Tag Archives: sản xuất nông nghiệp

Tối ưu chi phí, làm giàu từ mô hình nông nghiệp tuần hoàn

ĐÀ NẴNG – Tận dụng lợi thế địa phương và tư duy sáng tạo, nhiều nông dân Đà Nẵng đang từng bước làm giàu từ mô hình nông nghiệp tuần hoàn, chi phí thấp mà hiệu quả cao.

 

Gần 15 năm gắn bó với nghề nông, chị Nguyễn Thị Nhinh (thôn An Châu, xã Hòa Vang) đã xây dựng thành công mô hình nông nghiệp tuần hoàn cho hiệu quả cao. Xuất phát điểm chỉ với vài nghìn mét vuông đất và 8 con dê giống được địa phương hỗ trợ vào năm 2010, đến nay, chị đã sở hữu trang trại rộng gần 2 ha kết hợp trồng trọt và chăn nuôi.

Chị Nguyễn Thị Nhinh chăm sóc đàn dê tại trang trại chăn nuôi kết hợp trồng trọt theo mô hình tuần hoàn ở xã Hòa Vang, TP Đà Nẵng. Ảnh: Phạm Huy.

Chị Nguyễn Thị Nhinh chăm sóc đàn dê tại trang trại chăn nuôi kết hợp trồng trọt theo mô hình tuần hoàn ở xã Hòa Vang, TP Đà Nẵng. Ảnh: Phạm Huy.

Ban đầu, chị Nhinh trồng thanh long ruột đỏ trên diện tích 1.000 m² và chăn nuôi dê theo hướng tự nhiên. Nhận thấy tiềm năng phát triển, chị mạnh dạn vay 370 triệu đồng từ ngân hàng và tổ phụ nữ thôn để mở rộng quy mô sản xuất, mua thêm bò, xây chuồng trại, trồng thêm các loại cây có giá trị như mãng cầu, chuối lùn, rau ăn lá…

Đặc biệt từ năm 2017, chị quyết định chuyển đổi toàn bộ diện tích trồng cây kém hiệu quả sang trồng cỏ làm thức ăn cho vật nuôi. Song song đó, chị đầu tư xây 12 bể với diện tích 100 m² để nuôi trùn quế để vừa xử lý phân bò, phân dê, vừa tạo ra nguồn đạm tự nhiên cho vật nuôi.

Hiện trang trại của chị có hơn 100 con dê, 5 con bò, hơn 200 con gà, hơn 1 ha trồng cỏ và 200 m² trồng rau các loại. Trung bình 3 tháng chị thu 4 tạ phân chuồng để nuôi trùn quế. Mỗi năm, 12 bể trùn quế cho 5 đợt thu hoạch với sản lượng khoảng 180 kg/đợt. Trùn quế được dùng làm thức ăn cho gà, dê, bò, phần còn lại bán ra thị trường với giá 70.000 đồng/kg giun và 2.000 đồng/kg phân.

“Mô hình này giúp tôi giảm đáng kể chi phí thức ăn, tăng giá trị sản phẩm và hạn chế ô nhiễm môi trường. Dù thị trường biến động tôi vẫn có nguồn thu ổn định. Doanh thu trung bình mỗi năm từ 250 – 300 triệu đồng, sau khi trừ chi phí còn lãi ròng 130 – 150 triệu đồng”, chị Nhinh chia sẻ.

Sâu canxi góp phần tái chế phế phẩm nông nghiệp, tạo nguồn thức ăn sạch và thân thiện với môi trường. Ảnh: Phạm Huy.

Sâu canxi góp phần tái chế phế phẩm nông nghiệp, tạo nguồn thức ăn sạch và thân thiện với môi trường. Ảnh: Phạm Huy.

Thời gian tới, chị dự định mở rộng quy mô chăn nuôi, cải tạo chuồng trại, đưa cơ giới hóa vào sản xuất để nâng cao năng suất và giữ gìn vệ sinh môi trường.

Anh Nguyễn Quang Phú ở phường Hòa Khánh thì chọn hướng đi mới là đầu tư nuôi sâu canxi – sinh vật có vòng đời ngắn, ít tốn chi phí nhưng mang lại hiệu quả kinh tế cao.

 

Sâu canxi là ấu trùng của ruồi lính đen, có giá trị cao trong chăn nuôi. Giai đoạn trưởng thành hoặc sau lột xác, sâu để lại lớp vỏ chứa hàm lượng canxi dồi dào. Cả sâu và vỏ đều có thể làm thức ăn giàu dinh dưỡng cho gia súc, gia cầm.

Bắt đầu từ năm 2023, anh Phú đầu tư mô hình nuôi sâu canxi trên diện tích 100 m². Dù gặp không ít khó khăn do giai đoạn đầu sâu bò ra khỏi khay, chết bất thường, song anh vẫn kiên trì nghiên cứu, điều chỉnh điều kiện nuôi, nhiệt độ và thức ăn phù hợp.

Cơ sở vật chất để nuôi sâu khá đơn giản. Khay nuôi ấu trùng, lồng nuôi ruồi rộng khoảng 15 m³, khung sắt bọc vải mùng để ruồi giao phối và đẻ trứng. Trung bình 1 gram trứng sâu sẽ cho ra 2,5 – 3 kg sâu sau 15 – 20 ngày. Với 1 kg trứng mỗi năm, anh thu được khoảng 2,5 – 3 tấn sâu canxi. Giá bán 30 gram trứng là 170.000 đồng, 1 kg sâu 30.000 đồng, 1 kg phân sâu 7.000 đồng.

Khu nuôi trùn quế - một phần trong mô hình nông nghiệp tuần hoàn giúp tái sử dụng nguồn phân chuồng hiệu quả. Ảnh: Phạm Huy.

Khu nuôi trùn quế – một phần trong mô hình nông nghiệp tuần hoàn giúp tái sử dụng nguồn phân chuồng hiệu quả. Ảnh: Phạm Huy.

