Có nhiều chính sách hỗ trợ nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp
Cử tri tỉnh Hưng Yên kiến nghị có chính sách gắn kết giữa nông dân với doanh nghiệp xuất khẩu nhằm tạo sự đồng bộ trong liên kết sản xuất với tiêu thụ.
Khuyến nông dẫn dắt phát triển bền vững cây trồng chủ lực vùng Tây Nguyên
Nhiều hộ thoát nghèo nhờ 2 con bò giống của dự án liên kết
Tập huấn tổ chức liên kết sản xuất, phát triển chuỗi giá trị nông sản
Hình thành hàng nghìn mô hình liên kết gắn với vùng nguyên liệu nông sản đạt chuẩn
Trả lời kiến nghị, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, hiện nay, nhiều chính sách đã được ban hành nhằm trực tiếp hỗ trợ liên kết giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu như: Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 5/7/2018 về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; Đề án “Thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu giai đoạn 2022-2025” theo Quyết định số 1088/QĐ-BNN-KTHT ngày 25/3/2022; Đề án “Phát triển bền vững một triệu héc ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” theo Quyết định số 1490/QĐ-TTg.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, hiện nay, nhiều chính sách đã được ban hành nhằm trực tiếp hỗ trợ liên kết giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đã tập trung chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương xây dựng vùng nguyên liệu gắn mã số vùng trồng, đáp ứng tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc để phục vụ xuất khẩu; thường xuyên tổ chức các diễn đàn, hội nghị kết nối cung – cầu nông sản, hội chợ xúc tiến thương mại trong và ngoài nước, tạo cầu nối trực tiếp giữa nông dân, hợp tác xã với doanh nghiệp xuất khẩu.
Đồng thời, phối hợp các Bộ, ngành tháo gỡ rào cản kỹ thuật, mở cửa thị trường cho nông sản Việt Nam; thường xuyên cập nhật thông tin về nhu cầu, thị hiếu và phổ biến quy định về thị trường trong và ngoài nước; tổ chức các hội thảo tập huấn kỹ năng khai thác, tìm kiếm, dự báo thông tin thị trường, kết nối giữa sản xuất, tiêu thụ.
Đến nay, hàng nghìn mô hình liên kết đã được hình thành gắn với phát triển và mở rộng các vùng nguyên liệu nông sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Tính đến hết tháng 6 năm 2025, các địa phương đã phê duyệt được 2.938 dự án, kế hoạch liên kết cho 119 sản phẩm nông nghiệp chủ lực, trong đó có 13 loại sản phẩm thuộc chủ lực quốc gia và 106 sản phẩm đặc trưng, lợi thế của địa phương; có 2.412 hợp tác xã, 538 tổ hợp tác, 1.305 doanh nghiệp và 211.545 hộ nông dân tham gia các chuỗi liên kết.
Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng nông sản, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, nhiều sản phẩm đã vào được thị trường cao cấp như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ.
Tuy vậy, một số liên kết còn chưa bền vững, quy mô liên kết còn nhỏ lẻ, manh mún, chưa tạo được ảnh hưởng thực sự đến thị trường tiêu thụ. Nông dân còn thiếu thông tin về thị trường và các quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn hàng hóa ở các thị trường quốc tế khác nhau. Vai trò trung tâm trong chuỗi liên kết của các hợp tác xã nông nghiệp chưa phát huy hiệu quả, do năng lực tổ chức sản xuất, kinh doanh còn hạn chế, thiếu vốn, thiếu hạ tầng và công nghệ phục vụ bảo quản, chế biến và logistics.
Đề xuất tăng hỗ trợ đầu tư vùng nguyên liệu nông sản đạt chuẩn
Thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ tiếp tục tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm phát triển hợp tác, liên kết bền vững giữa nông dân, hợp tác xã và các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu, trong đó có việc tổng kết, kiến nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 98/2018/NĐ-CP theo hướng tăng hỗ trợ đầu tư vùng nguyên liệu nông sản đạt chuẩn; có cơ chế tín dụng hỗ trợ theo chuỗi giá trị; thúc đẩy truy xuất, mã số vùng trồng; hỗ trợ bảo hiểm và chia sẻ rủi ro trong hợp đồng liên kết.

