Category Archives: Chưa được phân loại

Đại hội Công đoàn Viện Vitad-Agri

Đại hội Công đoàn Viện Vitad-Agri

Đại hội Công đoàn Viện Vitad-Agri: Phấn đấu xứng đáng là người đại diện cho công nhân lao động tại Viện

Sáng 11/7 tại Hà Nội, Viện Ứng dụng công nghệ và Phát triển nông nghiệp Việt Nam đã tổ chức Đại hội Công đoàn nhiệm kỳ 2023-2028.

Từ phải qua trái: Ông Đỗ Tiến Dũng, Phó Chủ tịch phụ trách Công đoàn Nông nghiệp và PTNT Việt Nam; ông Trần Đăng Quý, nguyên Phó Chủ tịch Công đoàn Nông nghiệp và PTNT Việt Nam; bà Nguyễn Thị Phương Chi, Phó Trưởng ban tổ chức kiểm tra Công đoàn Nông nghiệp và PTNN Việt Nam

Tới dự Đại hội Công đoàn nhiệm kỳ 2023-2028 của Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam (Vitad-Agri) thuộc Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam có: Ông Đỗ Tiến Dũng, Phó Chủ tịch phụ trách Công đoàn Nông nghiệp và PTNT Việt Nam; bà Nguyễn Thị Phương Chi, Phó Trưởng ban tổ chức kiểm tra Công đoàn Nông nghiệp và PTNN Việt Nam; ông Trần Đăng Quý, nguyên Phó Chủ tịch Công đoàn Nông nghiệp và PTNT Việt Nam.

Tham dự Đại hội còn có lãnh đạo các đơn vị gồm: ông Phạm Đình Nam, Viện trưởng Viện Vitad-Agri; ông Lê Hữu Diện, Chủ tịch HĐQT HTX Đức Hậu Lưu Quang; ông Phúc Tiến Mạnh, Phó Giám đốc Công ty CP XD & PTTM Minh Phương và các đại biểu là cán bộ của Viện Vitad-Agri, thành viên của các đơn vị, HTX.

Đoàn Chủ tịch điều hành Đại hội: Ông Phạm Đình Nam Viện trưởng Viện Vitad-Agri (giữa); Phạm Văn Vĩ, Uỷ viên BCH Công đoàn nhiệm kỳ 2018-2023 (phải); Phúc Tiến Mạnh, Phó Giám đốc Công ty CP XD & PTTM Minh Phương (trái)

Sau phần phát biểu khai mạc Đại hội, ông Phạm Đình Nam, Viện trưởng Viện Vitad-Agri trình bày tóm tắt tổng kết hoạt động Công đoàn nhiệm kỳ 2018-2023.

Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ khẳng định: Công đoàn Viện Vitad-Agri đã thực hiện tốt vai trò và chức năng của mình trong việc giám sát thực hiện chế độ, chính sách, việc quan tâm chăm lo tới đời sống vật chất tinh thần đối với người lao động trong toàn Viện. 

Tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua, các cuộc vận động dưới sự giám sát và chỉ đạo của công đoàn cấp trên và cấp ủy Đảng. Ban chấp hành Công đoàn đã phát huy được vai trò trách nhiệm của mình cùng với sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của tập thể Đoàn viên Công đoàn đã góp phần tích cực vào việc hoàn thành tốt nhiệm vụ trên mọi lĩnh vực. 

Tuy nhiên, Công đoàn Viện Vitad-Agri vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm như: Cán bộ ủy viên BCH hoạt động kiêm nhiệm nên chưa có nhiều thời gian cho triển khai hoạt động Công đoàn – Cán bộ Uỷ viên BCH Công đoàn còn lúng túng, triển khai chưa hiệu quả các phong trào do công đoàn phát động… 

Trong phần phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ mới, báo cáo đề ra những mục tiêu cụ thể của Công đoàn Viện nhiệm kỳ 2023-2028: Công đoàn cơ sở đạt vững mạnh hàng năm; Phấn đấu trong nhiệm kỳ được Công đoàn ngành tặng bằng khen; 100% cán bộ công đoàn tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng hoạt động công đoàn do Công đoàn ngành tổ chức; Phát triển 05 đoàn viên mới; 100% người lao động được tham gia và đóng BHXH, BHYT, BHTN đầy đủ. Thu nhập bình quân đầu người năm sau cao hơn năm trước; Ít nhất mỗi năm người lao động được đi khám sức khỏe 1 lần; 100% người lao động được phổ biến các chế độ chính sách mới, được tạo điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn; Hàng năm tổ chức tốt hội nghị và ký Thỏa ước lao động tập thể với người lao động; Mỗi năm tổ chức ít nhất 1 phong trào thi đua… 

Ông Đỗ Tiến Dũng, Phó Chủ tịch phụ trách Công đoàn Nông nghiệp và PTNT Việt Nam phát biểu chỉ đạo tại Đại hội

Phát biểu chỉ đạo tại Đại hội, ông Đỗ Tiến Dũng, Phó Chủ tịch phụ trách Công đoàn Nông nghiệp và PTNT Việt Nam đánh giá cao những kết quả Công đoàn Viện Vitad-Agri đã đạt được ở nhiệm kỳ vừa qua, đồng thời chỉ ra những hạn chế, tồn tại cần khắc phục trong nhiệm kỳ mới. 

Ông Lê Hữu Diện, Chủ tịch HĐQT HTX Đức Hậu Lưu Quang (trái) phát biểu tham luận tại Đại hội

Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Công đoàn Viện Vitad-Agri nhiệm kỳ 2023-2028 gồm 3 người: Ông Phạm Văn Vĩ (Trưởng ban dự án), bà Nguyễn Thị Bích Hồng (Hành chính quản trị), ông Lương Việt Hưng (Trưởng phòng IT) với số phiếu tín nhiệm cao. 

BCH Công đoàn Viện Vitad-Agri nhiệm kỳ 2023-2028 ra mắt Đại hội. 

Ban chấp hành Công đoàn Viện Vitad-Agri nhiệm kỳ 2023-2028 đã bầu ông Phạm Văn Vĩ làm Chủ tịch; 2 Uỷ viên BCH là bà Nguyễn Thị Bích Hồng và ông Lương Việt Hưng. 

Phát biểu sau khi được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Công đoàn Viện Vitad-Agri nhiệm kỳ 2023-2028, ông Phạm Văn Vĩ bày tỏ: Được sự tín nhiệm của Đại hội bầu chúng tôi vào BCH Công đoàn Vitad-Agri, nhiệm kỳ 2023 – 2028, tôi thay mặt BCH mới xin hứa sẽ không ngừng học hỏi, nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ đã được Đại hội giao cho. BCH mới rất mong nhận được sự chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ của Ban Thường vụ Công đoàn Ngành; sự quan tâm, hỗ trợ, tạo mọi điều kiện thuận lợi của Ban Giám đốc và sự ủng hộ của tất cả các đoàn viên Công đoàn Viện Vitad-Agri để chúng tôi thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ, xứng đáng là người đại diện cho Công nhân lao động tại Viện”.

Đại hội cũng nhất trí cao bầu ông Lê Hữu Diện, Chủ tịch HĐQT HTX Đức Hậu Lưu Quang đại diện cho Công đoàn Viện Vitad-Agri tham dự Đại hội Công đoàn Ngành Nông nghiệp và PTNT vào tháng 10 tới đây.

Một số hình ảnh đáng chú ý của Đại hội:

Ông Đỗ Tiến Dũng, Phó Chủ tịch phụ trách Công đoàn Nông nghiệp và PTNT Việt Nam (áo xanh) tặng hoa chúc mừng BCH Công đoàn Viện Vitad-Agri nhiệm kỳ 2023-2028

Viện trưởng Viện Vitad-Agri, đồng chí Phạm Đình Nam chụp ảnh chúc mừng BCH Công đoàn nhiệm kỳ 2023-2028

Đồng chí Lê Hữu Diện, Chủ tịch HĐQT HTX Đức Hậu Lưu Quang tặng hoa chúc mừng Đại hội

Các đại biểu tham dự Đại hội chụp ảnh kỷ niệm

Hà Dũng

Nông nghiệp sẽ không loay hoay trồng cây gì, nuôi con gì

Tái cơ cấu nông nghiệp “không phải là xác định trồng cây gì, nuôi con gì vì điều này sẽ do thị trường điều chỉnh, quyết định”, theo tân Bộ trưởng Lê Minh Hoan.