“Tôi quyết định gắn bó với mô hình này vì thấy rõ lợi ích kép, vừa xử lý được phế phẩm nông nghiệp, vừa làm thức ăn sạch, giàu dinh dưỡng cho vật nuôi. Gia đình tôi nuôi nhiều gà, vịt, từ khi dùng sâu canxi làm thức ăn, vật nuôi ít bệnh, chất lượng thịt ngon hơn, chi phí thức ăn giảm tới 70 – 80%”, anh Phú cho biết.

Hiện mỗi tháng anh Phú có thu nhập ổn định khoảng 8 – 10 triệu đồng từ việc bán trứng sâu, sâu trưởng thành và phân sâu. Đây là mô hình phù hợp với diện tích nhỏ, dễ nhân rộng, đặc biệt ở các khu vực đô thị có quỹ đất hạn chế.

Từ hai mô hình thực tế của chị Nhinh và anh Phú, có thể thấy phát triển nông nghiệp theo hướng tuần hoàn, tối ưu chi phí đang mở ra hướng đi hiệu quả cho nông dân Đà Nẵng. Không chỉ giúp nâng cao thu nhập cho hộ gia đình, mô hình còn góp phần bảo vệ môi trường, tạo ra sản phẩm an toàn, giàu dinh dưỡng.

Trong bối cảnh đô thị hóa ngày càng tăng, đất sản xuất ngày càng thu hẹp, những mô hình sử dụng hợp lý diện tích và nguồn lực như trên cần được nhân rộng, hỗ trợ kỹ thuật, kết nối tiêu thụ và truyền thông mạnh mẽ, hướng đến nền nông nghiệp xanh, thông minh và phát triển bền vững.

 

Theo nongnghiep.vn

Vải u trứng trắng Thanh Hà

100.000 đồng/kg vải u trứng trắng Thanh Hà

Vải u trứng trắng ở Thanh Hà, tỉnh Hải Dương đang được nhiều khách hàng đặt mua 100.000 đồng/kg, mức giá cao nhất trong các loại vải của địa phương này.

 

Hiện nay, huyện Thanh Hà đã có một số hộ thu hoạch vải u trứng trắng. Chính quyền địa phương đã khuyến cáo người dân thu hoạch vải khi đã bảo đảm độ chín, để vải đạt chất lượng cao nhất. Vải u trứng trắng sẽ cho thu hoạch đúng thời điểm vào tuần tới.

Vải u trứng trắng sẽ cho thu hoạch rộ vào tuần tới. Ảnh: Minh họa.

Vải u trứng trắng sẽ cho thu hoạch rộ vào tuần tới. Ảnh: Minh họa.

Do trà vải u trứng trắng sản lượng không nhiều và cho thu hoạch sớm nhất, nên giá bán cao. Nhiều hộ có vải u trứng trắng cho biết nhiều khách quen đã đặt mua trước với giá 100.000 đồng/kg, cao hơn vải thiều chính vụ khoảng 40.000 đồng/kg.

 

Vải u trứng trắng có vị thơm, cùi dầy, quả to, mọng. Loại vải này sản lượng không lớn như các loại vải u hồng, u gai, tàu lai và vải thiều chính vụ.

Huyện Thanh Hà hiện có 3.285 ha vải, trong đó có khoảng 1.900 ha vải sớm trồng tập trung ở khu Hà Đông. Năm nay do ảnh hưởng của thời tiết lạnh kéo dài nên các trà vải cho thu hoạch muộn hơn khoảng 10 ngày.

 

Theo nongnghiep.vn

Củ Cải Trắng Chế Biến Tại Nhà Máy Hikari Đà Lạt

Công Ty Cổ Phần Hikari Đà Lạt tự hào giới thiệu đến quý khách hàng sản phẩm củ cải trắng chế biến cao cấp, được sản xuất theo công nghệ hiện đại Octofrost từ Thụy Điển. Đây là quy trình sản xuất tiên tiến và đảm bảo chất lượng cao nhất, giúp mang đến cho người tiêu dùng sản phẩm sạch, an toàn và giữ nguyên được giá trị dinh dưỡng tự nhiên của củ cải trắng.

Quy Trình Sản Xuất Tiên Tiến

Tại Hikari Đà Lạt, sản phẩm củ cải trắng được chế biến qua nhiều công đoạn kỹ lưỡng và kiểm soát chặt chẽ, bao gồm:

  1. Lựa Chọn Nguyên Liệu Chất Lượng Cao: Chúng tôi chỉ lựa chọn những củ cải trắng tươi ngon, đạt tiêu chuẩn chất lượng cao từ vùng nguyên liệu sạch và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
  2. Rửa Sạch Và Cắt Gọt: Sau khi được chọn lọc kỹ lưỡng, củ cải trắng sẽ được rửa sạch và cắt gọt thành các hình dạng đồng đều, tạo sự tiện lợi cho người tiêu dùng khi sử dụng.
  3. Rửa Tinh Bằng Nước Ozone: Để đảm bảo vệ sinh tuyệt đối, củ cải trắng sẽ được rửa tinh bằng công nghệ nước Ozone, loại bỏ hoàn toàn các vi khuẩn và tạp chất còn lại trên bề mặt nguyên liệu.
  4. Chần/Hấp: Sau khi rửa tinh, củ cải trắng được chần hoặc hấp nhanh chóng để giữ lại màu sắc tươi sáng và cấu trúc giòn ngon tự nhiên.
  5. Giải Nhiệt: Ngay sau quá trình chần/hấp, sản phẩm được giải nhiệt nhanh chóng để ngăn ngừa quá trình nấu chín tiếp tục và bảo quản tối ưu chất lượng sản phẩm.
  6. IQF (Đông Lạnh Nhanh Từng Phần): Công nghệ đông lạnh IQF đảm bảo từng phần của củ cải trắng được đông lạnh nhanh chóng, giữ nguyên hương vị, màu sắc và dinh dưỡng của sản phẩm.
  7. Đóng Gói Và Lưu Trữ: Sản phẩm được đóng gói kỹ lưỡng, đảm bảo an toàn thực phẩm trước khi được lưu trữ trong kho lạnh sâu ở nhiệt độ -18 độ C, đảm bảo độ tươi ngon suốt quá trình vận chuyển và bảo quản.