Việc liên kết sản xuất giữa nông dân, HTX, doanh nghiệp giúp nâng cao giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích. Ảnh: Quốc Toản.
Đồng thời đẩy mạnh đào tạo, thông tin thị trường và chuyển giao khoa học kỹ thuật cho người sản xuất; tiếp tục hỗ trợ phát triển hợp tác xã, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào bảo quản chế biến nông sản và logistics, thúc đẩy chuyển đổi số và áp dụng truy xuất nguồn gốc, qua đó tạo sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ và bền vững giữa nông dân với doanh nghiệp xuất khẩu.
Trường An
Theo nongnghiepmoitruong.vn/
DIỄN ĐÀN CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG NÔNG NGHIỆP: NẮM BẮT CƠ HỘI, THÍCH ỨNG TƯƠNG LAI
7h30 sáng nay (29/10), Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tổ chức “Chuyển đổi số trong nông nghiệp – nắm bắt cơ hội, thích ứng tương lai”, thảo luận và nhận góp ý về công tác này từ các chuyên gia, các nhà khoa học và các doanh nghiệp trong cả nước.
Bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam chủ trì Diễn đàn. Bàn chủ tịch còn có ông Trần Duy Ninh, Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia – Bộ Khoa học và Công nghệ cùng ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng, Cục Kinh tế hợp tác và PTNT, Bộ Nông nghiệp và Môi trường.
Cùng tham dự có các đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường như Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Cục Biến đổi khí hậu, Vụ Khoa học và Công nghệ, các Viện nghiên cứu nông nghiệp, Hiệp hội chuyển đổi xanh VGA, các nhà khoa học, Tạp chí kinh doanh, các nhà báo, đại diện các Hợp tác xã các tỉnh, thành trên cả nước. TS Phạm Đình Nam, Viện trưởng Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam cùng một số chuyên gia của Viện cũng tham gia diễn đàn này.
Phát biểu khai mạc, Bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam nhiệt liệt chào mừng quý vị đại biểu đã đến tham dự Diễn đàn. Bà cho biết: Một cuộc khảo sát gần đây của Liên minh HTX Việt Nam cho thấy mức độ chuyển đổi số của HTX cả nước mới chỉ đạt 32%. Trong số gần 35.000 HTX thì chỉ có 13,6% HTX đã hoàn tất chuyển đổi số, 50% đang triển khai và 36,4% chưa thực hiện. Như vậy, một rào cản vô hình là vẫn còn nhiều HTX và các nông hộ hiểu chưa đúng bản chất của chuyển đổi số. Và một hiểu lầm phổ biến là đồng nhất chuyển đổi số với việc chạy theo những công nghệ “hào nhoáng” như Trí tuệ nhân tạo (AI), Công nghệ chuỗi khối (blockchain), dữ liệu lớn (Big Data) hay Internet vạn vật kết nối (IoT). Bởi thế HTX và người nông dân cần nâng cao năng lực số trong các hoạt động cốt lõi như: Sản xuất, quản lý, nâng cao khả năng truy xuất nguồn gốc và minh bạch thông tin, giám sát chất lượng nông sản, giảm phát thải và ô nhiễm môi trường, cũng nhưtrong hoạt động marketing, kết nối cung cầu, quản trị nhân sự…

Bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam phát biểu khai mạc Diễn đàn
Kế tiếp là phần trình bày về chương trình “Chuyển đổi số trong lĩnh vực kinh tế hợp tác và hợp tác xã nông nghiệp”. Ông Trần Duy Ninh, Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia – Bộ Khoa học và Công nghệ đã tổng hợp vắn tắt về Thực trạng chuyển đổi số trong kinh tế hợp tác nông nghiệp và Chủ trương, chính sách và định hướng đến năm 2030, Giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số trong kinh tế hợp tác nông nghiệp. Theo ông, việc Luật hóa công tác chuyển đổi số sẽ giúp cho các doanh nghiệp nói chung, các HTX nông nghiệp nói riêng nắm bắt được các nội dung cần thực hiện, đảm bảo tính pháp lý. Việc ban hành Luật Chuyển đổi số song song với ban hành các nghị định, thông tư, hướng dẫn… sẽ tạo nên một khung chuyển đổi số quốc gia chuẩn mực, phân rõ nền tảng nào dùng chung, nền tàng nào dùng riêng, các dữ liệu trước đây phân tán sẽ được Bộ Công an tập hợp, chia sẻ cho các doanh nghiệp và các HTX cách hợp lý. Ba nội dung cơ bản mà các HTX cần xây dựng là: Hạ tầng, nền tảng và nguồn lực. Nhà nước sẽ hỗ trợ.

Ông Trần Duy Ninh, Cục trưởng Cục Chuyển đổi số – Bộ Nông nghiệp và Môi trường phát biểu tại Diễn đàn
Tiếp nối chương trình, ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng, Cục Kinh tế hợp tác và PTNT, Bộ Nông nghiệp và Môi trường trình bày về “Liên kết chuỗi giá trị và xây dựng hệ sinh thái số trong nông nghiệp”. Theo đó làm rõ vai trò, thực trạng, thách thức, giải pháp trong liên kết chuỗi nông sản; đề xuất mô hình hệ sinh thái số hỗ trợ phát triển chuỗi giá trị hiệu quả, bền vững; gợi mở hành động chính sách, đầu tư, đào tạo và hợp tác để thúc đẩy chuyển đổi số.

Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng, Cục Kinh tế hợp tác và PTNT, Bộ Nông nghiệp và Môi trường trình bày về “Liên kết chuỗi giá trị và xây dựng hệ sinh thái số trong nông nghiệp” tại Diễn đàn
Sau phần trình bày của ông Lê Đức Thịnh là bài phát biểu của PGS.TS Mai Quang Vinh, Chủ tịch Liên hiệp HTX Kinh tế số VN, Viện trưởng Viện Công nghệ Xanh về Chuyển đổi kép “Xanh – Số” trong nông nghiệp: Nắm bắt cơ hội, thích ứng tương lai của nông sản Việt. Theo ông chuyển đổi xanh là hết sức cấp bách trong thời đại ngày nay và việc kết hợp với chuyển đổi số sẽ đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh, giúp cải tạo và bảo vệ môi trường, tăng thu nhập từ việc bán tín chỉ các-bon… đổi lại chuyển đổi xanh cũng giúp công tác chuyển đổi số trở nên thuận lợi, thu thập được nhiều dữ liệu hữu ích.

