Hội Nghị Tuyên truyền Kiến thức về Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và Các Chính sách Hỗ trợ, Phát triển Kinh tế Tập thể, Hợp tác xã tại Thái Nguyên
Hội Nghị Tuyên truyền Kiến thức về Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và Các Chính sách Hỗ trợ, Phát triển Kinh tế Tập thể, Hợp tác xã tại Thái Nguyên
Ngày 22/09 vừa qua. Đại diện Viện Vitad-Agri cùng các chuyên ra đã tham gia hội nghị Tuyên truyền Kiến thức về Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và Các Chính sách Hỗ trợ, Phát triển Kinh tế Tập thể, Hợp tác xã do Liên Minh Hợp Tác Xã – Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái Nguyên và Viện Nghiên cứu Chiến lược Chính sách Công Thương – Bộ Công Thương phối hợp thực hiện. Hãy cùng xem lại hững hình ảnh tại Hội nghị và nội dung được thảo luận trong Hội nghị sau!
Slide Nông nghiệpViệt Nam EVFTA- GS Đỗ Tuyết Mai
Slide Hành động của Doanh nghiệp trước EVFTA_PGS TS Ngô Thị Thuận
Hội nghị trực tuyến triển khai kế hoạch thực thi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA)
Ngày 6/8, tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì Hội nghị trực tuyến “Triển khai kế hoạch thực thi EVFTA”.
Hội nghị được tổ chức ngay sau khi Chương trình hành động của Chính phủ thực thi EVFTA được Thủ tướng ký (vào hôm qua, 5/8) với 5 nhóm nhiệm vụ chủ yếu.
EVFTA là một FTA thế hệ mới, có tiêu chuẩn cao, toàn diện, độ mở lớn và cân bằng lợi ích cho cả hai bên. Riêng đối với Việt Nam, nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, trong điều kiện bình thường thì hiệp định sẽ góp phần giúp GDP tăng thêm bình quân lên đến 3,25% cho giai đoạn 5 năm đầu thực hiện, lên đến 5,3% cho 5 năm tiếp theo và lên đến 7,72% trong 5 năm sau đó. Theo một nghiên cứu khác của Ngân hàng Thế giới, nếu thực hiện đồng thời cả EVFTA và CPTPP thì GDP của Việt Nam có thể tăng thêm tới 3,2% trong thập kỷ 2021-2030.
Với cam kết mở cửa thị trường mạnh mẽ, cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu lên tới gần 100% biểu thuế của EU, EVFTA dự kiến sẽ mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tăng kim ngạch xuất khẩu sang EU thêm khoảng 42% vào năm 2025 và gần 45% vào năm 2030 so với kịch bản không có hiệp định và tăng thu hút đầu tư FDI vào Việt Nam.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh EVFTA là “con đường cao tốc” thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mở ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường EU quy mô 15.000 tỷ USD. Nhưng đây cũng là thị trường tiêu chuẩn cao, yêu cầu khắt khe nên sẽ không có chỗ cho doanh nghiệp thiếu kiên trì, thiếu sáng tạo. “EVFTA là điều kiện để doanh nghiệp Việt nâng cấp chính mình để vào chuỗi liên kết cung ứng toàn cầu, nhất là khi nhiều tập đoàn EU đang dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam”.
Thủ tướng cũng cho rằng, tồn tại lớn nhất là nhận thức hạn chế của các doanh nghiệp về hiệp định thương mại tự do này, nên việc tận dụng cơ hội khiêm tốn. Chưa kể, EVFTA có hiệu lực trong bối cảnh “cơn gió ngược dữ dội từ Covid-19” khiến chuỗi cung ứng, thị trường toàn cầu bị xáo trộn. Dù thế, EVFTA vẫn được kỳ vọng là cú hích lớn cho xuất khẩu mỗi bên.
Để “đường cao tốc tới EU” thông thoáng, Thủ tướng nêu các yêu cầu về truyền thông, phát triển nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, cạnh tranh trên thị trường nội địa với sản phẩm EU….
Bộ trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh – cơ quan giữ vai trò chính trong thực thi chương trình hành động thực thi EVFTA, cho rằng xoá bỏ những rào cản trong hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua cải cách hành chính là điều kiện giúp doanh nghiệp Việt tận dụng tối đa cơ hội EVTA đem lại.
Ở khía cạnh này, Bộ trưởng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường nói cần thay đổi thế chế quyết liệt nếu “không muốn doanh nghiệp Việt bị loại bỏ khỏi cuộc chơi”. Người đứng đầu ngành nông nghiệp hứa trong lĩnh vực ngành sẽ tạo mọi cơ hội thuận lợi cho doanh nghiệp.
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh: “Thực hiện hiệp định này với quan điểm cả hai cùng thắng chứ không riêng với Việt Nam, để khai thác hết hiệu quả của hiệp định. Muốn vậy chúng ta phải vượt lên chính mình thông qua tái cơ cấu nền kinh tế, doanh nghiệp”.
Nhấn mạnh “buộc phải thay đổi nếu muốn thích ứng, tận dụng cơ hội”, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu các bộ, ngành và địa phương chủ động, kịp thời ban hành các văn bản pháp luật, nội luật hoá cam kết và hướng dẫn thực thi EVFTA.
Với các hiệp hội, doanh nghiệp, Thủ tướng khuyến nghị “phải thay đổi tư duy quản lý, kinh doanh, chú ý hơn bảo đảm nghĩa vụ xã hội, tiêu chuẩn lao động và nguyên tắc bảo vệ môi trường”. Thủ tướng khẳng định, Chính phủ sẽ làm vai trò kiến tạo phát triển, tạo khuôn khổ pháp lý, khuyến khích doanh nghiệp nâng cấp chính mình để nắm bắt cơ hội mà EVFTA đem lại.
(Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)
Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa
Theo Phòng NN-PTNT huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk, các lĩnh vực từ trồng trọt đến chăn nuôi trên địa bàn huyện đều đã đưa máy móc vào sản xuất nhằm tăng năng suất, sản lượng, nâng cao hiệu quả kinh tế. Điển hình trong sản xuất lúa gạo, khâu làm đất đạt trên 95%; khâu phun thuốc bảo vệ thực vật đạt 100%; thu hoạch đạt 100%; tưới tiêu đạt 100%…
Ông Đỗ Đức Thiềm, thành viên của HTX cho biết, khi tham gia vào HTX, các thành viên được hướng dẫn canh tác theo quy trình, sử dụng phân bón hữu cơ thay thế phân vô cơ; dùng thuốc sinh học, hạn chế tối đa việc phun thuốc trừ sâu độc hại, bảo đảm chất lượng hạt gạo an toàn. Bên cạnh đó, khi tham gia sản xuất, bà con nông dân được hỗ trợ giống, phân bón trả chậm, hướng dẫn kỹ thuật, bao tiêu đầu ra với giá ổn định.
Nông nghiệp Thủ đô tạo bước chuyển mới
(HNM) – 6 tháng đầu năm 2020, ngành Nông nghiệp Thủ đô tăng trưởng 1,61% so với cùng kỳ năm trước. Trong bối cảnh quý I-2020 tăng trưởng âm và dịch Covid-19 tác động không nhỏ đến sản xuất, tiêu thụ nông sản, có thể xem đây là một nỗ lực đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, để đạt mục tiêu tăng trưởng 4,12% trong năm 2020, ngành Nông nghiệp Thủ đô cần quyết liệt tạo bước chuyển mới trên cơ sở bám sát diễn biến thời tiết, kiểm soát tốt dịch bệnh, đẩy mạnh thu hút đầu tư…
Lấy lại đà tăng trưởng
Đến thời điểm này, có thể khẳng định nông nghiệp Hà Nội đã có những chuyển động mới rất đáng ghi nhận. “Nếu như quý I-2020, Nông nghiệp Hà Nội tăng trưởng âm 1,17% thì bước sang quý II-2020 đã có bước đột phá, đưa tăng trưởng ngành trong 6 tháng đầu năm 2020 lên 1,61%. Đây là kết quả đáng ghi nhận trong bối cảnh nông nghiệp cả nước chỉ tăng 1,18% trong nửa đầu năm 2020…”, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Nguyễn Xuân Đại cho biết.
Kết quả này được thể hiện rõ nét trên các lĩnh vực. Trước hết, diện tích lúa xuân không tăng nhưng năng suất tăng đáng kể, đạt khoảng 60-61 tạ/ha. Theo Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Tam Hưng (huyện Thanh Oai) Đỗ Văn Kiên, trước kia lúa xuân tại địa phương cho năng suất 58-60 tạ/ha thì vụ này đạt 63 tạ/ha. Tương tự, diện tích rau vẫn duy trì hơn 23.020ha, nhưng tăng diện tích rau an toàn, rau VietGAP, hữu cơ… nên năng suất rau các loại đạt 230,23 tạ/ha (bằng 102,37% so với năm trước).
Theo Trưởng phòng Kinh tế huyện Thanh Oai Dương Bá Mẫn, huyện đã tập trung phát triển cây lúa với 70% diện tích là giống chất lượng cao. Năng suất lúa xuân năm nay của Thanh Oai cao nhất thành phố, đạt 63tạ/ha.
Trong khi đó, sản lượng thủy sản trong 6 tháng đầu năm đạt 52,52 nghìn tấn, bằng 106,02% so với cùng kỳ năm 2019… Ông Lê Văn Tín, xã Phương Tú (huyện Ứng Hòa) cho biết: “Gia đình tôi nuôi trồng theo phương thức thâm canh với các giống cá giá trị cao nên chỉ với hơn 1ha đã có thể nuôi 3 lứa cá, tăng 1 lứa so với trước, doanh thu đạt 500 triệu đồng”.
Phó Chủ tịch UBND huyện Ứng Hòa Nguyễn Chí Viễn thông tin thêm: “Trong 6 tháng qua, diện tích nuôi trồng thủy sản của huyện đạt 3.820ha và sản lượng đạt 9.167 tấn, tăng lần lượt 10,5% và 6,05% so với cùng kỳ. Diện tích nuôi trồng thủy sản toàn thành phố tăng 700ha thì riêng huyện Ứng Hòa đóng góp 420ha”.
Ở lĩnh vực chăn nuôi, trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, đàn lợn của thành phố được khôi phục mạnh mẽ, hiện là 1,3 triệu con (bằng hơn 80% so với cùng kỳ năm trước). Bên cạnh chăn nuôi lợn nói riêng, gia súc nói chung, nhiều địa phương cũng chú trọng phát triển chăn nuôi gia cầm. Đơn cử, trong 6 tháng qua, giá trị các sản phẩm gia cầm công nghệ cao của huyện Thanh Oai đạt gần 700 tỷ đồng.
Tạo đột phá mới
Giải thích về sự phục hồi tăng trưởng của ngành Nông nghiệp thời gian qua, Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Chu Phú Mỹ cho rằng: “Trước hết là nhờ những định hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng của các địa phương. Tiếp đến là sự chủ động nắm bắt thị trường, diễn biến thời tiết để có những điều chỉnh cụ thể của các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ nông dân. Bên cạnh đó, sự phát triển của các chuỗi, mô hình nông nghiệp công nghệ cao đã tạo đột phá mới, bởi các mô hình này cho hiệu quả kinh tế cao gấp 3-4 lần so với sản xuất bình thường. 141 chuỗi liên kết, 164 mô hình nông nghiệp công nghệ cao sẽ tiếp tục được nhân rộng, là điểm tựa để Nông nghiệp Thủ đô bứt phá trong 6 tháng cuối năm”.