Lợi Ích Sản Phẩm

  • Giữ Nguyên Dinh Dưỡng: Quy trình chế biến hiện đại giúp củ cải trắng giữ nguyên giá trị dinh dưỡng tự nhiên.
  • An Toàn Vệ Sinh Thực Phẩm: Sử dụng công nghệ rửa tinh bằng nước Ozone và quy trình chế biến khép kín, sản phẩm hoàn toàn an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng.
  • Tiện Lợi: Sản phẩm đã được chế biến sẵn, dễ dàng sử dụng trong các món ăn hàng ngày mà không cần thêm bất kỳ công đoạn sơ chế nào khác.

Sự Cam Kết Từ Hikari Đà Lạt

Hikari Đà Lạt cam kết mang đến cho khách hàng sản phẩm củ cải trắng chất lượng cao, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Công nghệ Octofrost tiên tiến cùng quy trình sản xuất được kiểm soát nghiêm ngặt là lời hứa của chúng tôi về chất lượng và sự hài lòng của khách hàng.

Hãy trải nghiệm sản phẩm củ cải trắng chế biến của Hikari Đà Lạt – một lựa chọn hoàn hảo cho những bữa ăn ngon, an toàn và bổ dưỡng.

Theo mastershop.vn 

Công nghệ chiết xuất siêu tới hạn CO2 giúp chiết xuất các tinh dược có độ tinh chất cao nhất

Áp dụng công nghệ chiết xuất siêu tới hạn CO2, công ty cổ phần Hikari Đà Lạt đã chiết xuất thành công chất cordycept in trong đông trùng hạ thảo.

 
Công nghệ chiết xuất siêu tới hạn CO2 giúp chiết xuất các tinh dược có độ tinh chất cao nhất- Ảnh 1.

Thạc sĩ Võ Văn Thịnh, Phó giám đốc thường trực Công ty cổ phần Hikari Đà Lạt, trong nhà máy nghiên cứu.

Đông trùng hạ thảo được biết đến với các đặc tính dược lý cao và tác dụng tích cực đối với sức khỏe con người. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng đông trùng hạ thảo có khả năng cải thiện hệ miễn dịch, hỗ trợ tim mạch, chống viêm, giảm cholesterol xấu trong máu và thậm chí có tiềm năng trong việc hỗ trợ điều trị ung thư.

Đông trùng hạ thảo có chứa đến 17 loại acid amin và hơn 50 hoạt chất sinh học, làm cho nó trở thành một nguồn nguyên liệu quan trọng trong việc phát triển các phương pháp điều trị bệnh tật.

Theo thạc sĩ Võ Văn Thịnh, Phó giám đốc Thường trực Công ty cổ phần Hikari Đà Lạt: “Trong quá khứ, việc chiết xuất đông trùng hạ thảo để sản xuất thuốc thường sử dụng các phương pháp truyền thống như: ngâm chiết, chưng cất thuỷ lực, và chiết xuất lỏng có áp suất. Mặc dù những phương pháp này có chi phí đầu tư thấp, nhưng gặp nhiều hạn chế như: Yêu cầu năng lượng vận hành cao; Sử dụng dung môi hữu cơ đắt tiền và tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường; Mất đi một số hoạt chất quý giá ở nhiệt độ cao; Thời gian chiết xuất kéo dài, làm ảnh hưởng đến chất lượng dịch chiết do quá trình oxy hóa…”.

Công nghệ chiết xuất siêu tới hạn CO2 là một phương pháp sử dụng khí CO2 làm dung môi để chiết các hoạt chất từ dược liệu tại điểm siêu tới hạn. Dưới đây là một số thông tin về công nghệ này:

Điều kiện siêu tới hạn xảy ra ở nhiệt độ gần môi trường xung quanh (khoảng 31°C) và áp suất cao (từ 200 bar trở lên). CO2 ở điều kiện này có khả năng hòa tan các chất hữu cơ.

Hiện tại, thiết bị công nghệ chiết xuất siêu tới hạn của công ty Cổ Phần Hikari Đà lạt đã đạt áp suất trên 400 bar.

Quá trình chiết xuất không để lại dư lượng dung môi, giúp sản phẩm có chất lượng cao. CO2 không độc hại, không cháy, không mùi, không vị, trơ và rẻ tiền, an toàn và thân thiện với môi trường.

Thích hợp cho ngành thực phẩm, hương liệu, tinh dầu và dinh dưỡng, nguyên liệu đầu vào cho ngành dược.

Thạc sĩ Võ Văn Thịnh chia sẻ thêm: “Khí CO2 được nạp vào bình chứa sau đo hệ thống tự động mở dòng CO2 lỏng đi qua bộ phận làm lạnh rồi qua bơm nén với áp suất cao (200 bar – 400 bar) tuỳ vào sản phẩm và tuỳ vào hoạt chất cần chiết xuất sẽ có công thức riêng. Khi đạt nhiệt độ và áp suất, CO2 trở thành dòng siêu tới hạn và được đưa vào bình chiết”.

Công nghệ chiết xuất siêu tới hạn CO2 giúp chiết xuất các tinh dược có độ tinh chất cao nhất- Ảnh 3.

Riêng với đông trùng hạ thảo với áp suất cao (trên 400 bar) và nhiệt độ thấp (45 – 60oC) hoàn toàn hầu hết giữ được các hoạt chất. Ngoài ra, dung môi CO2 sử dụng cho việc chiết xuất luôn thân thiện với môi trường, hầu như tái chế, tận dụng tuần hoàn không cần phải xử lý chất thải.

Khả năng khuếch tán của dung môi CO2 vào nguyên liệu tốt nhất dẫn đến việc lấy ra nhiều hoạt chất hơn; độ nhớt thấp, dễ thu hồi; độ tinh dịch chiết cao đặt biệt thu được tinh dầu dễ bay hơi và các vi lượng trong nấm.

Công nghệ chiết xuất siêu tới hạn CO2 giúp chiết xuất các tinh dược có độ tinh chất cao nhất- Ảnh 4.
Công nghệ chiết xuất siêu tới hạn CO2 giúp chiết xuất các tinh dược có độ tinh chất cao nhất- Ảnh 5.