Bộ trưởng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Lê Minh Hoan trả lời phỏng vấn của VnExpress về những dự định của ông trên cương vị mới.

 Đâu sẽ là công việc ông ưu tiên chỉ đạo trong thời gian tới?

– Nhiệm kỳ 5 năm tưởng là dài, nhưng thế giới biến đổi không ngừng, mọi thứ thay đổi nhanh chóng theo năm, tháng, thậm chí là hàng tuần, hàng ngày. Vì vậy, tôi nghĩ rằng phải hành động ngay, biến những thách thức mới thành lực đẩy, nắm bắt thời cơ kịp thời, huy động nguồn lực tư duy trong và ngoài bộ máy để góp phần đưa nông nghiệp tiếp tục cất cánh; nông thôn thay đổi theo hướng hiện đại giàu bản sắc, nâng cao chất lượng sống người nông dân.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã, đang và sẽ diễn ra với tốc độ ngày càng cao hơn. Vì vậy, điều đầu tiên tôi quan tâm là nông nghiệp Việt Nam không bị “lỡ tàu”, và chúng ta không đơn thuần đánh giá sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp chỉ dựa vào năng suất, sản lượng, mà phải dựa vào những giá trị tích hợp, đi vào chiều sâu, có tính bền vững.

Tôi cho rằng phải có những giải pháp để kinh tế tri thức thẩm thấu vào sản xuất nông nghiệp và mỗi nông dân. Nền kinh tế tuần hoàn phải phát triển hơn nữa, biến những phụ phẩm trong nông nghiệp thành sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn. Chuỗi giá trị ngành hàng nông sản phải được hình thành, thay cho chuỗi liên kết dễ bị tổn thương do xung đột lợi ích các bên tham gia và biến cố thị trường.

Tôi kỳ vọng trong tương lai không xa, nông nghiệp Việt Nam sẽ tạo dựng thành công thương hiệu nông sản sạch, an toàn và chất lượng cao. Để mục tiêu này trở thành hiện thực thì nỗ lực, mong muốn đơn lẻ của một cá nhân, cho dù là người đứng đầu ngành nông nghiệp sẽ chưa đủ, mà cần sự chung tay, cam kết thực hiện của cả một hệ sinh thái, trong đó có sự tham gia của nông dân, người sản xuất, doanh nghiệp, viện, trường, nhà khoa học, kể cả truyền thông…

– Từng là Bí thư Đồng Tháp, ông sẽ mang những kinh nghiệm thành công của địa phương vào sự phát triển chung của nông nghiệp cả nước như thế nào?

– Cách đây 5 năm, Đồng Tháp đi vào tái cơ cấu nông nghiệp với quan điểm nhất quán: Đây không phải là loay hoay xác định trồng cây gì, nuôi con gì, trồng bao nhiêu, nuôi bao nhiêu, vì điều này thị trường sẽ điều chỉnh, quyết định. Nhưng dù trồng cây gì, trồng bao nhiêu; nuôi con gì, nuôi bao nhiêu đều dựa trên ba yếu tố cốt lõi là “hợp tác, liên kết, thị trường”.

Hợp tác thể hiện qua việc những người nông dân, cơ sở sản xuất cùng nhau gỡ “nút thắt” manh mún, nhỏ lẻ thông qua các hình thức kinh tế tập thể, hợp tác xã, hội quán nông dân… Theo đó, những người nông dân không đứng ngoài cuộc, mà được khuyến khích tham gia cùng nhau để tận dụng sức mạnh của số đông, giảm chi phí, tăng chất lượng, ứng dụng được thành quả của khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ.

Liên kết là sự kết nối giữa người sản xuất với các doanh nghiệp. Đó là yếu tố sống còn vì nông dân không thể nào đi vào sản xuất mà không biết thị trường ở đâu, cần bao nhiêu, cần sản phẩm với quy chuẩn, tiêu chuẩn như thế nào. Những điều này doanh nghiệp lại rất am tường thông qua các kênh đàm phán, nắm bắt thông tin. Khi biết được yêu cầu của thị trường thông qua chia sẽ thông tin, cơ chế liên kết, bà con sẽ chủ động hơn trong sản xuất.

Thị trường quyết định cả bên sản xuất và tiêu thụ, nên người nông dân và doanh nghiệp cần xác định mục tiêu thị trường là ưu tiên hàng đầu. Không thể tối ưu hoá sản xuất khi đầu ra còn mơ hồ, nặng tính đánh đố, lệ thuộc vào sự may rủi của thị trường.

Cái cốt lõi là chọn được mục tiêu. Mục tiêu trước đây là chú trọng đầu cung, cố gắng tạo sản lượng nhiều hơn vì chúng ta nghĩ rằng sản lượng càng nhiều thì lợi nhuận của người nông dân càng cao, sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp càng lớn. Tuy nhiên, kinh tế thị trường không định nghĩa như vậy. Sản xuất ít nhưng chất lượng, giá trị cao hơn, chi phí thấp, thì vẫn có lợi nhuận cao hơn. Ví dự như gạo ST25 so với các giống khác thì năng suất không cao bằng, nhưng giá trị của nó mang lại rất cao.

– Tái cơ cấu nông nghiệp sẽ theo hướng nào khi không còn xác định “trồng cây gì, nuôi con gì”, thưa ông?

– Chúng ta phải chuyển từ tư duy sản xuất sang tư duy kinh tế nông nghiệp. Quan điểm “nông nghiệp là một ngành kinh tế, chứ không chỉ là sản xuất đơn thuần” sẽ kích hoạt đa dạng phương thức tiếp cận mới, tích hợp giá trị cộng thêm, mở ra nhiều cơ hội phát triển.

Bên cạnh đó, nông nghiệp phải tích hợp đa giá trị chứ không phải đơn giá trị nữa vì người mua bây giờ mua hàng còn quan tâm đến giá trị, tính tiện ích của hàng hoá, sản phẩm, chứ không phải chỉ ở giá cả. Thị trường đã thay đổi, chuyển từ nhu cầu “ăn cho no” sang “ăn cho ngon”, “ăn cho sạch, an toàn, nhiều dinh dưỡng”. Do đó, sản xuất cũng phải phân ra nhiều luồng theo nhu cầu của xã hội. Bên cạnh giải quyết bài toán cho số đông, chúng ta phải đáp ứng theo hướng “cá nhân hoá” các nhu cầu của nhóm người dùng có nhu cầu khác biệt.

Chúng tôi đang giao cho bộ phận nghiên cứu, tạo ra chuỗi ngành hàng trong từng xã, Nhà nước sẽ hỗ trợ người nông dân, các hộ sản xuất, hợp tác xã nhà sơ chế, nhà bảo quản, những công nghệ, kỹ thuật phù hợp.

– Vai trò của người nông dân như thế nào trong định hướng ông nêu ra ở trên?

– Chúng tôi mong muốn tất cả người nông dân sẽ được đào tạo bài bản, được cấp chứng chỉ tập huấn. “Chuyên nghiệp hoá” nông nghiệp là yêu cầu cấp thiết và giúp đỡ người nông dân phát triển bền vững hơn, hạn chế rủi ro thị trường.

Chúng ta không thể ngay lập tức mà có lộ trình thực hiện. Nhà nước phải có trách nhiệm hỗ trợ huấn luyện, tập huấn, đào tạo cho bà con nông dân. Đồng Tháp đã mở những lớp huấn luyện như vậy, bà con nông dân được đi học, được biết thế nào là an toàn vệ sinh thực phẩm, quy luật cung cầu, phát triển bền vững, vừa sản xuất vừa bảo vệ môi trường…

Có người sẽ nói “tôi có nhờ nhà nước gì đâu, lời tôi ăn, lỗ tôi chịu, tại sao nhà nước bắt tôi phải làm thế này, thế kia?”. Nhưng nếu như người lái xe phải đi học, sát hạch, thi lấy bằng vì hành động của họ tác động đến an toàn của người tham gia giao thông, người nông cũng liên quan đến an toàn vệ sinh thực phẩm, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, tác động đến cả môi trường thiên nhiên.

