả nước, trong đó mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lựa chọn tối đa 05 hợp tác xã tham gia Đề án. Thời gian thực hiện Đề án: gồm 03 giai đoạn: Giai đoạn 1: Lựa chọn mô hình hợp tác xã thí điểm (trong năm 2021); Giai đoạn 2: Hoàn thiện mô hình thí điểm, nhân rộng một số mô hình hợp tác xã kiểu mới đã hoàn thiện (đến ngày 30/06/2025); Giai đoạn 3: Tổng kết, đề xuất phương án nhân rộng các mô hình hợp tác xã kiểu mới hiệu quả (6 tháng cuối năm 2025).
Các mô hình hợp tác xã lựa chọn hoàn thiện
– Đối với lĩnh vực nông nghiệp, mô hình hợp tác xã vừa sản xuất, vừa tham gia thị trường (sàn giao dịch nông sản); Mô hình hợp tác xã tích tụ, tập trung ruộng đất có quy mô lớn và ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất; Mô hình hợp tác xã nông nghiệp đảm nhiệm các dịch vụ đầu vào, sơ chế/chế biến và đầu ra trong chuỗi giá trị nông sản; Mô hình hợp tác xã ứng phó biến đổi khí hậu; Mô hình hợp tác xã phát triển nông lâm thủy sản bền vững; Mô hình hợp tác xã sản xuất sản phẩm OCOP, gắn với du lịch nông thôn, miền núi; Mô hình doanh nghiệp tham gia là thành viên hợp tác xã sản xuất chế biến nông lâm thủy sản; Mô hình hợp tác xã đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản và bảo vệ nguồn lợi cộng đồng.
– Đối với lĩnh vực phi nông nghiệp, mô hình hợp tác xã hoạt động xây dựng; Mô hình hợp tác xã giao thông vận tải; Mô hình hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp gắn với phục hồi và phát triển làng nghề truyền thống; Mô hình hợp tác xã dịch vụ vì cộng đồng (hoạt động lĩnh vực môi trường, y tế, giáo dục, quản lý chợ…).
Trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và PTNT:
– Đầu mối hướng dẫn việc phối hợp và lồng ghép thực hiện Đề án vào các chương trình, đề án phát triển nông nghiệp khác theo đúng quy hoạch sản xuất và kế hoạch tái cơ cấu ngành nông nghiệp;
– Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư hỗ trợ các địa phương xây dựng kế hoạch, phương án hỗ trợ mô hình hợp tác xã nông nghiệp, kiểm tra tình hình thực hiện; tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Đề án, đề xuất phương án nhân rộng mô hình hợp tác xã nông nghiệp hoạt động hiệu quả trong giai đoạn tiếp theo./
Nguồn: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
Thúc đẩy xuất khẩu trái cây sang thị trường Nhật Bản
Ngày 12/1, tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) Lê Quốc Doanh đã có buổi làm việc với Ông Vũ Hồng Nam, Đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản.
Tại buổi làm việc, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh cho biết: Thời gian qua, các dự án của Nhật Bản đã hỗ trợ đắc lực cho nông nghiệp Việt Nam phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp, nâng cấp hạ tầng, thúc đẩy đầu tư tư nhân, tăng cường nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Thứ trưởng Lê Quốc Doanh nhấn mạnh: Vấn đề mở cửa thị trường cho các sản phẩm nông sản Việt Nam tiếp cận thị trường Nhật Bản rất quan trọng. Sản phẩm quả vải của Việt nam hiện đang được thị trường Nhật Bản đánh giá cao. Khối lượng quả vải Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản tuy chưa được nhiều nhưng đã tạo hiệu ứng tốt.
Về kế hoạch mở cửa thị trường cho quả nhãn của Việt Nam, hiện phía Nhật Bản đang tiến hành phân tích nguy cơ dịch hại. Hai bên đang cố gắng đẩy nhanh tiến độ trao đổi kỹ thuật để Việt Nam sớm xuất khẩu nhãn tươi sang Nhật Bản.
Về tiềm năng xuất khẩu quả bưởi sang Nhật Bản, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh cho biết: Tỉnh Phú Thọ có giống bưởi đặc sản Đoan Hùng với diện tích 1.500 ha, năng suất 124 tạ/ha, sản lượng 15.004 tấn/năm. Bưởi Đoan Hùng đã được Cục Sở hữu Trí tuệ – Bộ Khoa học và Công nghệ cấp văn bằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý năm 2006; năm 2015, sản phẩm bưởi Đoan Hùng là 1 trong số 59 thương hiệu sản phẩm nông nghiệp có chất lượng tốt được vinh danh “Thương hiệu vàng nông nghiệp năm 2014”. Cục Bảo vệ Thực vật hiện đang đàm phán để xuất khẩu bưởi Đoan Hùng sang các thị trường lớn như Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ.