Các chuyên gia của Công ty Cổ Phần Hikari Đà lạt đang lấy dịch Cordycept in trong hệ thống chiết xuất siêu tới hạn CO2.

Qua kết quả phân tích bởi trung tâm Tentamus hiệu suất dịch cordycep in rất cao trong nấm đông trùng hạ thảo đã được chiết xuất một cách triệt để. Đây là một tín hiệu tốt cho nguyên liệu ngành dược liệu trong tương lai.

Từ sự chắt lọc, nghiên cứu, nhóm khoa học gồm các chuyên gia thuộc công ty cổ phần Hikari Đà Lạt đã áp dụng công nghệ chiết xuất siêu tới hạn CO2 là một lựa chọn cho ngành dươc phẩm như một phương pháp tối ưu nhất hiện nay giữ lại hương liệu và tinh chất của sản phẩm.

P.Nguyễn
 
Theo phunu.nld.com.vn 
 

Hikari Đà Lạt – Nhà máy hàng đầu trong lĩnh vực chế biến nông sản tại Việt Nam và xuất khẩu Châu Âu

Với những công nghệ máy móc hiện đại bậc nhất, được đầu tư theo chủ trương của lãnh đạo đến từ Nhật Bản. Nhà máy chế biến các sản phẩm từ rau, củ, quả: tinh dầu, nước ép, rau củ quả tươi cấp đông…. Đặc biệt là hệ thống chiết suất đạt ngưỡng tới hạn mà trên thế giới hiện nay chỉ có 07-09 nước trang bị được hệ thống này, để làm ra các sản phẩm như tinh dầu tiêu, tinh dầu gừng, tinh dầu trầm… Hứa hẹn sẽ tạo ra một số sản phẩm chức năng có thể chữa hiệu quả một số bệnh về dạ dạy, tiêu hoá… mà hiện tại ở Việt Nam chưa có. Halal Việt Nam hân hạnh được đồng hành cùng Hikari Đà Lạt cho những tiêu chuẩn và chiến lược phù hợp cho thị trường trong thời gian tới! 

Thông tin doanh nghiệp:

Công Ty Cổ Phần HIKARI Đà Lạt.
Địa chỉ: Lô F4-F5a, Khu Công Nghiệp Phú Hội, Phú Hội, Đức Trọng, Lâm Đồng.
Điện thoại: 0263 886 686 – 0868 131 515
Mail: info@hikaridalat.vn
Website: https://hikaridalat.vn/

Theo halalvietnam.vn

Ký kết hợp tác tiêu thụ vải thiều Bắc Giang năm 2025

NDO – Ngày 23/4, tại Hội nghị kết nối, thỏa thuận hợp tác tiêu thụ vải thiều tỉnh Bắc Giang năm 2025 đã diễn ra lễ ký kết biên bản ghi nhớ và hợp đồng giữa các đơn vị sản xuất, cung ứng dịch vụ và phân phối.
 
Ký kết hợp tác tiêu thụ vải thiều Bắc Giang 2025.
Ký kết hợp tác tiêu thụ vải thiều Bắc Giang 2025.

Tại hội nghị, ông La Văn Nam, Phó Giám đốc Sở Công thương tỉnh Bắc Giang nhấn mạnh giá trị kinh tế của vải thiều năm 2025 ước đạt gần 5.000 tỷ đồng. Với diện tích 29.700ha, sản lượng dự kiến đạt 165.000 tấn, chất lượng vải năm nay được đánh giá cao nhất từ trước đến nay nhờ thời tiết thuận lợi, tỷ lệ ra hoa trên 90% và kiểm soát chặt chẽ 240 mã vùng trồng theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP.

Tỉnh Bắc Giang đã ban hành kế hoạch xúc tiến thương mại, hỗ trợ nông dân kỹ thuật canh tác, bảo đảm an toàn thực phẩm và mở rộng thị trường xuất khẩu tới hơn 30 quốc gia như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và Trung Đông. Tỉnh cũng đẩy mạnh tiêu thụ trực tuyến qua các sàn thương mại điện tử (Buudien.vn, Shopee, Lazada) và mạng xã hội (TikTok, Facebook).

Ông Nam kêu gọi các siêu thị, sàn thương mại điện tử và đơn vị logistics hợp tác chặt chẽ, tối ưu hóa vận chuyển để bảo đảm vải thiều tươi ngon đến tay người tiêu dùng, đồng thời cam kết cung cấp dịch vụ hậu cần tốt nhất, từ nguồn vốn, kho bãi đến an ninh, trật tự.

Ký kết hợp tác tiêu thụ vải thiều Bắc Giang năm 2025 ảnh 1

Chăm sóc vải thiều tại Bắc Giang.

 

Cũng tại hội nghị, các đơn vị như Hợp tác xã Hồng Xuân, Viettel Post, Công ty vận tải đường sắt RATRACO, sàn thương mại điện tử Nongsan.buudien.vn và Tập đoàn MM Mega Market thảo luận để làm rõ các khâu sản xuất, logistics, phân phối vải thiều năm 2025. Hợp tác xã Hồng Xuân chia sẻ thành tựu đạt chứng nhận GlobalGAP và khó khăn về hạ tầng, hạn hán. MM Mega Market cam kết tiêu thụ 2.000 tấn vải, trong đó 60 tấn xuất khẩu, qua chương trình khuyến mãi tháng 5-6.

Tại đây, các đơn vị đã ký kết nhiều thỏa thuận hợp tác tiêu thụ vải thiểu như; các Hợp tác xã (Thanh Hải, Phì Điền, Lục Ngạn Xanh, Hồng Xuân) ký kết với Viettel Post, Central Retail, MM Mega Market, sàn thương mại điện tử Nongsan.buudien.vn và RATRACO, bảo đảm cung ứng vải thiều cho siêu thị, chợ đầu mối, sàn thương mại điện tử, và thị trường xuất khẩu.