Thực phẩm không an toàn do người nông dân lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, tổn hại trước hết là sức khoẻ của chính người sản xuất, sức khoẻ người tiêu dùng, đồng thời làm mất cân bằng hệ sinh thái, môi trường thiên nhiên, tác động đến đa dạng sinh học – đó là tài nguyên quý giá của cả cộng đồng, cho nhiều thế hệ người chứ không chỉ riêng một ai.

Vì vậy, tôi tha thiết mong bà con hiểu được câu chuyện cấp chứng chỉ tập huấn này. Có kiến thức là cách giúp người dân tự bảo vệ mình, làm nông một cách có trách nhiệm, từ đó tạo nên thương hiệu nông sản Việt Nam.

– Là người làm ra sản phẩm, nhưng người nông dân đang yếu thế, được mùa mất giá, đầu ra không ổn định. Ông nói gì về điều này?

– Người nông dân cần nhận thức rằng cuộc đời của mình là do chính mình quyết định. Muốn vậy, người nông phải có ý chí mạnh mẽ, suy nghĩ tích cực, thay vì than thân, trách phận hay trông chờ ỷ lại. Nghề nông hiện nay cũng không thể làm theo quy luật thiên nhiên thuận hòa, “trông trời, trông đất, trông mây” nữa, vì nghiệp nông gia đang đối mặt với biến đổi khí hậu như thời tiết cực đoan, hiệu ứng nhà kính, suy giảm tài nguyên nước.

Để tạo ra giá trị gia tăng vượt bậc thay cho gia tăng tiệm tiến về năng suất, sản lượng, người nông dân phải có tri thức tương ứng với nền kinh tế tri thức. Để tối ưu hoá cuộc sống của mình, người nông dân phải được trang bị kỹ năng thương mại, công nghệ, kỹ thuật sinh học, chứ không chỉ đơn thuần là kỹ năng sản xuất. Để có thể nâng cao vị thế của mình trong xã hội, người nông dân phải thoát ra cách nghĩ chỉ biết “lấy cần cù bù thông minh”, mà phải tự tin phát triển, khẳng định bản thân, chủ động hoà nhập vào cộng đồng.

Bên cạnh đó, cả hệ thống phải có nhiều chương trình hỗ trợ đào tạo, huấn luyện nông dân giai đoạn mới. Tư duy “mỗi huyện là một pháo đài”; “đèn nhà ai nấy sáng, ruộng nhà ai nấy làm” cần phải được thay đổi triệt để, vì chỉ khi liên kết với nhau, người nông dân mới không còn rơi vào thế yếu.

Nhà nước cũng sẽ có những giải pháp để xây dựng “chuỗi giá trị ngành hàng”, “hệ sinh thái ngành hàng”; kêu gọi nhiều nhà đầu tư tham gia vào các “Cụm liên kết công – nông nghiệp”. Bên cạnh đó, “dữ liệu cung – cầu nông sản” sẽ được thu thập và minh bạch tiến tới hình thành các “sàn giao dịch nông sản” dưới sự hỗ trợ của công nghệ số hoá.

Khi có dữ liệu đầy đủ, kịp thời, chuẩn xác, người cung ứng và doanh nghiệp tiêu thụ sẽ có điểm gặp nhau về số lượng, giá cả, thời điểm, phương thức thanh toán… Các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách cũng dựa trên dữ liệu này để phân tích, điều chỉnh chính sách hỗ trợ sản xuất và phát triển, tác động đến thị trường một cách phù hợp, linh hoạt, kịp thời.

                                                                              Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Đóng góp của cây trồng Công nghệ Sinh học trong Nông nghiệp tại Việt Nam

Ngày 7/4, tại Hà Nội, Hiệp hội Thương mại Giống cây trồng (VSTA) cùng TW Hội Nông dân Việt Nam (HND) và Tổ chức Quốc tế và Ứng dụng và Tiếp Thu Công nghệ sinh học trong Nông nghiệp (ISAAA) đã đồng tổ chức hội thảo với chủ đề: “Đóng góp của cây trồng Công nghệ Sinh học trong Nông nghiệp tại Việt Nam”. Với sự sự tham gia của đại diện các cơ quan quản lý nhà nước, nhà khoa học, đại diện Sở Nông nghiệp các tỉnh, các chuyên gia quốc tế, các công ty trong và ngoài nước, hội thảo là diễn đàn chia sẻ thông tin về hiện trạng ứng dụng cây trồng Công nghệ Sinh học (CNSH) trên toàn cầu cũng như tại Việt Nam và đặc biệt thảo luận về các tác động kinh tế, xã hội và môi trường của ngô CNSH sau 5 năm cấp phép canh tác trong nước.

Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Trần Xuân Định, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hiệp hội Thương mai Giống Cây trồng Việt Nam cho biết: “Trong những thập niên đầu của thế kỷ 21, với lĩnh vực nông nghiệp, chúng ta chứng kiến sự bứt phá của khoa học, đặc biệt là công nghệ sinh học với những phát minh của công nghệ di truyền, công nghệ gien, công nghệ vi sinh… Nhiều giống cây trồng được tạo ra bằng công nghệ sinh học đã có mặt ở Việt Nam, giúp nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nâng cao thu nhập nhờ việc tăng năng suất và giảm thiểu chi phí thuốc bảo vệ thực vật.”

Công nghệ sinh học (CNSH) ứng dụng trong nông nghiệp được xem là một trong các thành tựu khoa học nổi bật của thế kỷ trước, cho tới nay vẫn đang được minh chứng tính ưu việt bởi số liệu ứng dụng ngày một tăng trên toàn cầu cũng như những tác động kinh tế, xã hội và môi trường tích cực mà công nghệ mang lại cho nông dân, người tiêu dùng và cộng đồng. Theo báo cáo của tổ chức ISAAA, với việc có thêm 3 quốc gia Châu Phi, số lượng các quốc gia canh tác cây trồng CNSH đã tăng lên 29 vào năm 2019. Trong đó, 5 quốc gia dẫn đầu với diện tích cây trồng CNSH lớn nhất là Hoa Kỳ, Brazil, Argentina, Canada và Ấn Độ. Ước tính, khoảng 1,95 tỷ người, tương đương với 26% dân số thế giới, được hưởng lợi từ CNSH vào năm 2019.

Tiến sỹ Rhodora R. Aldemita, Giám đốc khu vực Đông Nam Á kiêm Giám đốc Trung tâm Kiến thức toàn cầu về CNSH của ISAAA cho biết thêm: “Năm 2019, tổng cộng có 190,4 triệu héc-ta cây trồng CNSH được canh tác góp phần quan trọng vào giải quyết các vấn đề về an ninh lương thực, tính bền vững, giảm thiểu biến đổi khí hậu cũng như nâng cao đời sống của hơn 17 triệu nông dân ứng dụng CNSH cùng gia đình của họ trên toàn cầu. Việt Nam là một trong 3 nước có tốc độ tăng trưởng diện tích trồng cây CNSH đạt đến hai con số cùng với Philippines và Colombia”.