Đại sứ Vũ Hồng Nam cho biết: Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản hiện đang phát triển rất tốt, điều này tạo nền tảng thuận lợi cho việc xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Việc tăng cường xuất khẩu nông sản sẽ giúp người nông dân trong nước thay đổi cung cách sản xuất theo hướng nâng cao hơn nữa chất lượng và giá trị gia tăng, để sản phẩm nông sản Việt Nam thâm nhập được vào các thị trường khó tính.
Theo Đại sứ, quả bưởi Việt Nam có triển vọng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản do nguy cơ dịch hại của quả bưởi ở mức thấp. Bên cạnh đó, Nhật Bản lại không có loại quả này. Đại sứ cho biết: Một số loại quả của Việt Nam không nằm trong danh sách kiểm dịch của Nhật Bản, cần công bố danh sách này để các doanh nghiệp nắm được, từ đó tăng cường xuất khẩu trái cây sang thị trường Nhật Bản.
Đại sứ cho biết, hiện khâu bảo quản nông sản xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa được tốt nên một số sản phẩm nông sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản mẫu mã vẫn chưa đẹp. Đại sứ đề nghị Bộ NN&PTNT cần đưa ra phương án tổng thể, loại quả nào có triển vọng vào thị trường Nhật Bản thì xúc tiến các bước đi cần thiết để xuất khẩu loại quả đó.
Thứ trưởng Lê Quốc Doanh mong muốn Đại sứ Vũ Hồng Nam đóng vai trò làm cầu nối, tăng cường hợp tác giữa các cơ quan quản lý nhà nước của hai Bộ NN&PTNT hai nước, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực tại Trung tâm tại Đại học Cần Thơ, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
Nguồn: Bộ NN&PTNT
Khôi phục sản xuất nông nghiệp khu vực miền Trung sau thiên tai năm 2020
Chiều 26/11, Đoàn công tác của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn do Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chỉ đạo khôi phục sản xuất sau bão lũ tại một số địa phương trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
Đoàn đã đến kiểm tra việc triển khai các hoạt động cải tạo đồng ruộng, kênh mương bị bồi lấp sau lũ lụt tại xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong; thăm và thả cá giống tại Trại cá Trúc Kinh, huyện Gio Linh; tham quan mô hình “úm gà” tại Trại thực nghiệm của Trường Trung cấp Nông nghiệp Quảng Trị; kiểm tra hoạt động khắc phục sạt lở xã Gio Hải, huyện Gio Linh.
Nhân dịp này, để hỗ trợ tỉnh Quảng Trị khôi phục sản xuất nông nghiệp, sớm ổn định đời sống người dân, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã tiến hành trao tặng: 1.100 con gia cầm; 300 tấn thức ăn chăn nuôi; 740 triệu tiền thuốc thú y; 1.500 con cá trắm, rô phi, cá chép bố mẹ đã sẵn sàng sinh sản vào đầu năm 2021 với khoảng 15-16 triệu con giống cho nông dân… Tổng giá trị của đợt chuyển giao kỹ thuật và hỗ trợ lần này gần 1,2 tỷ đồng.
Trong quá trình đi kiểm tra thực tế việc khắc phục hậu quả bão lũ tại các địa phương, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường đã đánh giá cao những nỗ lực của chính quyền và người dân Quảng Trị trong thời gian vừa qua. Tỉnh đã sớm dồn tổng lực để huy động lực lượng khắc phục hậu quả bão lũ để ổn định đời sống người dân. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho rằng công việc quan trọng nhất hiện nay là phải chú trọng việc tái thiết các cơ sở hạ tầng, công trình thủy lợi kết hợp với các lực lượng để khơi thông kênh mương, giải phóng những ruộng đất bị cát bồi lấp để chuẩn bị cho vụ Đông Xuân sắp tới. Đặc biệt, phải tạo sinh kế cho người dân từ nay đến Tết Nguyên đán thông qua việc phát động trồng rau và chăn nuôi ngắn ngày. Bên cạnh đó, tỉnh chuẩn bị bộ giống và vật tư tốt nhất dồn lực sản xuất thắng lợi trong vụ Đông Xuân 2020-2021 để bù lại những mất mát của bà con. Qua đó, sớm phục hồi sản xuất, kinh tế cho người dân về lâu dài. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cũng đề nghị tỉnh Quảng Trị cần sớm nghiên cứu triển khai các phương án, giải pháp bảo vệ bờ biển tại những nơi bị sạt lở nặng theo hướng bền vững nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu.