Khẳng định cam kết hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp về logistics, an ninh và xúc tiến thương mại, ông Dương Ngọc Chiên, Giám đốc Sở Công thương tỉnh Bắc Giang kêu gọi các đối tác tiếp tục đồng hành, mở rộng kênh phân phối để đưa vải thiều Bắc Giang đến gần hơn với người tiêu dùng toàn cầu, củng cố thương hiệu vải thiều Bắc Giang, hứa hẹn vụ mùa 2025 thành công rực rỡ.

Theo nhandan.vn

Bắc Giang sẵn sàng cho vụ vải thiều 2025

(Chinhphu.vn) – Bắc Giang, thủ phủ vải thiều của cả nước, đang bước vào vụ mùa 2025 với nhiều kỳ vọng lớn dù đối mặt với không ít thách thức từ thời tiết và nguồn nước tưới. Với sự chuẩn bị bài bản từ sản xuất đến tiêu thụ, tỉnh đang nỗ lực để đảm bảo một vụ mùa thành công, vừa nâng cao giá trị kinh tế, vừa khẳng định thương hiệu vải thiều trên thị trường trong và ngoài nước.

 
Vải thiều tại Bắc Giang hiện nay (25/4/2025) đang bắt đầu trổ quả, kích cỡ tương đương đầu đũa. Ảnh: Trịnh Duy Dũng

Sản lượng và chất lượng cao

Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Bắc Giang, năm 2025, diện tích vải thiều toàn tỉnh được duy trì ổn định ở mức 29.700 ha, bao gồm 8.000 ha vải sớm và 21.700 ha vải chính vụ. Sản lượng dự kiến đạt 165.000 tấn, trong đó vải sớm ước tính 60.650 tấn và vải chính vụ 104.350 tấn. Giá trị sản xuất vải thiều được kỳ vọng đạt khoảng 5.000 tỷ đồng. Thời gian thu hoạch vải sớm sẽ diễn ra từ ngày 20/5 đến 15/6, trong khi vải chính vụ bắt đầu từ 10/6 và kéo dài đến 20/7/2025.

Dù thời tiết năm nay không thuận lợi với tình trạng nắng nóng và khô hạn kéo dài, tỷ lệ ra hoa của cây vải thiều vẫn đạt trên 90%, tỷ lệ đậu quả đạt hơn 80%. Tại Hội nghị kết nối, thỏa thuận hợp tác tiêu thụ vải thiều năm 2025 diễn ra ngày 23/4, ông Lê Bá Thành, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Bắc Giang khẳng định: “Chất lượng vải thiều Bắc Giang năm nay cao hơn năm trước và có thể nói là tốt nhất từ trước đến nay.” Hiện tại, tỉnh có 16.000 ha vải thiều đạt tiêu chuẩn VietGAP, 204 ha đạt GlobalGAP và 10 ha sản xuất theo hướng hữu cơ, đảm bảo đáp ứng các yêu cầu khắt khe của thị trường.

Để đạt được kết quả này, ngay từ đầu vụ, Bắc Giang đã triển khai nhiều biện pháp quyết liệt. Các mã số vùng trồng được kiểm soát chặt chẽ với 240 mã số và 39 cơ sở sơ chế, đóng gói xuất khẩu. Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật được giám sát nghiêm ngặt, đảm bảo không sử dụng chất cấm hay chất gây hại. Ngành nông nghiệp cũng tăng cường theo dõi sâu bệnh, áp dụng các biện pháp phòng trừ kịp thời với phương châm lấy chất lượng và an toàn làm yếu tố cốt lõi.

Mặc dù triển vọng sản lượng và chất lượng khả quan, một lo ngại lớn hiện nay là tình trạng thiếu nước tưới. Nhiều tháng qua, Bắc Giang gần như không có mưa, dẫn đến một số cây vải ở vùng cao bị chết do hạn. Để khắc phục, ngành nông nghiệp đang tập trung hướng dẫn nông dân các biện pháp chăm sóc, kiểm soát chặt chẽ vật tư đầu vào, đồng thời dự báo kịp thời tình hình sâu bệnh để có biện pháp ứng phó hiệu quả. Những nỗ lực này không chỉ giúp giảm thiểu thiệt hại mà còn đảm bảo chất lượng quả vải trong bối cảnh thời tiết bất lợi.

Phát triển kênh tiêu thụ đa dạng

Bắc Giang đang áp dụng chiến lược tiêu thụ đa dạng, kết hợp giữa thị trường trong nước và xuất khẩu, đồng thời đổi mới phương thức bán hàng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Ông La Văn Nam, Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Bắc Giang, cho biết tỉnh xác định coi trọng tất cả các thị trường, từ nội địa đến quốc tế.

Về thị trường trong nước, tỉnh Bắc Giang đã chủ động kết nối ngay từ đầu vụ với các hệ thống phân phối lớn như Tập đoàn Central Retail, MM Mega Market Việt Nam, Saigon Co.op (Co.opmart), WinCommerce (WinMart), cùng các chợ đầu mối và chợ truyền thống tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Đồng Nai và nhiều tỉnh, thành phố khác. Các doanh nghiệp, thương nhân trong cả nước cũng được khuyến khích tham gia ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm với các hợp tác xã và nhà vườn.

Thị trường xuất khẩu cũng tiếp tục được mở rộng. Trung Quốc vẫn là thị trường truyền thống với quan hệ hợp tác lâu năm, nhưng tỉnh cũng chú trọng đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường tiềm năng như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Malaysia, UAE, Singapore, Trung Đông, Thái Lan và Canada. Sản phẩm xuất khẩu bao gồm cả vải tươi và vải chế biến, nhằm đa dạng hóa sản phẩm và tăng giá trị gia tăng.

Đặc biệt, Bắc Giang đang đổi mới phương thức tiêu thụ bằng cách kết hợp bán hàng truyền thống với thương mại điện tử. Vải thiều được đưa lên các sàn thương mại điện tử trong và ngoài nước, cũng như quảng bá trên các nền tảng mạng xã hội như TikTok, Facebook, Zalo, Youtube. Các trung tâm thương mại, siêu thị, chợ đầu mối được khuyến khích mở rộng mạng lưới thu mua, ưu tiên phân phối vải thiều, đảm bảo đưa sản phẩm tươi ngon nhất đến tay người tiêu dùng.