Để bảo đảm mục tiêu tăng trưởng 4,12% trở lên trong năm 2020, góp phần vào tăng trưởng chung của thành phố đồng thời cung cấp ổn định lương thực, thực phẩm cho người dân, Sở NN&PTNT đã xây dựng các kịch bản tăng trưởng. Trong đó, trồng trọt tăng 0,28%; chăn nuôi tăng 7,47%, thủy sản tăng 6,52%… Lĩnh vực chăn nuôi và thủy sản tương đối khả quan, còn trong lĩnh vực trồng trọt, ngành Nông nghiệp sẽ tập trung vào các giống rau, hoa, cây quả chất lượng cao, giống ngắn ngày với diện tích tăng thêm khoảng 600ha; đồng thời tăng cường chăm sóc mở rộng diện tích cho thu hoạch đối với cây ăn quả.
Về chăn nuôi, theo Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hà Nội Nguyễn Ngọc Sơn, bên cạnh nỗ lực khôi phục đàn lợn lên 1,8 triệu con như trước khi có bệnh Dịch tả lợn châu Phi, sẽ tập trung tăng đàn bò, đàn gia cầm… Với nuôi trồng thủy sản duy trì diện tích khoảng 24.000ha, nhưng mở rộng các mô hình nuôi trồng theo phương thức thâm canh để đạt hiệu quả lớn hơn.
Bên cạnh đó, ngành Nông nghiệp Thủ đô sẽ đồng hành cùng các doanh nghiệp phát triển chuỗi liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản; đẩy mạnh xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư; tận dụng tối đa nguồn lực từ các sản phẩm của Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) để kết nối và mở rộng thị trường.
Trong 282 dự án Hà Nội mời gọi đầu tư tại Hội nghị “Hà Nội 2020 – Hợp tác đầu tư và phát triển” ngày 27-6 vừa qua, lĩnh vực nông nghiệp có 15 dự án. Đây sẽ là những dự án tiềm năng, góp phần giúp ngành Nông nghiệp Thủ đô tăng tốc trong thời gian tới
(Nguồn: Hà Nội Mới)
Đẩy mạnh việc phát triển tài sản trí tuệ trong nông nghiệp
Thực hiện Chương trình công tác Đoàn và phong trào thanh niên năm 2020 của Ban chấp hành Đoàn thanh niên Bộ Khoa học và Công nghệ; hướng đến chào mừng Đại hội Đảng bộ Bộ Khoa học và Công nghệ, được sự đồng ý của Đảng ủy, Đoàn thanh niên Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Đoàn thanh niên Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện Khoa học sở hữu trí tuệ, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (KHNNVN) phối hợp triển khai Trạm khai thác thông tin và sử dụng dịch vụ sở hữu công nghiệp (gọi tắt là IPPlatform) và tổ chức “Ngày hội sở hữu trí tuệ” cho đoàn viên, thanh niên, nghiên cứu viên trẻ trong lĩnh vực nông nghiệp năm 2020.
Các đại biểu cắt băng khai mạc.
Về phía đoàn khối các cơ quan Trung ương có đồng chí Trần Hữu, Ủy viên Ban thường vụ Trung ương Đoàn, Bí thư Đoàn.
Về phía Bộ Khoa học và Công nghệ có đồng chí Phương Tuyến, Chánh văn phòng Đảng – Đoàn thể; đồng chí Phạm Quang Minh, Phó Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Viên Nam; đồng chí Nguyễn Hữu Cẩn, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ; đồng chí Lê Vũ Tiến, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn, Bí thư Đoàn Bộ; đại diện Vụ Khoa học và Công nghệ các ngành kinh tế, kỹ thuật; các đồng chí Ủy viên Ban thường vụ, Ban Chấp hành Đoàn Bộ.
Về phía Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có đồng chí Nguyễn Hoàng Linh, Phó Bí thư Đoàn Bộ, đồng chí Đào Ngọc Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi và các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ, Ủy viên Ban Chấp hành Đoàn bộ.
Về phía Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam có đồng chí Đào Thế Anh, Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam; đồng chí Phạm Văn Thuận, Ủy viên Ban Thường Vụ Đảng ủy Viện, Trưởng ban Tổ chức hành chính; đồng chí Lã Tuấn Nghĩa, Ủy viên Ban thường vụ Đảng ủy Viện, Giám đốc Trung tâm Tài nguyên thực vật; đồng chí Hoàng Thị Hiền, Chủ tịch công đoàn Viện cùng đại diện Lãnh đạo các ban, các Viện và trung tâm trực thuộc Viện.
Khai trương Trạm khai thác thông tin và sử dụng dịch vụ sở hữu công nghiệp.
Các sản phẩm được trưng bày tại gian hàng là các sản phẩm khoa học công nghệ được thực hiện bởi trí óc và bàn tay của những nhà khoa học từ hai Bộ (các đơn vị đầu mối của Viện KHNNVN, và gian hàng của Đoàn thanh niên Viện ƯDCN, Viện NLNTVN, Viện KHSHTT) là đúc kết của kinh nghiệm và thực tiễn nghiên cứu sau nhiều năm của các tập thể. Rất nhiều sản phẩm trong triển lãm đã và sắp được bảo hộ Giống, thiết bị kỹ thuật và sở hữu công nghiệp. Thông qua triển lãm này, ban tổ chức mong muốn các đơn vị có thể chia sẻ với nhau về các nghiên cứu ứng dụng của đơn vị mình, đồng thời tìm hiểu thêm về tầm quan trọng của bảo hộ các tài sản trí tuệ, qua đó, lãnh đạo các đơn vị cũng sẽ có thêm cái nhìn tổng quát hơn để có thể quản trị những tài sản trí tuệ của đơn vị mình.
Chương trình được tổ chức nhằm phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của đoàn viên, thanh niên trong công tác nghiên cứu khoa học, kết nối chuỗi giá trị trong sở hữu tài sản trí tuệ giữa nhà quản lý, nhà khoa học và doanh nghiệp giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Khoa học và Công nghệ.
Toàn cảnh Hội thảo “Quản trị tài sản trí tuệ và công cụ khai thác thông tin sở hữu công nghệp phục vụ hoạt động tạo dựng, bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ trong nông nghiệp”.