Bộ NN&PTNT
Hội nghị Phát triển bền vững cây ăn quả có múi tại các tỉnh phía bắc
Ngày 10/11, tại Hòa Bình, Bộ NN&PTNT phối hợp UBND tỉnh tổ chức hội nghị thúc đẩy phát triển bền vững cây ăn quả có múi (CAQCM) tại các tỉnh phía Bắc. Dự và chủ trì hội nghị có Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Quốc Doanh; Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Bùi Văn Khánh; Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đinh Công Sứ. Ngoài ra còn có lãnh đạo các sở, ngành của tỉnh và đại diện Sở NN&PTNT 22 tỉnh phía Bắc
Theo báo cáo của Cục Trồng trọt (Bộ NNPTNT), đến nay tại nhiều địa phương đã hình thành các vùng sản xuất cây có múi hàng hóa tập trung như cam Hà Giang, Hòa Bình, Bắc Giang, bưởi Phú Thọ, Bắc Giang, Hòa Bình, Tuyên Quang, quýt Bắc Kạn và Lạng Sơn.
Tổng diện tích cây có múi của các tỉnh miền núi phía Bắc khoảng 121.000 ha (chiếm 47,5% diện tích của cả nước).
Đáng chú ý, điện tích cây có múi liên tục tăng trong những năm gần đây, với tốc độ tăng trưởng cao. Thống kê trong 10 năm từ 2009 – 2019, tốc độ tăng trưởng cây có múi bình quân 10%/năm về diện tích (tương đương 7,3 nghìn ha/năm), trên 12% về sản lượng (69,4 nghìn tấn).
Cùng với sự tăng trưởng diện tích, sản lượng, sản xuất cây có múi ở các tỉnh miền núi phía Bắc còn nhiều hạn chế và gặp nhiều khó khăn về khâu tiêu thụ sản phẩm, dịch bệnh. Ngoài ra, tình trạng lạm dụng phân bón vô cơ và thuốc bảo vệ thực vật hóa học, nguy cơ làm ô nhiễm môi trường đất, nước, bùng phát dịch hại và ảnh hưởng đến chất lượng.
Tại Hội nghị, các đại biểu đã đóng góp nhiều tham luận về tình hình sản xuất, tình hình dịch hại cây có múi, định hướng công tác bảo vệ thực vật và mở cửa thị trường, công nghiệp chế biến, xúc tiến các loại quả có múi; tổng hợp kết quả nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về giống, canh tác, sau thu hoạch trong những năm gần đây và định hướng trong thời gian tới…
Phát biểu tại hội nghị, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Bùi Văn Khánh nhấn mạnh: Những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp của tỉnh hình thành nhóm sản phẩm chủ lực, tạo được uy tín tại thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu. Tỉnh hoàn thành bản đồ phân hạng thích nghi đất cho sản xuất trồng trọt với diện tích phân hạng 116 nghìn ha. Đặc biệt, CAQCM là cây trồng chủ lực trong tiến trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh. Đến năm 2020, toàn tỉnh có khoảng 11.500 ha. Trong đó, diện tích kinh doanh khoảng 7.400 ha; 2.119 ha cây có múi được chứng nhận đủ điều kiện ATTP, VietGAP, hữu cơ. Dự kiến năm 2020, giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích canh tác đạt trên 350 triệu đồng/ha. Bên cạnh những kết quả đạt được, sản xuất CAQCM tại tỉnh còn một số hạn chế, tồn tại như: Tình trạng kinh doanh, buôn bán giống không rõ nguồn gốc, không đảm bảo chất lượng vẫn diễn ra; kỹ thuật áp dụng chưa đồng bộ; nhiều loại sâu bệnh mới phát sinh; hoạt động bảo quản, sơ chế, chế biến chưa phát triển; vấn đề bảo vệ thương hiệu và quyền sở hữu trí tuệ chưa được quan tâm.
Chủ tịch UBND tỉnh Bùi Văn Khánh đề nghị Bộ NN&PTNT cùng các ngành liên quan hỗ trợ tỉnh tổ chức rà soát cây có múi; cấp mã vùng; tăng cường xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường xuất khẩu; chuyển giao công nghệ bảo quản, chế biến sản phẩm CAQCM. Đồng thời, hỗ trợ tỉnh thực hiện đề án tái canh vùng cam Cao Phong.