PGS.TS Mai Quang Vinh, Chủ tịch Liên hiệp HTX Kinh tế số VN, Viện trưởng Viện Công nghệ Xanh trình bày về “Chuyển đổi kép “Xanh – Số” trong nông nghiệp: Nắm bắt cơ hội, thích ứng tương lai của nông sản Việt” tại Diễn đàn
Sau đó là phần tham luận của các lãnh đạo HTX trên cả nước. Bà Lê Thị Thu Hiền, Trưởng đại diện Tổ chức Agriterra tại Việt Nam trình bày nội dung “Xây dựng hệ thống dữ liệu số phục vụ quản trị HTX và liên kết thị trường: Một vài kinh nghiệm từ Hà Lan và Việt Nam”. Ông Nguyễn Thanh Mộng, Giám đốc phát triển thị trường Việt Nam giới thiệu “Hệ sinh thái chuyển đổi số cho các HTX – cơ quan hỗ trợ/quản lý HTX”. Các tham luận khác về chuyển đổi số trong các HTX như sản xuất các sản phẩm từ hoa hồi (Tràng Định, Lạng Sơn), Cam (Cao Phong, Hòa Bình – nay là Phú Thọ), Canxi từ vỏ trứng gà (Hà Đông, Hà Nội)… đã cho thấy tính cấp bách trong công tác chuyển đổi số và một số bất cập, vướng mắc, các điểm “nghẽn” khi triển khai chương trình này tại cơ sở.
Đoàn chủ tịch đã từng bước trả lời câu hỏi thảo luận của các lãnh đạo HTX và đi đến thống nhất một số nội dung liên quan đến công tác chuyển đổi số. Hai cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia – Bộ Khoa học và Công nghệ và Cục Kinh tế hợp tác và PTNT, Bộ Nông nghiệp và Môi trường hứa sẽ luôn đồng hành với các HTX trên cả nước, hỗ trợ về chính sách, vốn, kỹ thuật và tài liệu, tạo điều kiện cho Liên minh Hợp tác xã Việt Nam hoàn thành chương trình chuyển đổi số cách sớm nhất, chuẩn xác và hợp pháp.

Phát biểu tổng kết Diễn đàn, Bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam khẳng định chủ trương chuyển đổi số trong nông nghiệp sẽ được thực hiện một cách triệt để, công khai và minh bạch. Liên minh HTX sẽ nắm bắt cơ hội này để kịp thời thích ứng tương lai, khi Luật Chuyển đổi số được áp dụng và phổ biến tới từng người dân, từng xã viên HTX. Bà Cao Xuân Thu Vân cũng mong muốn lãnh đạo của Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường hỗ trợ tối đa cho Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trong công tác này.
Một số hình ảnh của Diễn đàn:



Thực hiện: Thành Vinh
Hội nghị công bố Đề án “Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến 2050”
8h30 sáng nay (22/10/2025), Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị công bố Đề án “Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến 2050” và tham vấn cho dự thảo kế hoạch hành động triển khai đề án.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung chủ trì hội nghị. Cùng dự có lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Bộ như Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Cục Biến đổi khí hậu, Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Khoa học và Công nghệ, cùng đại diện UBND, Sở Nông nghiệp và Môi trường các tỉnh, thành phố theo cả hình thức trực tiếp lẫn trực tuyến. TS Phạm Đình Nam, Viện trưởng Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam cùng một số chuyên gia của Viện tham gia với hình thức trực tuyến qua nền tảng Zoom.
Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Hoàng Trung nhấn mạnh đề án được ban hành đúng thời điểm, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững ngành trồng trọt trong bối cảnh biến đổi khí hậu và hội nhập sâu vào thị trường quốc tế. Mục tiêu trọng tâm của đề án là vừa đảm bảo tăng trưởng về năng suất và giá trị, vừa giảm phát thải khí nhà kính, hướng tới nền nông nghiệp xanh, tuần hoàn.

Kế tiếp là phần công bố những mục tiêu cụ thể của Đề án, Ông Huỳnh Tấn Đạt – Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật – khẳng định “Ngành trồng trọt đặt mục tiêu đến năm 2035 sẽ góp phần giảm ít nhất 15% lượng phát thải khí nhà kính so với năm cơ sở 2020”. Tại địa phương, mỗi tỉnh, thành sẽ triển khai ít nhất 1-2 mô hình sản xuất trồng trọt giảm phát thải có thể nhân rộng, thí điểm tối thiểu 15 mô hình canh tác đủ điều kiện phát triển tín chỉ carbon. Hệ thống dữ liệu phát thải sẽ được đồng bộ với Hệ thống đăng ký quốc gia. Ngành sẽ đào tạo tối thiểu 3.000 cán bộ kỹ thuật, khuyến nông, nông dân và doanh nghiệp; xây dựng ít nhất 5 bộ tài liệu truyền thông nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi sản xuất theo hướng phát thải thấp.

Bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật trình bày về Kế hoạch hành động thực hiện Đề án
Tiếp nối chương trình, Bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật trình bày về Kế hoạch hành động thực hiện Đề án. Bà Hương biết, Kế hoạch hành động gồm 7 nhóm nhiệm vụ chính: Hoàn thiện cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện Đề án; Chuyển đổi cơ cấu cây trồng linh hoạt, phù hợp với điều kiện từng vùng sinh thái; Phát triển và áp dụng các gói kỹ thuật sản xuất trồng trọt giảm phát thải; Triển khai mô hình sản xuất trồng trọt giảm phát thải quy mô vùng và chuỗi giá trị; Thiết lập, vận hành hệ thống đo lường – báo cáo – thẩm định (MRV) và cơ sở dữ liệu phát thải khí nhà kính; Nâng cao năng lực và chuyển đổi nhận thức; Kết nối thị trường cho sản phẩm phát thải thấp.