Tại Hội thảo “Quản trị tài sản trí tuệ và công cụ khai thác thông tin sở hữu công nghệp phục vụ hoạt động tạo dựng, bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ trong nông nghiệp”, nhiều vấn đề nóng liên quan đến công tác tạo dựng, xác lập tài sản trí tuệ được đưa ra thảo luận.
Theo đánh giá của Viện Khoa học sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ, thực trạng tài sản trí tuệ hiện nay tại các viện nghiên cứu có chất lượng thấp; mối liên kết giữa các ngành công nghiệp, viện nghiên cứu còn yếu; khả năng quản trị công tác xác lập quyền chưa đủ mạnh; hiệu lực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ còn hạn chế.
Ông Nguyễn Hữu Cẩn, Phó Viện trưởng Viện Khoa học sở hữu trí tuệ, chỉ ra rằng nếu không quản trị tốt tài sản trí tuệ sẽ dẫn đến những tổn thất nặng nề cho viện nghiên cứu cũng như các nhà khoa học như: Lãng phí tài nguyên trí tuệ, vốn trí tuệ; giảm sút, triệt tiêu hiệu quả đầu tư sáng tạo; đánh mất cơ hội, giảm sút khả năng cạnh tranh, giảm thiểu động lực phát triển; tổn thất uy tín, tài chính do vướng vào các tranh chấp, rắc tối pháp lý với người khác.
Các đại biểu trao đổi thảo luận tại Hội thảo.
Cũng tại Hội thảo, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đã nêu ra những khó khăn, hạn chế trong hoạt động sở hữu trí tuệ của đơn vị: Hoạt động tạo lập, quản lý và phát triển tài sản trí tuệ chưa được quan tâm đúng mức với tốc độ và yêu cầu hội nhập, phát triển kinh tế xã hội; hoạt động khai thác các giá trị của sở hữu trí tuệ chưa được quan tâm; Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam và các đơn vị thành viên hầu hết không có cán bộ chuyên trách về bảo hộ, quản lý và phát triển tài sản trí tuệ.
Nhận thức về sở hữu trí tuệ của các cán bộ nghiên cứu chưa đồng đều và đầy đủ trong điều kiện Viện chuyển hướng sang tự chủ về tài chính. Thiếu tư vấn về thủ tục bảo hộ sở hữu trí tuệ. Chưa xác định được phương án thực hiện hoạt động sở hữu trí tuệ phù hợp trong bối cảnh không có nguồn ngân sách riêng để duy trì và thúc đẩy hoạt động này.
Kí kết thỏa thuận hợp tác về sở hữu trí tuệ giữa Viện Khoa học sở hữu trí tuệ và Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.
Trong khuôn khổ chương trình “Ngày hội Sở hữu trí tuệ” năm 2020, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam và Viện Khoa học sở hữu trí tuệ đã tổ chức lễ kí kết thỏa thuận hợp tác về sở hữu trí tuệ và khai trương trạm khai thác thông tin sở hữu công nghiệp IPPlatform.
Platform là nền tảng công cộng miễn phí, cho phép tất cả người dùng tra cứu thông tin về sở hữu công nghiệp, dịch vụ hỗ trợ đăng kí sở hữu trí tuệ, cập nhật thông tin về tài sản trí tuệ, và đăng thông báo mua bán các tài sản trí tuệ trên sàn giao dịch. Nó tích hợp toàn bộ cơ sở dữ liệu của Cục Sở hữu Trí tuệ (Bộ KH&CN), đồng thời có thêm cơ sở dữ liệu do người dùng tự cung cấp (được kiểm chứng) và liên kết với một số cơ sở dữ liệu từ Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO và các cơ quan sáng chế Mỹ, châu Âu, Nhật Bản…
Theo PGS.TS Đào Thế Anh, Phó giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, bối cảnh nghiên cứu trong ngành nông nghiệp đã có sự chuyển dịch. “Trước đây, các sản phẩm khoa học công nghệ như giống, quy trình kỹ thuật chúng tôi nghiên cứu ra chưa có thị trường mà chủ yếu để phục vụ yêu cầu của nhà nước, tức dành cho người nông dân sử dụng, đa phần là miễn phí thông qua hệ thống khuyến nông. Tuy vậy, hiện nay chúng ta đã bước sang giai đoạn thị trường hóa các sản phẩm khoa học công nghệ. Sản xuất nông nghiệp không phải chỉ có nông dân mà đã có sự tham gia của các doanh nghiệp,”. Như vậy, trong tương lai nhu cầu của doanh nghiệp về các tài sản trí tuệ sẽ tăng lên, đồng nghĩa với việc các viện nghiên cứu phải đẩy mạnh hơn quá trình thiết lập quyền bảo hộ tài sản trí tuệ của mình để trở thành người cung cấp ‘vốn chất xám’ hiệu quả.
Sự kiện này là bước đầu phối hợp giữa Đoàn Thanh niên Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về công tác nghiên cứu khoa học và công tác sở hữu trí tuệ. Thỏa thuận hợp tác sẽ tập trung vào công tác đào tạo, huấn luyện các nhà khoa học của Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam trong việc tạo dựng, phát triển tài sản trí tuệ.
( Nguồn: Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam)
Ngành Khoa học và Công nghệ bàn giải pháp giúp doanh nghiệp, người dân phục hồi sản xuất
Tham dự Hội nghị có đồng chí Chu Ngọc Anh, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN; đồng chí Phạm Công Tạc, Thứ trưởng Bộ KH&CN; đồng chí Lê Xuân Định, Thứ trưởng Bộ KH&CN; đồng chí Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội DNNVV và vừa Việt Nam;
Tại Điểm cầu của các Địa phương: đồng chí Lê Văn Quý, Phó Chủ tịch UBND Tỉnh Điện Biên; đồng chí Lâm Thị Sang, Phó Chủ tịch UBND Tỉnh Bạc Liêu; đại diện lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ KH&CN;
Tham dự hội nghị còn có Ban Giám đốc Sở và lãnh đạo các phòng, ban, đơn vị thuộc Sở KH&CN của 63 tỉnh, thành phố và đại diện Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa của các địa phương, các cơ quan thông tấn báo chí trung ương và địa phương.