Phát biểu kết luận Hội nghị, Thứ trưởng NN và PTNT Lê Quốc Doanh ghi nhận nỗ lực và những kết quả đạt được trong phát triển CAQCM của các tỉnh phía Bắc. Thứ trưởng khẳng định: Sản xuất cây có múi có vị trí, vai trò quan trọng trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Trước những khó khăn, bất cập còn tồn tại, đề nghị các cục, vụ, bộ, ban ngành T.Ư cần phối hợp chặt chẽ với các địa phương triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm phát triển cây có múi bền vững, thực hiện tốt quy hoạch vùng trồng.
Thứ trưởng đề nghị Cục Trồng trọt chủ trì hướng dẫn các địa phương rà soát, điều chỉnh diện tích cây có múi theo quy hoạch. Đối với Cục Bảo vệ thực vật tập trung chỉ đạo phòng, chống các loại bệnh gây hại; ban hành quy trình phòng trừ bệnh Greening và bệnh vàng lá, thối rễ. Trung tâm Khuyến nông quốc gia ưu tiên phát triển mô hình vườn mẫu. Các Viện triển khai tốt chương trình giống cây trồng của Bộ NN&PTNT.
Nguồn: Bộ NN&PTNT
Triển vọng canh tác lúa hữu cơ tại vùng khai thác rươi
Xã Hồng Tiến (Kiến Xương, tỉnh Thái Bình) là địa phương có truyền thống trong nghề khai thác rươi. Đây là nguồn lợi có giá trị kinh tế rất cao đối với nông dân địa phương, cho thu nhập hàng chục triệu đồng/sào/năm. Để bảo vệ và khai thác rươi, từ xa xưa, vùng đất này đã được người nông dân giữ gìn môi trường sống của rươi. Năm 2020, nhờ sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông Thái Bình, HTX SXKD dịch vụ thủy sản xã Hồng Tiến đã thực hiện mô hình canh tác lúa hữu cơ tại vùng khai thác rươi, bước đầu mang lại những kết quả tích cực.
Hồng Tiến là xã nằm gần cửa sông Hồng đổ ra biển nên nguồn nước ở đây lợ, thích hợp cho loài rươi sinh sống, phát triển và chất lượng thịt rươi cũng ngon hơn các địa phương khác trong cả nước.
Ông Trần Văn Kiểm, Giám đốc HTX SXKD dịch vụ thủy sản xã Hồng Tiến cho biết: Toàn xã có 65ha bãi dọc triền sông Hồng có thể cho thu hoạch rươi với hơn 80 hộ sản xuất. Với hai vụ thu hoạch rươi vào tháng 9 và tháng 10 âm lịch hàng năm, nông dân thu về gần 88 tấn rươi cho giá trị gần 40 tỷ đồng. Ngoài thu nhập từ con rươi, nông dân Hồng Tiến còn khai thác đánh bắt được từ 70 – 80 tấn cáy tự nhiên. Với giá thị trường ổn định 70.000 đồng/kg cáy, bà con thu về trên dưới 5 tỷ đồng. Đối với con rươi, các yếu tố: chu kỳ mùa vụ, nhiệt độ môi trường, độ mặn, độ cao của thuỷ triều… ảnh hưởng lớn tới sinh sản của rươi cũng như quyết định năng suất, sản lượng rươi thu hoạch. Những năm gần đây, các hộ dân có đất khai thác rươi đã đầu tư đắp bờ bao, hệ thống kênh mương, cửa cống tại các bãi bồi ven sông tạo điều kiện cho rươi tự nhiên sinh trưởng, phát triển. Để tạo sinh cảnh và thu nhập, các hộ đều kết hợp khai thác rươi, cáy và trồng cói, sản lượng mỗi năm đạt hơn 200 tấn cói khô, thu nhập trên 2 tỷ đồng.