7 nhóm nhiệm vụ chính trong kế hoạch hành động của Đề án
Sau đó là phần tham luận của các lãnh đạo sở Nông nghiệp và Môi trường trên cả nước. Ông Nguyễn Mạnh Phương, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội trình bày về hoạt động sản xuất nông nghiệp giảm phát thải của Thủ đô. Ông Nguyễn Hoàng Phúc – Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lâm Đồng khẳng định tầm quan trọng của việc triển khai Đề án giảm phát thải trong trồng trọt, nhất là với các địa phương có thế mạnh như Lâm Đồng. Ông Lê Chí Thiện, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Đồng Tháp, nhấn mạnh, việc Bộ Nông nghiệp và Môi trường chuẩn bị công bố Đề án “Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến 2050” là bước đi thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Việt Nam trong thực hiện mục tiêu Net zero vào năm 2050. Bà Đinh Thị Phương Khanh – Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Tây Ninh đề xuất, để các địa phương sớm triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ được giao trong khuôn khổ Đề án, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần sớm xây dựng bộ tiêu chí chuyển đổi cây trồng.

Ông Nguyễn Hoàng Phúc – Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lâm Đồng phát biểu tại Hội nghị
Các đại biểu cũng nêu những góp ý cho đề án. Theo đó PGS.TS Lê Quốc Doanh, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam cho rằng, đề án trồng trọt giảm phát thải và đề án nâng cao sức khỏe đất được ban hành tháng 10/2024 chính là “xương sống” của ngành trồng trọt trong giai đoạn mới. TS Nguyễn Thị Thanh Thủy, đại diện Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam, cho rằng, để đạt được mục tiêu giảm 15% phát thải khí nhà kính đến năm 2050, cần lượng hóa rõ ràng các nhiệm vụ và mục tiêu của từng hợp phần trong Đề án. bà Hoàng Thị Liên, Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu và Cây gia vị Việt Nam, Đề án Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt đã góp phần nâng cao giá trị gia tăng cho nông sản Việt Nam, tạo thuận lợi để các sản phẩm trong nước tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. PGS.TS Nguyễn Trí Ngọc, Phó Chủ tịch Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục Trồng trọt, cho rằng đề án trồng trọt giảm phát thải đã đi đúng hướng phát triển được khuyến khích, đó là phát triển xanh, hữu cơ, bền vững và có định hướng thị trường rõ ràng. TS Lê Văn Tri, Chủ tịch Hiệp hội Phân bón sinh học Việt Nam đề nghị xem xét bổ sung cây cao su trong nhóm cây trồng chuyển đổi hình thức canh tác…

Đề xuất mô hình triển khai Đề án tại các địa phương
TS Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chủ tịch HĐQT Quỹ Cộng đồng phòng tránh thiên tai cho rằng, để quá trình chuyển đổi sang trồng trọt giảm phát thải đạt hiệu quả và bền vững, cần bổ sung 2 nhóm giải pháp lớn: Điều chỉnh cơ sở hạ tầng nông nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu mới của sản xuất xanh, đặc biệt là hệ thống thủy lợi cho cây lúa và lập kế hoạch huy động nguồn lực cho chuyển đổi trên phạm vi toàn quốc, bởi nếu chỉ trông chờ vào ngân sách thì khó có thể đi đường dài. Theo ông Phát, trong 7 nhóm nhiệm vụ trọng tâm của dự thảo kế hoạch hành động, chính sách vẫn là yếu tố then chốt. Cần thống nhất quan điểm coi nông dân và doanh nghiệp là hai chủ thể trung tâm, vừa là người thực hiện, vừa là người hưởng lợi. Khi thấy được lợi ích cụ thể và được hỗ trợ tháo gỡ khó khăn, họ sẽ chủ động tham gia, đặc biệt trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật.

TS Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chủ tịch HĐQT Quỹ Cộng đồng phòng tránh thiên tai phát biểu tại Hội nghị
Phát biểu tổng kết Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung khẳng định chủ trương triển khai Đề án: “Rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ sản phẩm, rõ quy mô địa bàn thực hiện”. Theo đó, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật – cơ quan chuyên môn chủ trì Đề án sẽ phải cập nhật chế độ báo cáo chỉ đạo định hướng vào NDC. Về cơ chế chính sách, Bộ Nông nghiệp và Môi trường chỉ đạo Cục Biến đổi khí hậu, trước 2028 thí điểm trao đổi carbon nội địa, trên cơ sở đó tham gia trao đổi carbon quốc tế. Ông nói: “Cần phải bán được, khơi thông được thị trường cho người dân”.
Thứ trưởng cũng chỉ đạo, ngay sau hội nghị, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật sẽ tiếp thu bổ sung hoàn chỉnh dự thảo Kế hoạch để thực sự khả thi, thực tế và có sự ưu tiên có chọn lọc trong từng giai đoạn thực hiện dự án. Cần phải bán được, khơi thông được thị trường cho sản phẩm trồng trọt giảm phát thải.
Ngoài ra, Cục sẽ có trách nhiệm làm việc cùng địa phương chọn lựa mô hình chuyển đổi cây trồng. Đặc biệt, Ban chỉ đạo sẽ chỉ đạo xuyên suốt kế hoạch, sơ kết, tổng kết, tháo gỡ vướng mắc trong các khâu thực hiện. Về nguồn lực, Bộ sẽ có cuộc họp thảo luận với sự tham gia cơ quan nhà nước, đối tác quốc tế có những dự án đã được phê duyệt và sắp phê duyệt và đặc biệt là nguồn lực xã hội hóa từ doanh nghiệp, hiệp hội cùng chung tay đóng góp bền vững.
Tái khẳng định tham vọng của Đề án, Thứ trưởng Hoàng Trung chia sẻ: Đề án “Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến 2050 không chỉ là một chương trình của Bộ, mà là một phong trào hành động quốc gia, là lời cam kết của nông nghiệp Việt Nam trước thế giới về trách nhiệm trước biến đổi khí hậu, về con đường phát triển xanh, bền vững.”
Một số hình ảnh của Hội nghị:



Thực hiện: Thành Vinh
Nông nghiệp tái sinh và hữu cơ: Tương lai của nông nghiệp toàn cầu
Nông nghiệp hữu cơ toàn cầu đang ở ngã rẽ quan trọng
Khai mạc hội nghị hữu cơ Châu Á
Bài học thế giới về phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững
Trong bài trình bày tại Hội nghị hữu cơ Châu Á lần thứ 8 diễn ra từ ngày 17 – 19/9 tại Ninh Bình, GS.TS André Leu – Giám đốc Quốc tế của Tổ chức Regeneration International (RI), nguyên Chủ tịch IFOAM quốc tế (Organics International), đồng thời là một nông dân canh tác nông nghiệp hữu cơ theo hướng tái sinh đã chia sẻ những quan điểm quan trọng về con đường phát triển nông nghiệp toàn cầu trong bối cảnh khủng hoảng khí hậu và môi trường.
Từ khủng hoảng nông nghiệp công nghiệp đến sự hình thành phong trào tái sinh
Theo ông Leu, trước năm 2015, khái niệm “nông nghiệp tái sinh” hầu như ít được nhắc tới. Thế nhưng chỉ sau một thập kỷ, nó đã trở thành thuật ngữ phổ biến trên báo chí toàn cầu, gắn liền với những thảo luận về môi trường, biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.
Năm 2015, các nhà lãnh đạo của nhiều phong trào hữu cơ, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp tổng hợp, các phong trào môi trường, sức khỏe tự nhiên đã thành lập RI. Ban chỉ đạo sáng lập gồm TS Vandana Shiva, Ronnie Cummins, TS. Hans Herren, Steve Rye và GS.TS André Leu. Sau 10 năm, hiện RI đã mở rộng tới 680 đối tác ở 80 quốc gia, trở thành một mạng lưới hợp tác toàn cầu có sức ảnh hưởng lớn.

GS.TS André Leu, Giám đốc Quốc tế của Tổ chức Regeneration International, nguyên Chủ tịch IFOAM quốc tế (Organics International) cho rằng, việc chuyển đổi khỏi nông nghiệp công nghiệp là yêu cầu cấp thiết. Ảnh: Hồng Thắm.
Ông Leu chỉ rõ, nông nghiệp công nghiệp là mối đe dọa hiện hữu đối với hành tinh do bản chất thoái hóa tự nhiên của nó. Đây là nguyên nhân của 80% tình trạng phá rừng và mất đa dạng sinh học, đồng thời là nguồn phát thải khí nhà kính lớn. Hệ thống chăn nuôi công nghiệp tiêu tốn tới 10 kg protein thực vật để sản xuất 1 kg protein động vật, vừa kém hiệu quả vừa tàn phá môi trường.
Bên cạnh đó, việc lạm dụng thuốc BVTV và phân bón hóa học đã để lại những hậu quả nặng nề cho sức khỏe con người và hệ sinh thái. Vì vậy theo ông, việc chuyển đổi khỏi nông nghiệp công nghiệp là yêu cầu cấp thiết nhằm bảo vệ sức khỏe của con người và phúc lợi của tất cả loài khác trong hành tinh này.
Tiêu chuẩn tái sinh quốc tế và lộ trình chuyển đổi
Một trong những định hướng then chốt mà ông Leu nhắc tới là khái niệm “hữu cơ 3.0 – Organic 3.0”, coi nông nghiệp hữu cơ như một “ngọn hải đăng” dẫn dắt sự thay đổi, góp phần nâng cao tính bền vững của các hệ thống nông nghiệp chính thống.
Tuy nhiên trong quá trình triển khai hợp tác, ông và đồng sự cũng vấp phải sự phản đối mạnh mẽ nông nghiệp hữu cơ, đặc biệt là những mô hình sản xuất đã đạt được chứng nhận hữu cơ.
Nếu chọn các từ như “hữu cơ” hay “nông nghiệp sinh thái” sẽ có nhiều ý kiến của các bên liên quan tiềm năng, chẳng hạn như nông lâm kết hợp, canh tác tổng hợp, canh tác bền vững… Vì vậy, RI đã chọn thuật ngữ “tái sinh” (regenerative) – một khái niệm rõ ràng, trung lập, giúp tiếp cận nông dân và các bên liên quan một cách cởi mở. “Tái sinh” cũng là khái niệm có sức cộng hưởng sâu sắc với hầu hết mọi người.