Bắc Giang cam kết tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp, thương nhân trong và ngoài nước tham gia thu mua, chế biến và tiêu thụ vải thiều. Tỉnh đã chỉ đạo đơn giản hóa thủ tục hành chính, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện vật tư, dịch vụ phụ trợ phục vụ sản xuất và kinh doanh. Các đơn vị logistics, chuyển phát nhanh cũng được khuyến khích nghiên cứu giải pháp bảo quản, xây dựng chuỗi logistics chuyên biệt với chi phí hợp lý, rút ngắn thời gian vận chuyển để đảm bảo vải thiều luôn tươi ngon khi đến tay người tiêu dùng.

Trong thời gian tới, Bắc Giang sẽ xây dựng hệ thống logistics hiện đại để đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa ngày càng tăng, đồng thời phát triển các chợ nông sản đầu mối. Tỉnh cũng kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào các trung tâm logistics tại địa phương. Ngoài ra, Bắc Giang sẽ tham gia hội chợ trái cây tại Mỹ Tho (Cần Thơ) vào tháng 5/2025 để quảng bá vải thiều cùng các nông sản và nét văn hóa đặc sắc đến người tiêu dùng trong và ngoài nước.

Bắc Giang không chỉ dừng lại ở việc tiêu thụ vải thiều tươi mà còn hướng đến chế biến sâu để gia tăng giá trị. Các sản phẩm chế biến từ vải như trà, đồ uống, bánh, mứt đang được khuyến khích phát triển, giúp kéo dài thời gian tiêu thụ và giảm áp lực mùa vụ. Việc sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP và hữu cơ cũng được mở rộng, nhằm đáp ứng yêu cầu khắt khe của các thị trường quốc tế, đồng thời nâng cao giá trị thương hiệu “Vải thiều Lục Ngạn” – sản phẩm OCOP 5 sao nổi tiếng.

Đỗ Hương

Theo Chinhphu.vn

Thiếu quỹ đất, HTX nông nghiệp Thái Nguyên khó phát triển bền vững

Thiếu quỹ đất khiến nhiều hợp tác xã nông nghiệp ở Thái Nguyên khó triển khai sản xuất tập trung quy mô lớn hoặc ứng dụng khoa học công nghệ, ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển bền vững kinh tế hợp tác.

Thúc đẩy ứng dụng công nghệ cao, Thái Nguyên đặt mục tiêu tăng trưởng 3,5% cho ngành nông nghiệp

Thái Nguyên đặt mục tiêu tăng trưởng 3,5% giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản trong năm 2025. Đây là một nhiệm vụ không hề dễ dàng khi tỉnh đang phải đối mặt với nhiều khó khăn từ kinh tế toàn cầu đến những thách thức nội tại của ngành. Tuy nhiên, với quyết tâm “tăng tốc, bứt phá” và kỳ vọng vào sự tham gia mạnh mẽ của nông nghiệp công nghệ cao, Thái Nguyên đang nỗ lực hiện thực hóa mục tiêu này…
Người nông dân Thái Nguyên thu hoạch trà tại Đồi chè Tân Cương
Người nông dân Thái Nguyên thu hoạch trà tại Đồi chè Tân Cương

Bức tranh kinh tế đầu năm 2025 của Thái Nguyên cho thấy nhiều gam màu xám đối với ngành nông nghiệp tại địa phương này. Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị quý 1/2025 của tỉnh ghi nhận sự tăng trưởng chung của các lĩnh vực kinh tế – xã hội, nhưng riêng ngành nông nghiệp lại có mức tăng trưởng thấp hơn bình quân và đáng lo ngại hơn là thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2024.

KHÓ KHĂN “BỦA VÂY” VÀ KỲ VỌNG NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO

Những khó khăn này không chỉ đến từ yếu tố nội tại mà còn chịu tác động mạnh mẽ từ tình hình kinh tế thế giới và trong nước. Sự phục hồi chậm của kinh tế toàn cầu, tình trạng lạm phát, giá cả nguyên vật liệu đầu vào ở mức cao đang gây áp lực lên chi phí sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế sâu rộng và sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường tiêu thụ nông sản, đặc biệt là với các tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng từ các nước nhập khẩu, đang đặt ra những rào cản không nhỏ cho hoạt động xuất khẩu, nhất là mặt hàng chè vốn là thế mạnh của Thái Nguyên.

Trong nước, nguy cơ bùng phát các dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trên đàn gia súc, gia cầm như cúm gia cầm, dịch tả lợn châu Phi vẫn luôn tiềm ẩn. Mặt khác, kinh tế hộ gia đình vẫn chiếm tỷ trọng lớn tại Thái Nguyên, việc ứng dụng sản xuất an toàn nhờ công nghệ cao còn hạn chế, cùng với đó là sự chậm phát triển của công nghiệp chế biến nông sản và công nghiệp phụ trợ.

Mặc dù đối diện với không ít thách thức, lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên vẫn thể hiện quyết tâm cao độ trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội năm 2025. Tại Kỳ họp thứ XXIII, Hội đồng nhân dân tỉnh mới đây, Bí thư Tỉnh uỷ Trịnh Việt Hùng nhấn mạnh năm 2025 là năm “tăng tốc, bứt phá” để tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Mục tiêu tăng 3,5% giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản được đánh giá là khả thi, dù những tháng đầu năm có những khó khăn nhất định.

Theo đó, để đạt được mục tiêu này, Thái Nguyên xác định cơ cấu lại ngành nông nghiệp, đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, an toàn và hữu cơ là giải pháp then chốt. Tỉnh có nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp công nghệ cao, trước hết là sự quan tâm đầu tư của chính quyền địa phương. Chiến lược phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Thái Nguyên tập trung vào việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng của nông sản, đặc biệt là phát triển và nâng cao giá trị cây chè Thái Nguyên.