Tuy nhiên, trồng cói yêu cầu nhiều công lao động, trong khi lực lượng lao động trong nông nghiệp ngày càng thiếu, khiến diện tích cói giảm dần. Năm 2019, HTX đã thử nghiệm đưa lúa vào cấy thay thế cói với diện tích trên 1ha, cấy 1 vụ/năm, thời gian còn lại đất được nghỉ ngơi, tạo điều kiện thuận lợi cho rươi sinh trưởng và phát triển. Năm 2020, được sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông Thái Bình, HTX mở rộng mô hình lên trên 10ha tại thôn Tân Thành. Lúa cấy tại vùng khai thác rươi là các giống truyền thống như Bao Thai, Thầu Dầu, năng suất không cao nhưng chất lượng gạo ngon, phù hợp với đồng đất. Trong suốt quá trình canh tác lúa, tuyệt đối không sử dụng phân hóa học, không sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ tránh làm ảnh hưởng đến ấu trùng rươi đang phát triển ở lớp đất phía dưới mặt ruộng lúa. Việc làm cỏ cũng như phòng, trừ sâu bệnh cho lúa được thực hiện bằng biện pháp thủ công. Đây là yếu tố bảo đảm cho chất lượng lúa hữu cơ.
Ông Trần Văn Kiểm, Giám đốc HTX SXKD dịch vụ thủy sản xã Hồng Tiến cho biết thêm: Canh tác lúa trên vùng khai thác rươi, cáy, các đối tượng này đã bổ trợ cho nhau, trong đó việc cải tạo đất, chăm sóc và quá trình sinh trưởng, phát triển của cây lúa đã tạo ra nơi trú ẩn lý tưởng cùng nguồn thức ăn dồi dào cho con rươi, con cáy phát triển. Ngược lại, con rươi, cáy xử lý các chất thải hữu cơ trong đất, nước để tạo ra phân bón hữu cơ giúp cây lúa khỏe mạnh, chống chọi lại dịch bệnh và đạt năng suất, chất lượng cao.
Ông Trần Quốc Thể là một trong những hộ tham gia mô hình cho biết: Nhà tôi có gần 2 mẫu vùng bãi khai thác rươi, cáy. Trước đây, tôi trồng cói vừa tăng thu nhập, vừa tạo môi trường cho rươi phát triển. Tuy nhiên, cói trồng trong thời gian dài khiến đất chai cứng, được sự hỗ trợ của HTX, tôi đưa cây lúa vào thay thế cói với diện tích 1 mẫu. Tuy năng suất lúa không cao như ruộng nội đồng nhưng tạo sản phẩm sạch, được HTX bao tiêu đầu ra. Đặc biệt, cấy lúa đã giúp cải tạo môi trường sinh thái, giúp con rươi, con cáy phát triển tốt hơn. Rươi chưa đến vụ thu hoạch nhưng qua kiểm tra, mật độ lỗ rươi cao hơn vùng trồng cói; con cáy rất to, mẩy, chắc.
Theo ông Trần Văn Kiểm, Giám đốc HTX SXKD dịch vụ thủy sản xã Hồng Tiến, đã có một số đơn vị chế biến gạo xuất khẩu liên hệ bao tiêu sản phẩm gạo hữu cơ khi HTX mở rộng mô hình. Với mục tiêu giữ vùng nguyên liệu đặc thù của địa phương, hướng tới xây dựng thương hiệu gạo hữu cơ, mô hình canh tác lúa hữu cơ tại vùng khai thác rươi bước đầu đem lại hiệu quả tích cực, dự kiến sẽ được quy hoạch mở rộng lên 30 – 40ha, cấy 2 vụ lúa/năm trong thời gian tới.
Phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn năm 2020-2030
Ngày 2/11, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) tổ chức Hội nghị triển khai Đề án Phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn năm 2020-2030
ề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020 – 2030 do Bộ NN&PTNT trình Chính phủ và vừa được phê duyệt bắt nguồn từ chính thực tiễn, phương thức và định hướng chung của Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Đề án nhằm thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia và phát huy tiềm năng thế mạnh về nông nghiệp hữu cơ của các vùng miền và địa phương, góp phần định vị và nâng cao thương hiệu sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trên bản đồ nông nghiệp thế giới; đưa Việt Nam trở thành quốc gia có trình độ sản xuất nông nghiệp hữu cơ ngang bằng các nước tiên tiến trên thế giới.
Đây cũng là chỉ đạo xuyên suốt của Trung ương, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ những năm qua. Và ngành nông nghiệp đang tích cực triển khai chủ trương này. Bên cạnh đó, nông nghiệp hữu cơ đang là xu thế phát triển và sẽ phát triển nhanh trong thời gian tới do đảm bảo cung cấp được các sản phẩm tốt hơn cho sức khỏe con người và cho xã hội.