Phân tích về các tác động của cây trồng CNSH ở phạm vi toàn cầu, Tiến sỹ Graham Brookes – Viện PG Economic đã dẫn chứng các số liệu trong nghiên cứu gần nhất phát hành năm 2020: “Tính đến năm 2018, tổng thu nhập gia tăng dành cho nông dân canh tác cây trồng CNSH là 19 tỷ đô la Mỹ – theo đó với mỗi đô la Mỹ chi phí đầu tư thêm cho hạt giống CNSH, lợi nhuận thu được thêm là 4,42 đô la Mỹ. Bên cạnh đó, chỉ tính riêng năm 2018, cây trồng CNSH cũng giúp hạn chế tổng lượng CO2 thải ra môi trường khoảng 23 tỷ kilogram tương đương với việc loại bỏ 15.3 triệu ô tô lưu thông trên đường trong 1 năm”. Theo TS. Graham, nông dân đặc biệt là những nông hộ có quy mô sản xuất nhỏ tại các nước đang phát triển thu được lợi ích rõ ràng hơn từ cây trồng CNSH, không chỉ từ việc năng suất cây trồng tăng (từ 10 tới 16,5% tuỳ loại cây trồng),  lợi nhuận tăng (trung bình khoảng 103 đô la Mỹ/ha) mà còn giúp giảm lượng thuốc BVTV sử dụng từ đó giảm bớt các tác động tiêu cực lên môi trường khoảng 19% (theo chỉ số EIQ).

Tại Việt Nam, cây trồng CNSH đã được chính thức được cấp phép canh tác thương mại từ 2014-2015 trên cây ngô. Ngô cũng là một trong các cây trồng chính trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp và Việt Nam cũng là một trong các quốc gia canh tác ngô nhiều nhất trên thế giới. Việc đưa các giống CNSH thời điểm đó được xem là một trong các công cụ quan trọng giúp tiếp tục nâng cao năng suất và chất lượng sản xuất, gia tăng giá trị và giúp nông dân trồng ngô có thêm lợi nhuận, từ đó củng cố năng lực của Việt Nam trong việc đảm bảo nguồn cung cho chuỗi thực phẩm và thức ăn chăn nuôi trong nước.

Năm 2019, tổng diện tích canh tác ngô CNSH khoảng 92.000 héc-ta, chiếm khoảng 10% tổng diện tích trồng ngô cả nước. Đặc biệt, tỷ lệ tăng trưởng hai con số về mặt diện tích trong các năm gần đây cho thấy mức độ chấp nhận của nông dân đối với công nghệ này đang tăng. Cụ thể vào năm 2015, tỷ lệ ứng dụng còn khiêm tốn khoảng 3,500 héc-ta chiếm chưa tới 1% tổng diện tích; tới nay diện tích ứng dụng đã tăng hơn 26 lần. Chỉ so sánh riêng giai đoạn 2018 – 2019, tỷ lệ tăng trưởng là 86%.

Vào năm 2019 – 2020, Hiệp hội Thương mại Giống cây trồng Việt Nam phối hợp với Viện PG Economics (Anh Quốc) đã tiến hành một nghiên cứu đánh giá và phân tích tác động của cây ngô CNSH với các tính trạng chuyển gien kháng sâu và chống chịu thuốc trừ cỏ sau 5 năm canh tác. Nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn nông dân trồng ngô (cả các giống ngô lai thường và ngô CNSH) tại các vùng sản xuất ngô trọng điểm của cả nước. Đây cũng là nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ nông hộ tại Việt Nam về cây trồng CNSH.

                                                                              Nguồn: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn

Bộ NN&PTNT khảo sát mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ tại Cà Mau

Ngày 5 và 6/4, Đoàn công tác do ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm trưởng đoàn có chuyến khảo sát, nắm bắt thông tin một số mô hình sản xuất lúa, lúa hữu cơ giai đoạn 2020 – 2030 tại tỉnh Cà Mau. Phó chủ tịch UBND tỉnh Lê Văn Sử tiếp và làm việc với đoàn.

Chiều ngày 5/4, Đoàn khảo sát thực tế mô hình sản xuất lúa hữu cơ tại Công ty TNHH MTV Viễn Phú, ấp An Phú, xã Khánh An, huyện U Minh. Đây là một trong những nông trang sản xuất sản phẩm hữu cơ lớn nhất Đông Nam Á, với tổng diện tích 317 ha. Đơn vị đã duy trì chứng nhận sản phẩm hữu cơ của Hoa Kỳ và Châu Âu do Control Union cấp từ năm 2012 và chuỗi thực phẩm hữu cơ Hoa Sữa Foods.

Sản phẩm của Viễn Phú đã và đang cung cấp đến tay người tiêu dùng tại các thị trường khó tính như: Anh, Nga, Singapore…

Cà Mau có điều kiện, lợi thế mà nhiều nơi khác không có được hoặc phải có bước chuyển đổi nhiều năm từ sử dụng hóa học sang hữu cơ. 

Các loại hình sản xuất nông nghiệp hiện nay như: nuôi tôm dưới tán rừng ngập mặn (rừng – tôm), nuôi tôm xen canh với trồng lúa (tôm – lúa), trồng lúa và các cây trồng dược liệu khác có tiềm năng rất lớn để sản xuất theo các tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ. Cà Mau đã có những thành công bước đầu trong sản xuất nông nghiệp theo hình thức này.

Về thuỷ sản, từ năm 2016 đến nay, vùng tôm – rừng đã chứng nhận 19.000 ha nuôi tôm theo tiêu chuẩn (Naturland, EU, Seafood Watch, Manrove, Cannada…), 600 ha chứng nhận ASC.

Về tôm – lúa kết hợp, năm 2020 đã xây dựng mô hình sản xuất tôm theo tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam với quy mô 50 ha tại xã Trí Phải, huyện Thới Bình.

Về trồng trọt, từ năm 2018, ngành nông nghiệp Cà Mau đã chỉ đạo các đơn vị phối hợp với 5 công ty kết nối với 4 hợp tác xã thực hiện liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa hữu cơ trên địa bàn tỉnh quy mô 900 ha, đã cung cấp trên 3.000 tấn lúa hàng hoá đạt tiêu chuẩn hữu cơ.

Sáng ngày 6/4, Đoàn tiếp tục có chuyến khảo sát mô hình sản xuất lúa – tôm hữu cơ tại Hợp tác xã (HTX) Lúa tôm Trí Lực, xã Trí Lực, huyện Thới Bình. Đây là một trong những HTX hoạt động hiệu quả nhất của tỉnh Cà Mau trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong đó, các mô hình sản xuất lúa sạch, lúa hữu cơ đã và đang nhận được sự tin tưởng, tham gia của bà con nông dân trên địa bàn.

Sau khi khảo sát các mô hình tại huyện U Minh và Thới Bình, Thứ trưởng Trần Thanh Nam đã gợi mở một số vấn đề trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ (NNHC) cho tỉnh.

Nhiều thành viên trong đoàn đã có những đánh giá tích cực về hoạt động sản xuất lúa hữu cơ, tôm hữu cơ của Cà Mau. Tuy nhiên, theo nhận định của thành viên đoàn công tác, muốn phát triển hiệu quả, thu hút được người dân đầu tư, cần tiến tới đưa ra quy trình sản xuất hữu cơ chuẩn. Muốn sản xuất, trồng lúa hữu cơ, nuôi tôm hữu cơ với mức độ đầu tư lớn, thì giá cả đầu ra phải cao hơn, để nông dân thấy được lợi ích, qua đó mạnh dạn chuyển đổi.

Các doanh nghiệp cần đồng hành với người dân trong sản xuất hữu cơ, cần thu hút nhiều doanh nghiệp tham gia đầu tư, nhằm tránh rủi ro khi phát sinh tình trạng độc quyền cung ứng đầu vào cũng như thu mua sản phẩm đầu ra.

Về phía tỉnh, theo kế hoạch, trong năm 2021, Sở NN&PTNT tập trung phát triển sản xuất NNHC: xây dựng mô hình tôm lúa hữu cơ quy mô 50 ha theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 11041-8:2018 tại huyện Thới Bình; phát triển vùng nguyên liệu lúa hữu cơ với quy mô 1.500 ha theo tiêu chuẩn quốc tế và 50 ha theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 11041:2017 tập trung huyện Thới Bình, U Minh và Trần Văn Thời; xây dựng mô hình sản xuất rau hữu cơ quy mô 5 ha; xây dựng mô hình canh tác chuối xiêm hữu cơ quy mô 5 ha, tập trung tại huyện U Minh và phát triển mô hình nuôi heo, gia cầm hữu cơ nông hộ, quy mô 60 con heo và 3.000 con gà, tập trung huyện U Minh.  