Nông nghiệp tái sinh là phương pháp canh tác bền vững nhằm phục hồi và nâng cao chất lượng đất đai, độ phì nhiêu, đa dạng sinh học, nguồn nước và hệ sinh thái tổng thể. Ảnh: RI.
Hiện nay, nông nghiệp tái sinh đã được nông dân, các tổ chức nông dân, tập đoàn thực phẩm, dệt may và nhiều chính phủ trên thế giới ủng hộ. Đáng chú ý, phong trào này không khởi phát từ các tập đoàn hay học giả mà được thúc đẩy bởi chính nông dân – những người trực tiếp đối mặt với thách thức của biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường.
Một điểm nhấn khác trong bài trình bày của ông Leu là Tiêu chuẩn tái sinh quốc tế của RI được công bố vào tháng 3/2025.
Tiêu chuẩn này được cung cấp độc quyền cho các tổ chức chứng nhận hữu cơ đã được đánh giá kỹ lưỡng vì họ có hệ thống hiệu quả nhất trong việc xác minh thực hành sản xuất và ngăn chặn gian lận.
Ông Leu cho hay, lý do đưa ra tiêu chuẩn mới là bởi bang California (Mỹ) từng ban hành định nghĩa về nông nghiệp tái sinh nhưng lại cho phép sử dụng hóa chất độc hại và sinh vật biến đổi gen – đi ngược với tinh thần “tái sinh”.
Theo tiêu chuẩn RI, người sản xuất nông nghiệp tái sinh có thể được chứng nhận ở hai cấp độ. Một là nông nghiệp tái sinh hạng A – đáp ứng tất cả yêu cầu. Hai là nông nghiệp tái sinh trong giai đoạn chuyển đổi – đang trong quá trình đáp ứng tất cả yêu cầu.
Không có thời hạn cụ thể nào cho các nhà thực hành tiêu chuẩn để tiến tới chứng nhận nông nghiệp tái sinh hạng A. Tuy nhiên, tất cả các nhà thực hành được chứng nhận nông nghiệp tái sinh trong giai đoạn chuyển đổi phải nêu rõ khung thời gian và phương pháp để loại bỏ các đầu vào và thực hành bị cấm. Điều này cần được xem xét lại hàng năm, tập trung vào việc cải tiến liên tục.
Ông Leu nhấn mạnh: “Chúng tôi khuyến khích nông dân thực hiện bước đi đầu tiên hướng tới sự thay đổi tích cực. Đây thường là khía cạnh khó khăn nhất trong bất kỳ quá trình chuyển đổi nào. Theo nghiên cứu của chúng tôi, một trong những nguyên nhân chính khiến nhiều nông dân e ngại khi tham gia sản xuất hữu cơ có chứng nhận đó là yêu cầu về giai đoạn chuyển đổi kéo dài 3 năm”.
“Với tiêu chuẩn của chúng tôi, người sản xuất có thể dễ dàng đạt chứng nhận tái sinh trong giai đoạn chuyển đổi. Do đó, chúng tôi đã giúp nông dân bắt đầu hành trình trở thành tái sinh một cách đơn giản, với mục tiêu cuối cùng là đạt được chứng nhận tái sinh hạng A”, ông Leu nói thêm.
GS.TS André Leu hiện là Giám đốc Quốc tế của Tổ chức Regeneration International (RI) từ năm 2017. Trước đó, ông từng giữ chức Chủ tịch IFOAM quốc tế (Organics International) từ năm 2011 đến 2017 – một tổ chức đại diện toàn cầu duy nhất cho lĩnh vực nông nghiệp hữu cơ. Ông là chuyên gia hàng đầu về hệ thống canh tác sinh thái dựa trên tự nhiên với hơn 50 năm kinh nghiệm làm nông nghiệp hữu cơ theo hướng tái sinh, tập trung vào nông sinh thái (agroecology).
Triển lãm ngành Nông nghiệp và Môi trường khẳng định truyền thống, thể hiện bước tiến mới
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, Triển lãm ngành Nông nghiệp và Môi trường phải hội tụ những thành tựu tiêu biểu nhất trong 8 thập kỷ phát triển.