Theo Bộ NN&PTNT, tính đến nay, diện tích canh tác hữu cơ tại Việt Nam tăng từ 53.350 ha năm 2016 lên khoảng 237.693 ha năm 2019. Cả nước có 46/63 tỉnh thành đang thực hiện và có phong trào sản xuất hữu cơ. Số nông dân tham gia sản xuất hữu cơ là 17.168 người.
Số lượng doanh nghiệp sản xuất hữu cơ là 97 doanh nghiệp; tham gia xuất khẩu là 60 doanh nghiệp với kim ngạch khoảng 335 triệu USD/năm. Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ Việt Nam được tiêu thụ trong nước và hiện đã xuất khẩu đi 180 nước trên thế giới, trong đó có Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật, Đức, Anh, Hàn Quốc, Nga, Singapore, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Italia… là những thị trường tiêu thụ nông sản hữu cơ lớn nhất trên thế giới.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam cho biết, hội nghị nhằm phổ biến, quán triệt các nội dung chính của Đề án Phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020 – 2030 giúp các đơn vị quản lý của Bộ, các địa phương, hiệp hội ngành hàng, người sản xuất và doanh nghiệp nắm được quan điểm phát triển, các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của Nhà nước về phát triển nông nghiệp hữu cơ. Qua đó triển khai xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ của Đề án phù hợp với chức năng của đơn vị và điều kiện thực tế của địa phương.
Theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam, hiện nay rất nhiều hợp tác xã và hộ dân triển khai các mô hình nông nghiệp hữu cơ. Tuy nhiên để họ hiểu nông nghiệp hữu cơ như thế nào, các tiêu chuẩn ra sao thì còn thiếu nhiều kiến thức.
Bộ NN&PTNT đã tham mưu Chính phủ ban hành Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030 nhằm tiến tới từng bước đưa Việt Nam trở thành quốc có trình độ sản xuất nông nghiệp hữu cơ ngang bằng các nước tiên tiến. Để làm được việc này, theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam, bên cạnh diện tích tiếp tục phải thâm canh, tăng năng suất đảm bảo an ninh lương thực thì từng địa phương căn cứ vào diện tích đất, cũng như mặt hàng nông nghiệp chủ lực để chỉ đạo phát triển nông nghiệp hữu cơ. Mặt khác, các tỉnh cũng cần tập trung công tác đào tạo và nâng cao năng lực sản xuất để các hợp tác xã và hộ dân triển khai các mô hình nông nghiệp hữu cơ hiểu rõ nông nghiệp hữu cơ như thế nào, tiêu chuẩn-quy chuẩn ra sao. Do đó, sau đợt này, bộ sẽ tổ chức các đợt tập huấn nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý các cấp từ cấp sở, cấp địa phương và người sản xuất về các tiêu chuẩn hữu cơ, nhất là Tiêu chuẩn TCVN 11041:2017 – Tiêu chuẩn quốc gia về nông nghiệp hữu cơ.
Ngoài ra Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ hướng dẫn các quy trình sản xuất hướng đến nông nghiệp hữu cơ và đạt chuẩn nông nghiệp hữu cơ đến từng địa phương. Bởi lẽ, quy trình đầu tư để chuyển đổi từ sản xuất thông thường sang sản xuất nông nghiệp hữu cơ là rất tốn kém, không phải nơi nào cũng làm được, nên cần phải triển khai từng bước.
Một vấn đề nữa được Thứ trưởng Trần Thanh Nam nhấn mạnh, đó là làm sao để phối hợp với các ngành trong việc quản lý các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ khi đưa ra thị trường về nhãn mác, chất lượng. “Vừa qua, chúng tôi thử đi tìm hiểu một số nơi cho thấy có những mặt hàng được dán nhãn mác nông nghiệp hữu cơ nhưng lại chưa được chứng nhận nông nghiệp hữu cơ. Đây là vấn đề hiện nay cần phải chấn chỉnh. Việc này không chỉ riêng một mình Bộ NN&PTNT làm được mà đòi hỏi các ngành, nhất là các cơ quan quản lý thị trường cùng tham gia phối hợp”.
Vì vậy, trong thời gian tới, Bộ sẽ hỗ trợ về cơ sở pháp lý, tạo điều kiện để giúp đỡ các tổ chức chứng nhận hữu cơ trong nước để họ nâng cao năng lực đồng thời định hướng cho họ liên kết với các tổ chức chứng nhận quốc tế để từng bước nâng cao vị thế, trình độ, năng lực của các tổ chức chứng nhận trong nước ngang bằng các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nguồn: Bộ NN&PTNT