Để thực hiện, Cà Mau tiến hành rà soát điều chỉnh lại quy hoạch tích hợp quy hoạch phân vùng sản xuất NNHC vào quy hoạch chung của tỉnh. Xác định các loại cây trồng, vật nuôi, nuôi trồng thuỷ sản có tiềm năng lợi thế, có giá trị kinh tế cao để đưa vào sản xuất NNHC.

Đào tạo nhân lực, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào trong sản xuất NNHC, xây dựng các quy trình sản xuất, chế biến nông sản đạt tiêu chuẩn trong nước và quốc tế về chứng nhận hữu cơ.

Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu cho tôm, lúa, chuối hữu cơ, phát triển thị trường và quảng bá sản phẩm NNHC. Xây dựng các chính sách hỗ trợ phát triển NNHC, kêu gọi các nhà đầu tư vào Cà Mau để sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất NNHC theo định hướng lâu dài.

Để phát triển NNHC của tỉnh trong thời gian tới, ngành chức năng của tỉnh cũng có kiến nghị Bộ NN&PTNT sớm hướng dẫn các tiêu chí quy hoạch, phân vùng sản xuất hữu cơ để các địa phương rà soát tích hợp quy hoạch chung của tỉnh. Bộ NN&PTNT hỗ trợ tỉnh Cà Mau xây dựng dự án phát triển NNHC cho lĩnh vực thuỷ sản và trồng trọt./.

                                                                              Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Cam Cao Phong phát triển thương hiệu

Hòa Bình- vùng đất nổi tiếng với Cam. Loại cây trồng chủ lực mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân huyện Cao Phong. Năm 2014, cam Cao Phong được cấp chứng nhận Chỉ dẫn địa lý. Năm 2016, Viện Sở hữu trí tuệ quốc tế cấp chứng thư “Top 10 thương hiệu, nhãn hiệu nổi tiếng lần thứ 5”. Chất lượng, uy tín sản phẩm cam Cao Phong tạo đột phá trong phát triển nông nghiệp của tỉnh. Cấp ủy, chính quyền và Nhân dân huyện đang nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp để giữ gìn và phát triển thương hiệu cam Cao Phong.

Hiện nay, toàn huyện có trên 3.000 ha cam, quýt các loại, trong đó, diện tích thời kỳ kinh
 
doanh trên 1.700 ha, diện tích thời kỳ kiến thiết cơ bản trên 1.200 ha. Niên vụ 2020 –
 
2021, sản lượng dự kiến đạt 38.000 tấn. Nhằm nâng cao chất lượng cam quả, từ năm
 
2015 đến nay, huyện có nhiều chính sách hỗ trợ để người dân duy trì, mở rộng diện tích
 
trồng cam theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ. Đến nay, huyện có trên 1.000 ha với 759 hộ
 
tham gia trồng cam theo tiêu chuẩn VietGAP; 1.147 ha được cấp giấy chứng nhận cơ sở
 
đủ điều kiện ATTP. Cùng với đó, huyện đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại thông
 
qua việc tổ chức lễ hội cam, tham gia hội chợ thương mại tại các tỉnh bạn.
 
Năm 2019, huyện có 5 sản phẩm được công nhận đạt tiêu chuẩn OCOP, tất cả đều có
 
nguồn gốc từ cam. Trong đó, 2 sản phẩm đạt 4 sao, gồm: Nước cam tươi lên men và
 
cam quà tặng cao cấp của HTX Hà Phong; 3 sản phẩm đạt 3 sao, gồm: Cam quà tặng
 
cao cấp của HTX 3T nông sản Cao Phong, nước cốt cam và mứt ruột cam của HTX Hà
 
Phong. Theo đánh giá, sản phẩm OCOP của huyện chất lượng tốt, hình thức, mẫu mã
 
đẹp, có sức cạnh tranh cao. Để nâng tầm thương hiệu cam quả và các sản phẩm chế
 
biến từ cam, năm 2020, huyện quyết tâm nâng hạng tiêu chuẩn, phấn đấu 2 sản phẩm
 
tiềm năng đề nghị T.Ư đánh giá công nhận sản phẩm đạt 5 sao; các sản phẩm được
 
công nhận 3 sao nâng lên 4 sao và có thêm 3 sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP cấp tỉnh.
 
Cam Cao Phong đã tạo được uy tín trên thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu,
 
tuy nhiên, vài năm gần đây, việc sử dụng Chỉ dẫn địa lý còn nhiều khó khăn. Tình trạng
 
người dân tự ý trồng cam ngoài vùng quy hoạch vẫn diễn ra, dịch bệnh trên cây cam
 
phát triển; giá bán cam có xu hướng giảm… Đồng chí Quách Văn Ngoan, Chủ tịch
 
UBND huyện cho biết: Thời gian tới, để nâng tầm thương hiệu cam Cao Phong, huyện
 
tiến hành rà soát, xây dựng các vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao,
 
nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ gắn với công nghiệp chế biến. Đẩy mạnh sản
 
xuất cam theo chuỗi giá trị. Phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến cam quả sau thu
 
hoạch nhằm nâng cao giá trị sản phẩm. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại.
 
Đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng các loại cam lưu thông trên thị
 
trường. Kiên quyết xử lý trường hợp vi phạm Chỉ dẫn địa lý.
 
                                                         
                                                          Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Trồng rau hướng hữu cơ mang lại thu nhập cao cho người dân

Tại xã Đình Dù, Văn Lâm (Hưng Yên), gia đình c Hải đã mạnh dạn đầu tư 200 triệu đồng xây dựng 800 m2 làm nhà lưới trồng rau theo hướng hữu cơ, mỗi tháng thu lợi nhuận 7-10 triệu đồng.

Hiện nay, nắm bắt được nhu cầu đã có nhiều công nhân viên chức nhà nước, ngoài giờ làm việc ở công sở, vẫn tranh thủ trồng, kinh doanh thêm một số rau quả an toàn, để tăng thêm thu nhập. Chị Nguyễn Thị Hải ở xã Đình Dù, Văn Lâm (Hưng Yên) là một trong những số đó.

Chị đã thuê lại ruộng canh tác của dân trong làng và vay mượn 200 triệu đồng, xây dựng 800 m2 nhà lưới, nhà màng cho trồng rau hữu cơ. Kết quả từ hơn một năm nay, bên cạnh nguồn rau phục vụ cho nhu cầu gia đình, tháng nào gia đình chị cũng thu được lợi nhuận 7-10 triệu đồng từ gieo trồng rau sạch các loại (đã trừ hết mọi chi phí đầu tư, bao gồm cả khấu hao xây dựng hạ tầng).

Theo chị Hải, để đảm bảo tháng nào cũng có rau sạch cho thu hoạch, chị đã chọn gieo trồng các loại rau ăn lá ngắn ngày như, cải chíp, cải canh, cải ngọt, cải ngồng (khoảng 20-30 ngày thu 1 lứa, tùy loại rau), và chỉ chăm bón rau bằng phân hữu cơ hoai mục, nước phân vi sinh tự chế.

Nhưng cái khó của các cây rau này là mẫn cảm cao với sâu hại (chủ yếu giun đất và bọ nhẩy). Giun gây hại quanh năm ở phần dưới mặt đất của cây rau, vì rễ cải khá ngọt. Bọ nhẩy phát sinh gây hại nặng nhất vào tháng 1 -2.

Để phòng trừ giun, định kỳ 3-4 lứa rau, chị Hải lại rắc vôi bột lên mặt ruộng, rồi cày lật đất, sau đưa nước vào ngâm 2 ngày, rút kiệt phơi khô ruộng cho trồng lứa rau kế tiếp. Ngoài ra khi kiểm tra thấy độ pH đất < 6 thì bón thêm vôi bột, giúp giảm độ chua và phòng ngừa giun hại rau (máy đo pH đất rất dễ mua trên thị trường).