Gấp rút hoàn thành công tác trưng bày cho Triển lãm thành tựu ngành Nông nghiệp và Môi trường. Ảnh: Linh Linh.
Chiều 25/8, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến chủ trì cuộc họp với lãnh đạo các đơn vị trực thuộc về công tác chuẩn bị cho Triển lãm thành tựu ngành Nông nghiệp và Môi trường.
Theo báo cáo, các đơn vị đã cơ bản hoàn tất khung thiết kế, bố cục trưng bày và đang gấp rút hoàn thiện các hạng mục để kịp tiến độ. Nhiều ý kiến đề xuất triển lãm cần tạo điểm nhấn rõ ràng, lựa chọn các sản phẩm, mô hình tiêu biểu nhất của ngành, đồng thời nhấn mạnh về nội dung về khoa học công nghệ, chuyển đổi số, bảo vệ môi trường, bên cạnh trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, thủy lợi và lâm nghiệp.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến yêu cầu các đơn vị rà soát, sắp xếp để Triển lãm thể hiện rõ dấu ấn 80 năm của ngành. Ảnh: Linh Linh.
Tại cuộc họp, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh yêu cầu cao về chất lượng trưng bày. Theo Thứ trưởng, triển lãm lần này là dịp đặc biệt để tái hiện hành trình 80 năm phát triển của ngành, từ những năm tháng khó khăn thiếu đói đến thành tựu hôm nay khi nông nghiệp trở thành trụ đỡ của nền kinh tế với kim ngạch xuất khẩu hàng chục tỷ USD cũng như môi trường – là một trong ba trụ cột phát triển bền vững của đất nước (kinh tế – xã hội – môi trường).
Thứ trưởng đề nghị các đơn vị rà soát kỹ, phân khu trưng bày theo các giai đoạn lịch sử và thành tựu nổi bật của từng lĩnh vực. Trồng trọt cần thể hiện rõ bước chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ sang nền nông nghiệp hàng hóa, với các sản phẩm tỷ đô như gạo, cà phê, rau quả. Chăn nuôi phải phản ánh sự phát triển từ quy mô hộ gia đình đến trang trại công nghệ cao, bảo đảm an toàn sinh học. Thủy sản cần có cả hình ảnh khai thác và nuôi trồng, thể hiện vai trò của ngư dân và thành tựu xuất khẩu. Lâm nghiệp giới thiệu giống cây, sản phẩm gỗ, tín chỉ carbon, mô hình rừng đa dụng. Lĩnh vực thủy lợi trưng bày các công trình tiêu biểu đã góp phần quan trọng vào an ninh lương thực và kiểm soát thiên tai. Môi trường và khoa học công nghệ phải được lồng ghép xuyên suốt, với các mô hình quan trắc, xử lý chất thải, công nghệ sinh học, vaccine…

Chiều 25/8, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến chủ trì cuộc họp với lãnh đạo các đơn vị trực thuộc về công tác chuẩn bị cho Triển lãm thành tựu ngành Nông nghiệp và Môi trường. Ảnh: Linh Linh.
“Triển lãm phải toát lên được dấu ấn 80 năm, vừa khẳng định truyền thống, vừa thể hiện bước tiến mới, đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên hiện đại. Các đơn vị cần phối hợp chặt chẽ, chọn lọc tinh gọn, sắp xếp khoa học, để khách tham quan dễ dàng cảm nhận được những thành tựu nổi bật nhất của ngành”, Thứ trưởng nói.
Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng lưu ý, bên cạnh hiện vật, hình ảnh và phim tư liệu phải được thiết kế hợp lý, giúp truyền tải sinh động tới công chúng và báo chí. Các sản phẩm OCOP, làng nghề truyền thống sẽ được trưng bày như nền tảng bổ trợ, tạo sự phong phú bên cạnh những thành tựu then chốt của ngành.
Triển lãm thành tựu ngành Nông nghiệp và Môi trường dự kiến khai mạc từ 28/8 đến 5/9 tại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Quốc gia, xã Đông Anh, Hà Nội, trong khuôn khổ Triển lãm thành tựu kinh tế – xã hội đất nước kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9. Với diện tích hàng trăm mét vuông, không gian trưng bày được bố trí thành các khu chuyên đề, tái hiện hành trình phát triển của ngành qua từng giai đoạn lịch sử, từ thời kỳ kháng chiến, bao cấp, đến công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế.

Những thành tựu khoa học công nghệ gắn với các lĩnh vực sẽ được trưng bày tại Triển lãm. Ảnh: Linh Linh.
Hàng trăm sản phẩm, mô hình, hình ảnh, phim tư liệu sẽ được giới thiệu, trong đó có những điểm nhấn đặc sắc như cây cà phê Tây Nguyên thật, mô hình rừng đa dụng, công trình thủy lợi tiêu biểu, sản phẩm gỗ và tín chỉ carbon, cùng các ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số và mô hình xử lý môi trường.
Triển lãm được tổ chức song song trên nền tảng trực tuyến với công nghệ 3D, VR, kéo dài đến tháng 8/2026, tạo điều kiện để đông đảo người dân và bạn bè quốc tế cùng tham quan, tương tác. Đây không chỉ là dịp để nhìn lại những thành tựu nổi bật của nông nghiệp, nông thôn, nông dân và môi trường trong 80 năm qua, mà còn khẳng định quyết tâm đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững của ngành trong giai đoạn tới.
Linh Linh
Nguồn: nongnghiepmoitruong.vn
ĐƯỜNG CỎ NGỌT – LOẠI CÂY TRỒNG TIỀM NĂNG
Vừa qua, Viện Ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam (Vitad – Agri) đã họp với đối tác đến từ tập đoàn dược phẩm Bayer (Đức) về loại cây trồng tạo ra “đường không năng lượng” này.

Viện trưởng Phạm Đình Nam gặp gỡ Mr Hoàng Mộc Kiên và Mr Uber Thom về nguồn cung cấp dược liệu
Theo đó, ngày nay, tình trạng các bệnh liên quan đến việc thừa đường trong cơ thể người diễn ra khá nghiêm trọng, ảnh hưởng lâu dài tới sức khỏe, thậm chí có thể gây tai biến cho con người, nhất là bệnh tiểu đường đối với người cao tuổi. Chính vì vậy các sản phẩm ngọt nhưng không chứa đường, hay chính xác hơn là sử dụng “đường không năng lượng” được người dùng ngày càng ưa chuộng. Một trong những sản phẩm đó là các loại nước uống, các thực phẩm chức năng có vị ngọt nhưng không chứa đường.
Đường cỏ ngọt cho người ăn kiêng
Làm một phép so sánh nho nhỏ, chúng ta có thể thấy lợi ích rất lớn từ loại “đường không năng lượng” này. Khi sử dụng chế phẩm dùng đường cỏ ngọt cho người ăn kiêng và cả người bình thường đều có thể ngăn ngừa tiểu đường và các căn bệnh khác liên quan đến đường mà vẫn đảm bảo sức khỏe và vị ngon. Coca Cola cũng đã áp dụng đường cỏ ngọt cho sản phẩm của mình, gọi là “Coca Cola light” có vị ngọt gần giống hương vị Cola truyền thống. Sản phẩm này có thể dùng cho người mắc bệnh tiểu đường.