Nông dân Thái Nguyên đã và đang ứng dụng các công nghệ tiên tiến như nhà màng, nhà lưới để kiểm soát môi trường sản xuất, hệ thống tưới phun, tưới nhỏ giọt tự động, canh tác trên giá thể và sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP và hướng hữu cơ.
Nông dân Thái Nguyên đã và đang ứng dụng các công nghệ tiên tiến như nhà màng, nhà lưới để kiểm soát môi trường sản xuất, hệ thống tưới phun, tưới nhỏ giọt tự động, canh tác trên giá thể và sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP và hướng hữu cơ.

Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên Nguyễn Huy Dũng khẳng định việc ứng dụng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo là lựa chọn duy nhất và tất yếu để các hợp tác xã nông nghiệp duy trì lợi thế cạnh tranh và vươn lên trong kỷ nguyên mới.

ỨNG DỤNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Thái Nguyên đang tích cực thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng tập trung, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, sản xuất an toàn, hữu cơ, phù hợp với nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao thành công đã được triển khai, đặc biệt trong lĩnh vực trồng chè, rau, hoa và cây ăn quả.

Việc ứng dụng công nghệ trong sản xuất chè, từ khâu trồng trọt theo hướng hữu cơ đến bảo quản, chế biến và quảng bá sản phẩm, đang được đẩy mạnh. Tỉnh cũng tập trung phát triển các sản phẩm nông nghiệp chủ lực và sản phẩm OCOP gắn với ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số, đồng thời tăng cường liên kết giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ, xây dựng thương hiệu và nâng cao giá trị nông sản trong chuỗi giá trị.

Tỉnh khuyến khích kinh tế hộ, kinh tế hợp tác xã, thu hút doanh nghiệp đầu tư, cải tiến quản lý nhà nước để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp, đồng thời tăng cường quảng bá, xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm.

Với Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, Thái Nguyên sẽ có thêm động lực để phát triển nông nghiệp công nghệ cao trong năm 2025 và tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp trong những năm tiếp theo.

Tú Anh

Theo vneconomy.vn

Canh tác lúa giảm phát thải lợi nhuận tăng cao hơn 55 triệu đồng/ha

 

Mô hình canh tác lúa giảm phát thải tại Kiên Giang gắn với tăng trưởng xanh, mỗi ha giảm trên 13 tấn CO2, năng suất lúa hơn 10 tấn và cho lợi nhuận cao trên 55 triệu đồng.

Phát thải giảm sâu – lợi nhuận tăng vọt

Đó là những con số ấn tượng được báo cáo tại Diễn đàn Khuyến nông & Nông nghiệp với chủ đề “Giải pháp thúc đầy canh tác lúa phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh tại vùng ĐBSCL”. Diễn đàn do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Kiên Giang tổ chức sáng 28/3, tại xã Nam Thái Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Lê Quốc Thanh (thứ 2 từ trái qua) cùng các đại biểu tham quan, đánh giá ruộng canh tác lúa giảm phát thải thuộc dự án Khuyến nông Trung ương triển khai tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất. Ảnh: Trung Chánh.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Lê Quốc Thanh (thứ 2 từ trái qua) cùng các đại biểu tham quan, đánh giá ruộng canh tác lúa giảm phát thải thuộc dự án Khuyến nông Trung ương triển khai tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất. Ảnh: Trung Chánh.

Tham dự diễn đàn có lãnh đạo Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Trung tâm Khuyến nông một số tỉnh thành vùng ĐBSCL và 120 đại biểu là nông dân, thành viên Hợp tác xã tham gia Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”. Ngoài ra, còn có các đơn vị đối tác cung cấp vật tư, thiết bị cơ giới và giải pháp canh tác lúa giảm phát thải gắn với tăng trưởng xanh.

Diễn đàn nhằm sơ kết dự án Khuyến nông Trung ương: “Xây dựng mô hình canh tác lúa giảm phát thải phục vụ phát triển bền vững vùng nguyên liệu lúa gạo xuất khẩu vùng ĐBSCL” trên diện tích 50ha của Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất (xã Nam Thái Sơn, Hòn Đất).

Qua quá trình triển khai, mô hình thí điểm đã mang lại những chuyển biến tích cực, nhiều hộ nông dân đã chủ động áp dụng các tiến bộ kỹ thuật như giảm lượng giống gieo sạ, áp dụng tưới ướt khô xen kẽ (AWD), sử dụng phân bón cân đối, cơ giới hóa sản xuất và quản lý rơm rạ theo hướng tuần hoàn. Những thay đổi này không chỉ giúp giảm chi phí đầu vào, tăng lợi nhuận, mà còn góp phần giảm đáng kể phát thải khí nhà kính, nâng cao chất lượng sản phẩm và hướng đến sản xuất lúa gạo bền vững.

Các đại biểu xem trình diễn máy gặt tuốt có chức năng băm rơm hoặc rải rơm theo luống, giúp xử lý rơm rạ hiệu quả theo hướng tuần hoàn. Ảnh: Trung Chánh.

Các đại biểu xem trình diễn máy gặt tuốt có chức năng băm rơm hoặc rải rơm theo luống, giúp xử lý rơm rạ hiệu quả theo hướng tuần hoàn. Ảnh: Trung Chánh.

Ông Nguyễn Văn Bắc – Phó Trưởng Văn phòng thường trực tại Nam Bộ, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đánh giá, thực tế mô hình thí điểm trong vụ đông xuân 2024-2025 tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất đã mang lại hiệu quả rõ rệt: Với giống lúa ĐS1 năng suất trung bình đạt 10,3 tấn/ha (lúa tươi), tổng thu nhập đạt 82,2 triệu đồng/ha, mang lại lợi nhuận cho nhà nông lên đến 55,5 triệu đồng/ha, cao hơn ruộng đối chứng 6,7 triệu đồng/ha. Khí phát thải nhà kính giảm trung bình 13.05 tấn CO2 tương đương/ha so với mô hình canh tác truyền thống.