KH&CN: chủ động, đi đầu, phát huy thế mạnh
Thứ trưởng Phạm Công Tạc phát biểu tại Hội nghị.
Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Phạm công Tạc cho biết, năm 2019 hoạt động khoa học và công nghệ của toàn ngành nói chung và của các địa phương nói riêng, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Mặc dù nền kinh tế thế giới bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19 nhưng Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng dương. Để duy trì sản xuất, phục vụ phát triển KT-XH trong năm 2020 và những năm tiếp theo thì vai trò của KH&CN, vai trò của Hiệp hội DNNVV rất quan trọng.
“Hội nghị trực tuyến hôm nay, Bộ KH&CN, Hiệp Hội DNVVN cùng các địa phương tập trung trao đổi, thảo luận và thống nhất hành động thực hiện một số giải pháp KH&CN mang tính cấp bách để hỗ trợ, phục vụ doanh nghiệp, người dân phục hồi và phát triển sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm” – Thứ trưởng chia sẻ.
Theo ông Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội DNNVV, Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc việc ngăn chặn và kiểm soát đại dịch Covid-19, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, người dân đều đã được khôi phục trở lại bình thường. Đây là thắng lợi của cả nước đặc biệt là của Bộ KH&CN. Có thể thấy, tác động của KH&CN trong giai đoạn Covid-19 là rất đáng kể, hỗ trợ nhiều cho doanh nghiệp, người dân và người lao động trong công việc và sinh hoạt hàng ngày như trao đổi thông tin, giảng dạy, mua sắm và thanh toán trực tuyến…
Đại diện cộng đồng DNNVV, ông Nguyễn Văn Thân cũng chỉ ra hai cơ hội tốt bứt phá nền kinh tế sau đại dịch, trong đó đều gắn liền với vai trò của ngành KH&CN. Theo ông Thân, trong tình hình hội nhập kinh tế thế giới mà trong đó vai trò của KH&CN là vô cùng quan trọng như việc thúc đẩy ứng dụng KH&CN để kích thích tiêu dùng nội địa, vai trò của quản lý nhà nước trong truy xuất nguồn gốc, những vướng mắc trong cộng đồng doanh nghiệp đối mặt khi đăng ký quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) cũng như những khó khăn của các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và nghị định 13 về hỗ trợ doanh nghiệp… là rất cần thiết.
Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính (Bộ KH&CN) Nguyễn Nam Hải phát biểu tại Hội nghị.
Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ Đinh Hữu Phí phát biểu tại Hội nghị.
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Nguyễn Hoàng Linh phát biểu tại Hội nghị.
Tại Hội nghị, đại diện một số đơn vị thuộc Bộ đã có những báo cáo liên quan đến một số nhiệm vụ trọng tâm gắn với hoạt động KH&CN địa phương tập trung vào: Hoạt động phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo và phát triển doanh nghiệp KH&CN; Những nội dung trọng tâm về sở hữu trí tuệ liên quan đến hoạt động của các Sở Khoa học và Công nghệ; Các nội dung về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) đề xuất đưa vào báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ tỉnh, thành phố nhiệm kỳ 2020-2025; Một số nhiệm vụ trọng tâm về hoạt động tiêu chuẩn đo lương chất lượng của địa phương trong giai đoạn tới.
Nhiều Giám đốc Sở KH&CN đã đánh giá cao những nỗ lực của Bộ KH&CN trong việc tạo hành lang pháp lý cho KH&CN phát triển, đặc biệt thể hiện cao độ trong tình hình dịch bệnh Covid-19. Đề xuất, kiến nghị nhằm ”hiến kế” tháo gỡ những khó khăn trong hoạt động KH&CN tại địa phương liên quan liên đến giải pháp phát triển doanh nghiệp KH&CN theo Nghị định 13; việc thực hiện Quyết định số 100/QĐ-TTg ngày 09/01/2019 về phê duyệt Đề án triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc. Đề xuất những giải pháp để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh trong thời gian tới,….
Những vấn đề liên quan đến Chương trình nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa. Đặc biệt là Công tác phối hợp với Hiệp hội DNNVV Việt Nam và Hiệp hội DNNVV các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để triển khai Đề án 100 và các nhiệm vụ hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới, ứng dụng công nghệ;
Nhiều ý kiến cũng đề xuất có phương án cụ thể triển khai Chiến lược Sở hữu trí tuệ đến năm 2030 và giải quyết khó khăn vướng mắc trong hoạt động bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho các sản phẩm OCOP, sản phẩm chủ lực, đặc hữu…; Triển khai đề án 844 và hỗ trợ cho nhóm doanh nghiệp hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp KH&CN; Tìm kiếm các giải pháp huy động nguồn lực đầu tư cho KH&CN, nhất là từ doanh nghiệp; Nội dung nhiệm vụ và giải pháp về KH,CN&ĐMST trong văn kiện Đại hội Đảng bộ cấp tỉnh, thành phố nhiệm kỳ 2020-2025, các nghị quyết/chương trình/đề án/kế hoạch… để triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ cấp tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025; Nội dung trọng tâm trong xây dựng kế hoạch KH&CN năm 2021 và giai đoạn 2021-2025.
Bên cạnh đó, nhiều địa phương cũng có những bài học trong triển khai hoạt động KH&CN tại địa bàn, mỗi bài học kinh nghiệm đều thể hiện sự sinh động sáng tạo vượt qua mọi khó khăn như: tỉnh Bến Tre triển khai Quyết định 100 về truy xuất nguồn và Chương trình hỗ trợ Doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; phát triển không gian khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo tại địa phương; Thanh Hóa là sự chủ động tham mưu cho lãnh đạo tỉnh ban hành cơ chế, chính sách KH,CN & ĐMST; Phú Thọ về các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn đo lường chất lượng, truy xuất nguồn gốc sản phẩm; Quảng Ninh hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng KH&CN, bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ, hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực, sản phẩm OCOP ở địa phương, đề xuất kiến nghị giải pháp; Hà Nội đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp khoa học và công nghệ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thủ đô…
Tạo điều kiện tối đa cho hoạt động KH,CN&ĐMST
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh phát biểu tại Hội nghị.