Với bọ nhẩy và các loại sâu khác, chị Hải phòng trừ bằng thuốc trừ sâu tự chế, bao gồm: 1kg ớt + 1kg tỏi  + 1kg gừng + 5 quả men rượu + 5 lít rượu nhạt, ngâm trong  bình thủy tinh. Khoảng hơn 1 tháng, lấy ra pha với nước sạch (tỷ lệ 1/1.000), phun cho ruộng rau liên tục 7 ngày, kể từ khi cây rau có 2 lá thật (phun 1 ngày/1 lần, sáng sớm hoặc chiều mát).

Chăm bón cho rau cũng làm tương tự: Mua 5 quả men rượu, 1kg đường kính, 0,5kg cám gạo, 3 hộp sữa chua, 3 gói men tiêu hóa (loại dùng cho trẻ em) và 10 lít nước lọc. Ngâm ủ được 7 ngày thì thêm 10 lít nước lọc nữa, từ 7-10 ngày sau, chắt ra tưới đều lên mặt luống trước lúc gieo rau, sẽ giúp phục hồi vi sinh vật có ích, kìm hãm vi sinh vật có hại, tăng độ tơi xốp đất.

Đồng thời, chị Hải còn ngâm hạt đỗ tương, phế phẩm cá nước ngọt với supe lân và thân chuối tây thái lát, sau chắt lấy nước tưới thúc cho rau.

Với phân hữu cơ, chị Hải chỉ mua phân gà hoặc phân chim, sau trộn đều với chế phẩm Trichoderma (tỷ lệ 1/1.000), rồi đóng vào bao bã mía, ủ yếm khí 45-60 ngày mới lấy ra bón lót cho ruộng rau.

Kinh nghiệm của chị Hải cho thấy, các loại rau ăn lá gieo trồng trong nhà màng sẽ rút ngắn được 1/4 thời gian sinh trưởng so với gieo ngoài tự nhiên, giúp tăng vụ sản xuất, tăng sản lượng, tăng thu nhập.

Tuy rau trồng theo cách làm nói trên không mỡ màng đẹp mã như các loại rau chăm bón bằng phân hóa học, nhưng nhờ tiếng lành đồn xa, nên sản phẩm làm ra đến đâu, luôn được mọi người thân quen đặt mua hết đến đó, với giá cao gấp 1,5 lần bán ngoài chợ.

                                                          Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Quản lý vi sinh vật hiệu quả có thể là chìa khóa cho canh tác hiệu quả

Nghiên cứu mới cho thấy rằng nếu ngành nuôi trồng thủy sản có thể tận dụng các động lực của vi sinh vật trong các trang trại nuôi cá, các nhà sản xuất có thể thấy những cải thiện lớn về hiệu quả nuôi trồng.

Việc phát triển các chiến lược quản lý vi sinh vật hiệu quả để giảm sự bùng phát dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản thường bị cản trở bởi kiến ​​thức hạn chế về vi sinh vật trong các trang trại nuôi tôm và cá. Nghiên cứu mới được công bố bởi Trung tâm Sinh thái vi sinh vật và Công nghệ (CMET, Đại học Ghent) phối hợp với INVE Aquaculture, Benchmark (BAN) cho thấy cơ hội để đạt được hiệu quả chăn nuôi thông qua một sự hiểu biết toàn diện về hệ vi sinh vật (microbiome).

Ông Peter De Schryver, Trưởng nhóm về Sức khỏe và Môi trường tại INVE (BAN) và đồng tác giả của nghiên cưu biết: “Trong nuôi trồng thủy sản, sự hiện diện của vi khuẩn trong nước nuôi ảnh hưởng đến chu trình dinh dưỡng, sự phân hủy chất thải chuyển hóa, tiêu hóa và sức khỏe của động vật. Vì vậy việc quản lý những vi khuẩn này là một công cụ quan trọng trong việc định hướng sức khỏe tổng thể của hệ thống”.

Một cộng đồng vi sinh vật hoạt động tốt trong nước là rất quan trọng, cũng như cần phải tránh để hệ vi sinh vật bị gián đoạn đột ngột (một quá trình được gọi là “rối loạn sinh học”). Bằng cách đánh giá chính xác vi khuẩn, nó cho phép các công ty bắt đầu theo dõi những thay đổi và liên kết điều này với tình trạng sức khỏe của vật nuôi. Trong tương lai, điều này cũng có thể cho phép các nhà sản xuất dự đoán khi nào sức khỏe vật nuôi của họ có thể bị tổn hại. 

Công nghệ đầu tiên về loại hình này

Các nhà nghiên cứu tập trung vào nước nuôi tôm thẻ chân trắng (L. vannamei). Họ đánh giá thành phần và động lực của hệ vi sinh vật bằng cách sử dụng kết hợp các phương pháp phân tích tế bào dòng chảy mới và phân tử đã được thiết lập, cho phép đo lường và định lượng tất cả vi khuẩn, nhưng cả tảo và đôi khi thậm chí cả vi rút, tạo sự khác biệt này so với chẩn đoán thông thường tập trung vào một sinh vật đơn lẻ ở một khoảnh khắc duy nhất.

Tác giả chính Jasmine Heyse của Đại học Ghent nhận xét, “chúng tôi đã theo dõi sự đóng góp của vi sinh vật từ các nguồn bên ngoài, bao gồm các sản phẩm thức ăn tươi sống hoặc khô, vào nước nuôi. Đây là lần đầu tiên những đóng góp này được định lượng ”.

Nâng cao hiệu quả và hiệu lực của sản phẩm

Ruben Props, cũng thuộc Đại học Ghent nhận xét: “Việc áp dụng phương pháp đo tế bào dòng chảy mới này có nghĩa là chúng tôi có thể đánh giá chính xác những thay đổi trong vi sinh vật có liên quan đến việc sử dụng các sản phẩm. Tôi tin rằng điều này mở ra cơ hội mới cho các nhà cung cấp sản phẩm như INVE (Benchmark Advanced Nutrition) cũng như các nhà sản xuất tôm cá biết rằng sản phẩm họ đang sử dụng đang mang lại hiệu quả mong muốn”.

“Thông qua nghiên cứu học thuật của CMET cũng như công ty phụ trợ UGent sắp tới của chúng tôi là KYTOS, chúng tôi đang tiếp tục tạo ra các bộ dữ liệu lớn hơn cho phép chúng tôi xác định chính xác các dấu hiệu vi sinh xác định sự sống còn và sức khỏe của động vật. Đây sẽ là một bước thay đổi trong quản lý trang trại”, Ruben cho biết thêm.

Peter kết luận, sự hợp tác tuyệt vời giữa ngành nuôi trồng thủy sản và giới học thuật và cho thấy với những công cụ và kiến ​​thức chính xác, chúng tôi có thể tạo ra những bước tiến dài trong việc cải thiện sức khỏe và hiệu quả của hệ thống nuôi trồng thủy sản.

                                                           Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

iệt Nam và Niu Di-lân sẽ thúc đẩy hợp tác về nông nghiệp sâu rộng hơn nữa trong năm 2021

Sáng ngày 24/2, Việt Nam và Niu Di-Lân đã tổ chức họp trực tuyến Đối thoại Cấp cao về nông nghiệp lần thứ I và ký Thỏa thuận Hợp tác về nông nghiệp giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (NN&PTNT) và Bộ Các ngành cơ bản Niu Di-lân. Thứ trưởng Lê Quốc Doanh và ông Ray Smith, Giám đốc điều hành Bộ Các ngành cơ bản Niu Di-lân đồng chủ trì, cùng với sự tham gia của lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ NN&PTNT.

Tại cuộc đối thoại, hai bên cùng cam kết thúc đẩy quan hệ hợp tác trong nông nghiệp và thương mại nông sản hai chiều ngày càng đi vào chiều sâu. Vn và Niu Di-lân khẳng định rằng mối quan hệ đối tác chiến lược được Thủ tướng Chính phủ hai nước công bố vào tháng 7/2020 đã tạo nền tảng vững chắc cho việc tăng cường kết nối và hợp tác nông nghiệp giữa hai nước.