Ông Nguyễn Văn Nghĩa, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Kiên Giang cho biết, tham gia Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”, tỉnh đặt mục tiêu đến năm 2025 đạt diện tích 100.000ha và năm 2030 đạt 200.000ha. Để thực hiện, Kiên Giang đã tăng cường đào tạo tập huấn cho cán bộ kỹ thuật, hợp tác xã, nông dân tham gia đề án. Cùng với đó là phối hợp với các đơn vị khởi động các mô hình điểm ở các huyện sản xuất lúa trọng điểm của tỉnh, trong đó có mô hình trình diễn thuộc dự án Khuyến nông Trung ương tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất.

Thu gom, di chuyển rơm khỏi ruộng sau khi thu hoạch để sử dụng theo hướng tuần hoàn, vừa giúp tăng thu nhập, vừa giảm phát thải do đốt rơm gây ra. Ảnh: Trung Chánh.

Thu gom, di chuyển rơm khỏi ruộng sau khi thu hoạch để sử dụng theo hướng tuần hoàn, vừa giúp tăng thu nhập, vừa giảm phát thải do đốt rơm gây ra. Ảnh: Trung Chánh.

Theo ông Nghĩa, mô hình triển khai thức tế đã mang lại hiệu quả rất thiết thực cho người dân, giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất, chất lượng, gia tăng hiệu quả kinh tế, giảm phát thải giúp ngành lúa gạo tăng trưởng xanh, phát triển bền vững. Tuy nhiên, ông Nghĩa cũng nêu thực tế nông dân còn gặp khó khăn trong việc thu gom, đưa rơm rạ ra khỏi đồng ruộng để xử lý theo hướng nông nghiệp tuần hoàn đối với diện tích lớn. Vì vậy, có thể thay thế bằng giải pháp băm rơm rạ, cày vùi kết hợp với sử dụng chế phẩm vi sinh để phân hủy nhanh thành phân bón hữu cơ tại ruộng.

Huy động tốt nguồn lực tham gia

Ông Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, nhằm giải quyết đồng thời bài toán phát triển bền vững, nâng cao giá trị sản xuất lúa gạo và giảm phát thải khí nhà kính, Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”. Đề án được triển khai nhằm tổ chức lại hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị, áp dụng các quy trình canh tác bền vững, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thu nhập và đời sống của người dân trồng lúa, bảo vệ môi trường, góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế.

Các đại biểu tham quan, đánh giá giải pháp băm rơm kết hợp với xử lý vi sinh để phân hủy nhanh thành phân hữu cơ tại ruộng, giúp giảm phát thải trong canh tác lúa. Ảnh: Trung Chánh.

Các đại biểu tham quan, đánh giá giải pháp băm rơm kết hợp với xử lý vi sinh để phân hủy nhanh thành phân hữu cơ tại ruộng, giúp giảm phát thải trong canh tác lúa. Ảnh: Trung Chánh.

Theo ông Lê Quốc Thanh, để đạt được mục tiêu của Đề án, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân. Cùng với đó là các chính sách hỗ trợ kịp thời nhằm thúc đẩy sản xuất lúa theo hướng phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh. Và thực tế cho thấy, khi xây dựng các mô hình thí điểm tại các địa phương, đã huy động tốt các nguồn lực tham gia, với sự đồng hành của các chuyên gia, nhà khoa học, các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị lúa gạo và tổ chức nông dân.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đề nghị các địa phương duy trì, nhân rộng diện tích tham gia Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”, tránh trường hợp khi mô hình, dự án kết thúc, khuyến nông rút đi thì dự án cũng chết theo. Cần xây dựng Tổ Khuyến nông cộng đồng, cùng với khuyến nông doanh nghiệp để hỗ trợ hợp tác xã tham gia Đề án, mở rộng diện tích ở các địa phương.

Cũng tại diễn đàn, các đại biểu đã dành thời gian tham quan đánh giá ruộng mô hình và xem các doanh nghiệp đối tác trình diễn thiết bị cơ giới và giải pháp canh tác lúa giảm phát thải gắn với tăng trưởng xanh, gồm máy gặt tuốt có chức năng băm rơm hoặc rải rơm theo luống, máy cuộn rơm đưa khỏi đồng ruộng, máy xới vùi rơm rạ kết hợp phun chế phẩm vi sinh phân hủy nhanh rơm rạ thành phân bón hữu cơ ngay tại ruộng.

Cánh đồng canh tác lúa giảm phát thải với giống lúa ĐS1 tại Hợp tác xã nông nghiệp Vinacam Hòn Đất cho năng suất hơn 10 tấn/ha, nông dân đạt lợi nhuận cao trên 55 triệu đồng/ha. Ảnh: Trung Chánh.

Cánh đồng canh tác lúa giảm phát thải với giống lúa ĐS1 tại Hợp tác xã nông nghiệp Vinacam Hòn Đất cho năng suất hơn 10 tấn/ha, nông dân đạt lợi nhuận cao trên 55 triệu đồng/ha. Ảnh: Trung Chánh.

Trong đó, Công ty TNHH TMDV Sài Gòn Kim Hồng trình diễn máy gặt tuốt có chức năng băm rơm hoặc rải rơm theo luống. Công ty TNHH MTV Cơ khí Nông nhiệp Phan Tấn trình diễn máy cuộn rơm đưa khỏi đồng ruộng, máy xới vùi rơm rạ kết hợp phun chế phẩm vi sinh xử lý thành phân bón hữu cơ ngay tại ruộng. Công ty CP Phân bón Bình Điền trình diễn sản phẩm Đầu trâu Bio-Canxi thúc đầy phân hủy nhanh rơm rạ và giả ngộ độc hữu cơ.

Ngoài ra, ruộng mô hình còn có sự tham gia của các doanh nghiệp đối tác, gồm Công ty TNHH Lúa gạo Việt nam (Vinarice) cung cấp và hỗ trợ lúa giống chất lượng cao phục vụ mô hình trình diễn. Công ty Bayer Việt Nam hướng dẫn quy trình quản lý dịch hại IPM, IPHM. Công ty CP Tập đoàn Tân Long thực hiện liên kết tiêu thu lúa có kiểm soát dư lượng.

Theo nongnghiep.vn

 

Copyrights © 2019 VITAD-AGRI All Rights Reserved.

X