Chủ trì Hội nghị, Bộ trưởng Bộ KH&CN đánh giá cao những kết quả hoạt động KH&CN trong cả nước thời gian qua. Rất nhiều công việc, địa phương đã thể hiện tính chủ động, đi đầu giải quyết, đưa KH&CN chuyển động gắn sang phục vụ và đồng hành, đúng với thông điệp tại Lễ kỷ niệm Ngày KH&CN 18/5, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam nhận định: khi đất nước đứng trước những thách thức, khoa học và công nghệ đã chứng minh vai trò quan trọng trên tuyến đầu.
Bộ trưởng cho rằng, với trách nhiệm tham mưu cho lãnh đạo tỉnh về hoạt động KH&CN, các lãnh đạo Sở KH&CN ở địa phương đã vượt qua khó khăn, thể hiện vai trò tham mưu của mình. Hiện có rất nhiều tỉnh ban hành nghị quyết, chương trình, kế hoạch triển khai các nghị quyết của Trung ương về chủ trương, chính sách hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nghiệp, xác định doanh nghiệp là trung tâm của hoạt động đổi mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng hương hiệu và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, áp dụng các tiêu chuẩn đo lường chất lượng tiên tiến, phát triển sản phẩm chủ lực, sản phẩm có lợi thế phát triển của địa phương. Có thể thấy KH&CN theo cùng để giải quyết bài toán tốt nhất cho các ngành, lĩnh vực.
Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động KH&CN địa phương trong thời gian tới, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho rằng, cần chú trọng một số vấn đề trọng tâm như: các Sở KH&CN cần chủ động tham mưu, đề xuất cho Tỉnh ủy, Thành ủy, HĐND, UBND cấp tỉnh tổ chức thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp khoa học và công nghệ hỗ trợ cho doanh nghiệp và người dân phục hồi nhanh chóng sản xuất, khắc phục mọi khó khăn do dịch bệnh gây ra. Đặc biệt là tháo gỡ các vướng mắc liên quan đến hoạt đông tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sở hữu trí tuệ; khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, cơ chế ưu đãi doanh nghiệp theo Nghị định 13…
“Bộ KH&CN sẽ luôn luôn đồng hành, sát cánh cùng các địa phương để tháo gỡ những khó khăn, hạn chế, đồng thời khai thác thế mạnh của từng địa phương trong hoạt động KH&CN nhằm thúc đẩy hoạt động KH&CN mạnh mẽ hơn trong thời gian tới”, Bộ trưởng khẳng định.
Đối với Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam Bộ Khoa học và Công nghệ đề nghị Hiệp hội là đầu mối cung cấp thông tin, phản ánh nhu cầu, tổng hợp đề xuất những kiến nghị, từ đó đưa ra bài toán cụ thể, đề xuất và phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ trong việc hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi sát cánh cùng cộng đồng doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, phát triển sản xuất kinh doanh.
Bộ trưởng cũng giao nhiệm vụ cho các các đơn vị trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ khẩn trương có các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở địa phương phát triển đúng như Kết luận số 50-Kết luận số 50-KL/TW gồm: Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền; Rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật về đầu tư, tài chính và doanh nghiệp, bảo đảm đồng bộ với các quy định pháp luật về KH&CN; Tái cơ cấu các chương trình KHCN quốc gia, nâng cao năng lực ứng dụng KH&CN; Phát triển tiềm lực KH&CN; Tiếp tục thúc đẩy phát triển mạnh thị trường KH&CN và hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về KH&CN.
Tại Hội nghị, Bộ trưởng cũng Chúc mừng các Giám đốc Sở KH&CN mới nhận nhiệm vụ và cảm ơn các đồng chí Giám đốc Sở KH&CN nghỉ hưu hoặc chuyển công tác.
(Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN)
Triển khai kế hoạch đẩy mạnh phát triển chuỗi cung cấp rau, thịt, nông sản an toàn
Ngày 24/4, UBND thành phố Hà Nội ban hành kế hoạch số 88/KH-UBND về việc đẩy mạnh phát triển chuỗi cung cấp rau, thịt, nông sản an toàn.
Theo đó, UBND thành phố giao Sở Nông nghiệp và PTNT chủ trì, tham mưu, xây dựng ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai thực hiện cơ chế, chính sách xây dựng và phát triển chuỗi, khuyến khích tiêu thụ sản phẩm an toàn theo chuỗi trên địa bàn Thành phố. Tổ chức đào tạo, đào tạo nâng cao cho cán bộ quản lý an toàn thực phẩm các cấp nhằm trang bị đầy đủ kiến thức để tổ chức triển khai xây dựng, phát triển chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ nông, lâm, thủy sản an toàn.
Tuyên truyền, thực hiện hiệu quả các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, phát triển sản xuất, hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, áp dụng thực hành nông nghiệp tốt, hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm. Xây dựng mới và tiếp tục triển khai các chương trình, đề án, dự án, mô hình về phát triển nông nghiệp được phê duyệt gắn với việc xây dựng và phát triển chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ nông, lâm, thủy sản an toàn.
Xây dựng, hỗ trợ phát triển chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ nông, lâm, thủy sản kết hợp với thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, khuyến khích phát triển Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP), sản phẩm chủ lực thành phố, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, thực hành nông nghiệp tốt, chương trình quản lý chất lượng tiên tiến, xây dựng hạ tầng nông thôn thành phố Hà Nội, chính sách hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Về các nội dung tập trung hỗ trợ phát triển chuỗi liên kết sản xuất, sơ chế, chế biến, tiêu thụ nông, lâm, thủy sản an toàn, thành phố sẽ hỗ trợ tư vấn thúc đẩy liên kết trong chuỗi giá trị; Tập huấn chuyên sâu về công nghệ, kỹ thuật sản xuất, tiêu chuẩn, chất lượng, chiến lược phát triển sản phẩm theo chuỗi giá trị; Hỗ trợ phát triển thương hiệu, truyền thông, quảng bá; Hỗ trợ kỹ thuật nâng cao tiêu chuẩn, chất lượng, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các chuỗi.