Phát biểu tại cuộc đối thoại, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh đánh giá cao các dự án hỗ trợ ODA của Niu-di-lân đã giành cho Việt Nam trong các lĩnh vực: kiểm dịch (SPS), phát triển rau an toàn, phát triển giống cây ăn trái chất lượng cao, an toàn đập và hồ chứa,… Thứ trưởng khẳng định rằng nông nghiệp đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của hai nước. Cả hai quốc gia đều là những nhà sản xuất và xuất khẩu nông nghiệp mạnh. Việc thiết lập Đối thoại nông nghiệp Việt Nam – Niu Di-lân và ký kết Thỏa thuận Hợp tác nông nghiệp sẽ thúc đẩy kết nối, hợp tác và thương mại hai chiều của hai nước, trên tinh thần Thủ tướng Chính phủ hai nước đã nhấn mạnh trong cuộc đối thoại Đối tác chiến lược.

Trong thời gian qua, hợp tác song phương trong lĩnh vực nông nghiệp đạt nhiều thành tựu to lớn góp phần thúc đẩy nâng cấp lên Đối tác Chiến lược giữa Việt Nam và Niu Di-lân. Các hoạt động trao đổi đoàn cấp cao diễn ra thường xuyên. Đặc biệt, Niu Di-lân đã hỗ trợ Việt Nam nhiều dự án lớn có ý nghĩa trong việc phát triển bền vững sản xuất nông nghiệp, điển hình là Dự án Phát triển giống cây ăn trái mới chất lượng cao giữa Việt Nam và Niu Di-lân trị giá 8,1 triệu đô la NZ giúp hỗ trợ Việt Nam chọn tạo giống mới cho quả thanh long ruột vàng, kỹ thuật canh tác mới nâng cao năng suất, chất lượng, phát triển chuỗi giá trị thanh long theo mô hình Công ty ZESPRI đang áp dụng đối với quả kiwi của Niu Di-lân.

Hiện tại, Bộ Các ngành cơ bản của Niu Di-lân đang tiếp tục triển khai các hoạt động hợp tác với Bộ NN&PTNT trong các lĩnh vực chọn tạo, phát triển giống cây trồng chất lượng cao, kiểm dịch động thực vật, dich tễ học và thú y, thử nghiệm thông quan các sản phẩm nông sản bằng giấy chứng nhận điện tử (SPS-Ecert), an toàn đập và vận hành hồ chứa… thông qua các dự án hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ do Chính phủ Niu Di-lân tài trợ.

Thứ trưởng Lê Quốc Doanh khẳng định Bộ NN&PTNT sẵn sàng là đầu mối khu vực ASEAN của Liên minh Nghiên cứu Toàn cầu về giảm thải khí nhà kính nông nghiệp (GRA) do Niu Di-lân tài trợ, tập trung vào các lĩnh vực như kiểm kê khí nhà kính, nghiên cứu giảm thiểu tác động của biến đối khí hậu và phát triển nông nghiệp thông minh.

Việt Nam hoan nghênh các sản phẩm của Niu-di-lân, đặc biệt nguyên liệu gỗ nhập khẩu về chế biến do gỗ Niu Di-lân thuộc vùng địa lý tích cực. Đồng thời, Việt Nam cũng đánh giá cao việc Niu-di-lân đã mở cửa cho một số loại trái cây của Việt Nam như xoài, thanh long và chôm chôm. Trong thời gian tới, Bộ NN&PTNT mong muốn Niu Di-lân sẽ tiếp tục mở cửa đón nhận thêm các loại trái cây khác. Đồng thời, đề nghị Niu Di-lân hỗ trợ các dự án nghiên cứu, phối hợp cùng với phía Việt Nam tiếp tục nghiên cứu sâu về tác động của đại dịch COVID-19 đến sản xuất nông nghiệp và chuỗi cung ứng nông sản để có kết quả cụ thể, làm cơ sở xây dựng kế hoạch, chiến lược đối phó và khắc phục tác động lâu dài của đại dịch COVID-19.

Ông Ray Smith, Giám đốc điều hành của Bộ Các ngành cơ bản của Niu Di-lân cho biết, Niu Di-lân đã phát triển một trong những ngành nông nghiệp hiệu quả nhất trên thế giới, nổi tiếng về nghiên cứu và công nghệ tiên tiến, thực hành nông nghiệp tốt và an toàn, chất lượng sản phẩm cao. Ông bày tỏ hy vọng rằng Thỏa thuận hợp tác mới được ký kết sẽ giúp xây dựng giá trị và mở rộng cơ hội đầu tư giữa hai nước./.

“Chúng tôi nhận ra rằng thương mại gia tăng không chỉ là xuất khẩu nhiều sản phẩm hơn, mà là trao đổi kiến thức, chuyên môn, công nghệ, dịch vụ, và đầu tư. Sự trao đổi hai chiều này có lợi cho cả hai nước chúng ta”, ông Ray Smith nhấn mạnh.

Cuối cùng, hai bên khẳng định cam kết hoàn thiện việc ưu tiên mở cửa tiếp cận thị trường của nhau cho trái cây mới trong năm nay để người tiêu dùng có thể thưởng thức dâu tây và bí Niu Di-lân ở Việt Nam cũng như chanh tươi và bưởi của Việt Nam ở Niu Di-lân.

                                                           Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Hòa Bình: Mô hình sản xuất nông nghiệp an toàn, liên kết tiêu thụ sản phẩm

Theo Trung tâm Khuyến nông Hòa Bình, trong những năm qua, tỉnh Hòa Bình đã có nhiều mô hình điển hình, đi đầu trong công tác sản xuất hàng nông nghiệp an toàn, liên kết tiêu thụ gắn với truy xuất nguồn gốc góp phần tạo công ăn việc làm ôn định, nâng cao thu nhập cho người dân tham gia và sản xuất theo hướng bền vững.

Hợp tác xã Hà Phong tại Xóm Môn, xã Bắc Phong, huyện Cao Phong có diện tích trên 300 ha cây ăn quả có múi các loại, tập trung sản xuất, kinh doanh nông sản có múi như Cam lòng vàng, cam canh đường, bưởi, quýt, cam V2, chanh đào, chanh trắng… và một số sản phẩm sản xuất từ cam như tinh dầu cam, mứt vỏ cam, mứt ruột cam, rượu cam, xà phòng cam, si rô cam… Hợp tác xã sản xuất theo VietGAP và đã có chứng nhận. Đặc biệt hai sản phẩm là nước Cam tươi lên men và Cam quả của Hợp tác xã xếp hạng 4 sao thuộc chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) tỉnh Hòa Bình năm 2019. Sản phẩm của Hợp tác xã được giới thiệu và tiêu thụ ở trong và nhiều tỉnh thành trên cả nước.

Mô hình chăn nuôi Gà của Hợp tác xã Gà Lạc Thủy tại xã An Bình, huyện Lạc Thủy với sản lượng 40 tấn/năm. Chăn nuôi của Hợp tác xã đạt tiêu chuẩn VietGAP và có tem truy xuất nguồn gốc với sản phẩm là gà tươi nguyên con, hiện nay sản phẩm gà tươi nguyên con được ký hợp đồng và cung cấp cho hệ thống siêu thị BiC, Lotte, các nhà hàng, cửa hàng nông sản tại Hà Nội. Năm 2019, sản phẩm gà tươi nguyên con của Hợp tác xã xếp hạng 4 sao thuộc chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) tỉnh Hòa Bình. Mô hình chăn nuôi gà của hợp tác xã là một điểm sáng trong chăn nuôi theo hướng nông nghiệp sạch, an toàn và liên kết tiêu thụ sản phẩm của tỉnh Hòa Bình nói chung và huyện Lạc Thủy nói riêng.