Phối hợp 21 tỉnh, thành phố trong Ban điều phối chuỗi cung cấp rau, thịt an toàn cho thành phố Hà Nội và các tỉnh, thành phố trên toàn quốc xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại, kết nối chuỗi cung cấp rau, thịt, nông sản an toàn giữa các cơ sở sản xuất, kinh doanh của Hà Nội và các tỉnh, thành phố.
Tiếp tục phát triển Hệ thống truy xuất nguồn gốc nông, lâm, thủy sản thực phẩm thành phố Hà Nội, ứng dụng hệ thống phần mềm thông tin điện tử sử dụng mã QR trong quản lý, nhận diện và truy xuất nguồn gốc đối với các sản phẩm nông, lâm, thủy sản, tiếp tục nâng cao tỷ lệ ứng dụng hệ thống thông tin điện tử trong truy xuất nguồn gốc đảm bảo an toàn thực phẩm theo chuỗi tập trung vào sản phẩm nguy cơ cao như rau, củ, trái cây, thịt, thủy sản.
Bình An
(Nguồn: Cổng thông tin điện tử thành phố Hà Nội https://hanoi.gov.vn/)
Thúc đẩy hợp tác phát triển nông nghiệp, thương mại nông sản giữa Việt Nam và Trung Quốc
Ngày 16/4, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) Nguyễn Xuân Cường đã có buổi tiếp và làm việc với Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Hùng Ba nhằm thúc đẩy hợp tác phát triển nông nghiệp, thương mại nông sản giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, do tác động của dịch COVID-19, thương mại nông, lâm, thủy sản giữa Việt Nam và Trung Quốc những tháng đầu năm nay đã giảm khoảng 7% so với cùng kỳ năm ngoái.
Để phòng chống dịch bệnh, hai bên đã tăng cường thắt chặt kiểm soát nên tốc độ thông quan hàng hóa rất chậm. Ngoài thương mại nông sản, các đoàn làm việc cấp cao giữa hai Bộ của hai nước cũng đang bị gián đoạn so với kế hoạch. Các hoạt động về mở cửa thêm các sản phẩm, cũng như các hội chợ lớn về nông, lâm, thủy sản ở Trung Quốc đang bị gián đoạn.
Hiện Trung Quốc đã cấp phép xuất khẩu cho 9 mặt hàng rau quả của Việt Nam. Hai bên đang hoàn thiện thủ tục ký cấp phép thêm cho 8 mặt hàng nông sản.
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho biết Việt Nam đã gửi hồ sơ sang phía Trung Quốc và Bộ trưởng đề nghị Đại sứ tiếp tục hỗ trợ tích cực để trong hoàn cảnh hiện nay chưa làm việc được trực tiếp, có những hình thức trao đổi gián tiếp, thông qua online, văn bản giải quyết những vấn đề kỹ thuật, đáp ứng mong muốn chung của hai bên.
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường mong muốn, những thủ tục hành chính có thể được thực hiện nhanh nhất để có thêm các nông sản Việt Nam được chính thức vào thị trường Trung Quốc. Từ đó, góp phần thúc đẩy thương mại hai chiều cũng như thúc đẩy nông nghiệp của hai bên.
Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Hùng Ba cho biết, Việt Nam là đối tác thương mại quan trọng và lớn nhất của Trung Quốc trong khu vực ASEAN, chiếm 25% tỷ trọng thương mại của Trung Quốc với ASEAN.
Hai bên cần tăng cường hợp tác phát triển nông nghiệp công nghệ cao và chế biến sâu, thương mại điện tử để nâng cao nguồn thu cho nông dân. Do đó, Trung Quốc mong muốn nâng cao thương mại nông nghiệp giữa hai nước theo ngành nghề.
Với những khó khăn về thông quan hàng hóa, tình trạng ù ứ tại cửa khẩu những ngày gần đây, Đại sứ cho biết Trung Quốc cũng rất coi trọng vấn đề này và tin tưởng chỉ mang tính tạm thời. Hai bên cùng nỗ lực sẽ vượt qua thời điểm khó khăn này. Đại sứ Hùng Ba đồng ý quan điểm, một mặt nghiêm ngặt kiểm soát dịch bệnh, một mặt thúc đẩy giao thương, phát triển kinh tế.
Hiện áp lực của Trung Quốc với tình hình dịch bệnh lây làn từ ngoài vào cũng như trong nước vẫn rất cao nên việc kiểm soát tại các cửa khẩu biên giới giữa Trung Quốc với các nước đều được thực hiện nghiêm ngặt. Đại sứ Hùng Ba cho biết ngành hải quan Trung Quốc cũng có nhiều biện pháp rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa. Đại sứ cũng đề xuất Việt Nam có thể mở rộng bãi xe hàng hóa để có đủ không gian điều phối xe đi lại; phân luồng, giảm sức ép tại các cửa khẩu như Tân Thanh, Hữu Nghị. Hàng hóa không nên tập trung vào một cửa khẩu mà có thể sử dụng đường sắt Đồng Đăng-Bằng Tường. Kênh đường sắt có nhiều ưu thế với sức chứa hàng hóa lớn, chi phí thấp.
Để nâng cao tính hiệu quả thông quan, Đại sứ đề xuất Việt Nam nên thực hiện kiểm soát bằng cách gắn chip điện tử vào các xe chuyển hàng. Các lái xe Việt Nam có thể khai báo điện tử. Hiện thời gian làm việc có hạn, trong khi thời gian khai báo sức khỏe chiếm khá lâu. Các lái xe có thể khai báo trước giờ để nâng cao hiệu quả hơn, tránh phải xếp hàng lâu do khai báo bằng giấy. Đại sứ Hùng Ba cũng đề nghị Việt Nam tăng thêm các lối cho các xe đi vào.