Mô hình chăn nuôi cá lòng hồ của Công ty TNHH Xây dựng và Dịch vụ Cường Thịnh tại xóm Vôi, xã Hòa Bình, TP. Hòa Bình. Quy mô chăn nuôi của công ty 400 lồng 825 tấn/năm (200 lồng của công ty, 200 lồng liên kết sản xuất). Công ty chăn nuôi theo tiêu chuẩn VietGAP với các loại cá như cá Lăng, cá Diêu hồng, cá trắm, Chép. Điểm nổi bật về sản phẩm của Công ty là cá Lăng đen sông Đà phi lê và cá rô phi sông Đà phi lê. Năm 2019, khi tham gia chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) tỉnh Hòa Bình, hai sản phẩm này được xếp hạng 4 sao, được người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh rất ưa chuộng. Ngoài mô hình chăn nuôi cá lòng hồ theo hướng an toàn và liên kết tiêu thụ gắn với truy xuất nguồn gốc của công ty Công ty TNHH Xây dựng và Dịch vụ Cường Thịnh còn có Công ty TNHH Thủy hải sản Hải Đăng Hòa Bình, quy mô 300 lồng, 780 tấn/năm (162 lồng của công ty, 140 lồng liên kết sản xuất). Sản phẩm của công ty là cá lòng hồ sông Đà các loại được tiêu thụ tại Hà Nội.

Mô hình chăn nuôi và liên kết tiêu thụ sản phẩm của Hợp tác xã Nông nghiệp và Dịch vụ Thuận Phát tại xóm Đồng Sương, xã Liên Sơn, huyện Lương Sơn với sản phẩm là thịt gà tươi nguyên con đóng túi hút chân không, chăn nuôi gà đạt tiêu chuẩn VietGAP có đăng ký nhãn mác và tem truy xuất nguồn gốc, sản lượng 40 tấn gà/năm, với thị trường liên kết tại các nhà hàng trong và ngoài tỉnh, Hệ thống cửa hàng thực phẩm sạch tại Hà Nội. Năm 2019, sản phẩm thịt gà của hợp tác xã khi tham gia chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) tỉnh Hòa Bình đã được xếp hạng 3 sao./

                                                          Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Kon Tum: Thúc đẩy sản xuất cà phê bền vững

Chuyển đổi nông nghiệp bền vững hay còn gọi là Dự án VnSAT được triển khai trên địa bàn tỉnh ta từ năm 2016 với mục tiêu định hướng và hỗ trợ người dân thực hiện sản xuất cà phê bền vững. Qua 5 năm thực hiện, Dự án đã góp phần làm thay đổi nhận thức và thúc đẩy sản xuất của người trồng cà phê theo hướng canh tác bền vững, giảm sự tác động lên môi trường.

Ông Trần Văn Chương- Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Kon Tum cho biết: Việc triển khai chương trình chuyển đổi nông nghiệp bền vững nhằm mang lại sự chuyển biến tích cực trong tư duy và phương thức sản xuất của người nông dân. Tại tỉnh ta, Dự án được triển khai từ năm 2016 trên địa bàn 17 xã của 3 huyện là Đăk Hà, Đăk Glei và Kon Plông với nhiều nội dung như: Tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật canh tác cà phê bền vững; hỗ trợ chi phí lắp đặt công nghệ tưới nước tiết kiệm; hỗ trợ cơ sở hạ tầng (đường giao thông, sân phơi, nhà kho, máy móc, thiết bị) cho các hợp tác xã, tổ hợp tác. 5 năm qua, Dự án đã và đang phát huy hiệu quả tích cực, góp phần tái cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp, nhất là tăng khả năng cạnh tranh của mặt hàng cà phê và thu nhập của nông dân.

Theo đánh giá của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 5 năm qua, Dự án VnSAT đã hỗ trợ đào tạo, tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ thuật sản xuất cà phê bền vững cho hơn 4.500 hộ dân với tổng diện tích cà phê trồng mới và tái canh trên 4.126ha; hỗ trợ lắp đặt công nghệ tưới nước tiết kiệm cho 40 hộ dân của Tổ hợp tác sản xuất cà phê bền vững Bình Minh (xã Hà Mòn) và Tổ hợp tác Liên kết Đăk Long (xã Đăk Long) của huyện Đăk Hà. Dự án cũng hỗ trợ cho một số hợp tác xã nâng cấp đường nội đồng, xây dựng sân phơi, nhà kho và thiết bị, máy móc cần thiết để hiện đại hóa sản xuất và có điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đặc biệt, từ năm 2019 đến nay, Dự án hỗ trợ xây dựng 3 vườn ươm giống cà phê đạt tiêu chuẩn để phục vụ nhu cầu tái canh và trồng mới của người dân trong và ngoài vùng dự án.

Được sự tiếp sức của Dự án VnSAT, những năm qua, Hợp tác xã Nông nghiệp Sản xuất và Thương mại Sáu Nhung (huyện Đăk Hà) đã mạnh dạn góp vốn đối ứng triển khai lắp đặt công nghệ tưới nước tiết kiệm. Nhờ đó, Hợp tác xã đã giảm được đáng kể chi phí sản xuất, tăng năng suất cà phê, mang lại thu nhập cao hơn cho các thành viên.

Ông Nguyễn Tri Sáu – Chủ tịch HĐQT, Giám đốc Hợp tác xã tính toán: Việc áp dụng công nghệ tưới tiên tiến giúp giảm được lượng nước tưới khoảng 30% so với phương pháp tưới truyền thống. Đây một trong những giải pháp quan trọng ứng phó với tình trạng thiếu nước tưới, đồng thời, tưới tiết kiệm cũng giúp giảm được lượng phân bón, giảm công làm cũng như về tiền điện, dầu bơm tưới.

Ông Đoàn Văn Chương – Tổ trưởng Tổ hợp tác Bình Minh (xã Hà Mòn, huyện Đăk Hà) chia sẻ: Trước đây, người dân thường canh tác cà phê dựa vào kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau nên có khi tưới quá nhiều nước, bón nhiều phân vô cơ dẫn đến chi phí đầu tư lớn mà năng suất vườn cây không được nâng lên. Từ khi tham gia dự án, các thành viên của Tổ hợp tác đã hiểu và áp dụng đúng quy trình sản xuất bền vững, tưới nước đúng thời điểm, đủ lượng cần thiết, cân bằng giữa lượng phân vô cơ và hữu cơ, phun thuốc trừ sâu sinh học, thu hái cà phê đạt tỷ lệ quả chín cao… So sánh qua các vụ sản xuất, chúng tôi nhận thấy, từ khi áp dụng phương pháp sản xuất mới, lợi nhuận tăng hơn 15 – 20% so với trước đây.

Không chỉ trang bị kiến thức trong sản xuất, chế biến cà phê; 5 năm qua, Dự án VnSAT còn triển khai nhiều hoạt động đào tạo, tập huấn nhằm nâng cao năng lực quản lý, hoạt động cho các hợp tác xã, tổ hợp tác và khuyến khích, hỗ trợ nông dân tăng cường liên kết với doanh nghiệp, hợp tác xã để phát triển chuỗi giá trị cà phê một cách bền vững.

Theo ông Trần Văn Chương, với những kết quả tích cực mà chương trình chuyển đổi nông nghiệp bền vững mang lại trong thời gian qua, Chính phủ đã quyết định kéo dài thời gian thực hiện Dự án tới hết tháng 6/2022. “Trong thời gian tới, cùng với việc tiếp tục tập huấn trang bị kiến thức cần thiết về sản xuất cà phê bền vững cho người trồng, chúng tôi sẽ tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác nâng cao năng lực sản xuất, chế biến, bảo quản cà phê. Đặc biệt, chúng tôi sẽ tập trung sâu vào việc hướng dẫn, hỗ trợ xây dựng chuỗi giá trị liên kết, xúc tiến thương mại để đưa sản phẩm hàng hóa ra thị trường. Kinh phí thực hiện ước tính khoảng 100 tỷ đồng”- ông Trần Văn Chương cho biết.

Có thể thấy, việc triển khai Dự án VnSAT trên địa bàn tỉnh đã góp phần định hướng, nâng cao năng lực sản xuất cho người dân; thúc đẩy việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chế biến cà phê. Qua đó, vừa giúp giảm bớt chi phí sản xuất, tăng thêm lợi ích cho nông dân vừa góp phần bảo vệ môi trường; góp phần thúc đẩy sản xuất cà phê bền vững.

                                                          Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Copyrights © 2019 VITAD-AGRI All Rights Reserved.

X