Trước những kiến nghị của Đại sứ, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho biết, Việt Nam sẽ phải giải quyết tốt hơn những vấn đề từ sân bãi, quy trình kỹ thuật về thương mại, ứng dụng công nghệ thông tin… để quá trình hải quan được thông quan nhanh nhất. Bộ trưởng cũng kiến nghị với phía Trung Quốc kéo dài thời gian thông quan một số cửa khẩu vì hiện cá biệt một vài cửa khẩu thông quan 5-6 tiếng. Bên cạnh đó, hai bên cần đầu tư nguồn nhân lực, bởi nếu thời gian thông quan kéo dài trong khi nguồn nhân lực các khâu của hai bên không đảm bảo thì vẫn chậm tiến độ.
Tại cuộc họp hai bên đều thống nhất sẽ cố gắng tập trung những nhóm giải pháp cao nhất liên quan đến hải quan, các ngành, địa phương của hai bên để trong thời gian sớm nhất có thể giải quyết được ùn tắc về nông sản. Hai bên đều đánh giá khi đã khống chế được dịch bệnh có thể tập trung tăng tốc đẩy mạnh thương mại để kim ngạch xuất nhập khẩu hai bên cao hơn năm 2019.
(Nguồn: Bộ NN&PTNT)
Giảm thiểu tác động của COVID-19 đối với thương mại và thị trường thực phẩm
Đây là tuyên bố chung của Tổng giám đốc Tổ chức Lương Nông Liên hiệp quốc (FAO) QU Dongyu, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) Tedros Adhanom Ghebreyesus và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) Roberto Azevedo.
Hàng triệu người trên thế giới phụ thuộc vào thương mại quốc tế để đảm bảo an ninh lương thực và sinh kế. Khi các quốc gia ban hành các biện pháp nhằm ngăn chặn đại dịch COVID-19 đang gia tăng, cần phải thận trọng để giảm thiểu tác động tiềm ẩn đối với nguồn cung thực phẩm hoặc hậu quả không lường trước được đối với thương mại và an ninh lương thực toàn cầu.
Khi hành động để bảo vệ sức khỏe và hạnh phúc của người dân, các quốc gia cần đảm bảo rằng mọi biện pháp liên quan đến thương mại không làm gián đoạn chuỗi cung ứng thực phẩm. Những gián đoạn bao gồm cản trở sự di chuyển của các công nhân nông nghiệp và thực phẩm, kéo dài sự chậm trễ ở biên giới đối với hàng hóa dẫn đến sự hư hỏng của thực phẩm và làm gia tăng lãng phí thực phẩm. Hạn chế thương mại thực phẩm cũng có thể được liên kết với mối quan tâm phi lý về an toàn thực phẩm. Nếu một kịch bản như vậy xảy ra sẽ phá vỡ chuỗi cung ứng thực phẩm, với những hậu quả đặc biệt rõ rệt đối với những người dễ bị tổn thương và những người không đủ ăn.
Bất ổn về nguồn thực phẩm sẵn có có thể châm ngòi cho một làn sóng hạn chế xuất khẩu, tạo ra sự thiếu hụt trên thị trường toàn cầu. Những phản ứng như vậy có thể làm thay đổi cân bằng cung và cầu thực phẩm, dẫn đến tăng giá và biến động giá. Chúng tôi đã học được từ các cuộc khủng hoảng trước đây rằng các biện pháp như vậy đặc biệt gây tổn hại cho các nước thu nhập thấp, thiếu lương thực và các nỗ lực của các tổ chức nhân đạo trong việc mua thực phẩm cho những người có nhu cầu cấp thiết.
Chúng ta phải ngăn chặn sự lặp lại của các biện pháp gây tổn hại như vậy. Chính những lúc như thế này, hợp tác quốc tế trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Giữa các lần giãn cách xã hội vì COVID-19, mọi nỗ lực phải được thực hiện để đảm bảo hoạt động giao dịch diễn ra tự do nhất có thể, đặc biệt tránh thiếu lương thực. Tương tự, điều tối quan trọng là các nhà sản xuất thực phẩm và công nhân ở khâu chế biến và bán lẻ được bảo vệ để giảm thiểu sự lây lan của bệnh và duy trì chuỗi cung ứng thực phẩm. Người tiêu dùng, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương nhất, phải được duy trì khả năng tiếp cận thực phẩm trong cộng đồng theo các yêu cầu an toàn nghiêm ngặt.
Chúng tôi cũng phải đảm bảo rằng thông tin về các biện pháp thương mại liên quan đến thực phẩm, mức độ sản xuất, tiêu thụ và nguồn cung dự trữ, cũng như về giá cả lương thực luôn có sẵn cho tất cả mọi người trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội. Điều này làm giảm lo ngại và cho phép các nhà sản xuất, người tiêu dùng và thương nhân đưa ra quyết định sáng suốt. Trên hết, điều này giúp hạn chế ‘mua hoảng loạn ‘và tích trữ thực phẩm và các mặt hàng thiết yếu khác.
Bây giờ là lúc để thể hiện sự đoàn kết, hành động có trách nhiệm và tuân thủ mục tiêu chung của chúng tôi là tăng cường an ninh lương thực, an toàn thực phẩm và dinh dưỡng, cải thiện phúc lợi chung của tất cả người dân trên toàn thế giới. Chúng tôi phải đảm bảo rằng phản ứng của chúng tôi với COVID-19 không vô tình tạo ra sự thiếu hụt không đáng có các mặt hàng thiết yếu và làm trầm trọng thêm tình trạng đói và suy dinh dưỡng.
(Nguồn: Bộ NN&PTNT)
Cú sốc Covid-19 đánh thẳng vào nông dân
Trong nhiều ngày qua, cùng với những hình ảnh mùa màng đến kỳ thu hoạch bị bỏ không do thiếu nhân công lao động ở nhiều các quốc gia từ châu Á sang châu Âu cho đến châu Mỹ thì ngay cả khi nông sản đã thu hoạch cũng bị đổ đi do không thể lưu thông.