Ưu điểm của đường không năng lượng
Cây đường có ngọt khá dễ trồng và có thể thu hoạch chỉ sau hơn 1 tháng bằng cách hái lá mà không làm hư hại đến cây. Đây là giống cây trồng có suất lợi nhuận lớn và thời gian thu hồi vốn nhanh. Các sản phầm từ đường cỏ ngọt càng ngày càng được thị trường ưa chuộng, chẳng hạn các loại trà, các loại nước giải khát…

Trà cỏ ngọt – một loại thức uống được giới trẻ ngày nay và người ăn kiêng ưa chuộng
Tập đoàn dược phẩm Bayer (Đức) là một tập đoàn rất lớn của CHLB Đức, chuyên cung cấp các dược phẩm tự nhiên có lợi cho sức khỏe con người và rất quan tâm đến loại cây chế xuất ra “đường không năng lượng” này. Đây là cơ hội giúp bà con nông dân có thêm một loại cây trồng hiệu quả cao và là cơ hội hợp tác của các doanh nghiệp trong nước với một tập đoàn dược phẩm hàng đầu thế giới. Viện Ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam (Vitad – Agri) đã có chiến lược hợp tác lâu dài, sẵn sàng làm đầu mối liên kết giữa bà con nông dân và các doanh nghiệp chế biến nông sản trong nước với Tập đoàn Bayer trong việc thử nghiệm, kiểm nghiệm và xin cấp giấy chứng nhận VIETGAP, OCOP cho các sản phẩm “đường không năng lượng” chế biến từ cây đường cỏ ngọt, tiến tới chứng nhận hữu cơ cho các chế phẩm cơ lợi cho sức khỏe này.
Trụ sở và vùng trồng của Tập đoàn Bayer (Đức)
Quý vị có thể liên hệ với Viện Ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam (Vitad – Agri) thông qua website này, hoặc số điện thoại +84 912217468 để phát triển giống cây trồng đường cỏ ngọt này.
Thực hiện: Thành Vinh
Tối ưu chi phí, làm giàu từ mô hình nông nghiệp tuần hoàn
ĐÀ NẴNG – Tận dụng lợi thế địa phương và tư duy sáng tạo, nhiều nông dân Đà Nẵng đang từng bước làm giàu từ mô hình nông nghiệp tuần hoàn, chi phí thấp mà hiệu quả cao.
Người truyền cảm hứng nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn ở Cốc San
Anh ra mắt mô hình nông nghiệp tuần hoàn giúp giải quyết nông sản dư thừa
Sản xuất giảm phát thải, lan tỏa trách nhiệm của ngành trồng trọt với môi trường
Nông nghiệp tuần hoàn, hữu cơ lan tỏa ở Tiên Phước
Gần 15 năm gắn bó với nghề nông, chị Nguyễn Thị Nhinh (thôn An Châu, xã Hòa Vang) đã xây dựng thành công mô hình nông nghiệp tuần hoàn cho hiệu quả cao. Xuất phát điểm chỉ với vài nghìn mét vuông đất và 8 con dê giống được địa phương hỗ trợ vào năm 2010, đến nay, chị đã sở hữu trang trại rộng gần 2 ha kết hợp trồng trọt và chăn nuôi.

Chị Nguyễn Thị Nhinh chăm sóc đàn dê tại trang trại chăn nuôi kết hợp trồng trọt theo mô hình tuần hoàn ở xã Hòa Vang, TP Đà Nẵng. Ảnh: Phạm Huy.
Ban đầu, chị Nhinh trồng thanh long ruột đỏ trên diện tích 1.000 m² và chăn nuôi dê theo hướng tự nhiên. Nhận thấy tiềm năng phát triển, chị mạnh dạn vay 370 triệu đồng từ ngân hàng và tổ phụ nữ thôn để mở rộng quy mô sản xuất, mua thêm bò, xây chuồng trại, trồng thêm các loại cây có giá trị như mãng cầu, chuối lùn, rau ăn lá…
Đặc biệt từ năm 2017, chị quyết định chuyển đổi toàn bộ diện tích trồng cây kém hiệu quả sang trồng cỏ làm thức ăn cho vật nuôi. Song song đó, chị đầu tư xây 12 bể với diện tích 100 m² để nuôi trùn quế để vừa xử lý phân bò, phân dê, vừa tạo ra nguồn đạm tự nhiên cho vật nuôi.
Hiện trang trại của chị có hơn 100 con dê, 5 con bò, hơn 200 con gà, hơn 1 ha trồng cỏ và 200 m² trồng rau các loại. Trung bình 3 tháng chị thu 4 tạ phân chuồng để nuôi trùn quế. Mỗi năm, 12 bể trùn quế cho 5 đợt thu hoạch với sản lượng khoảng 180 kg/đợt. Trùn quế được dùng làm thức ăn cho gà, dê, bò, phần còn lại bán ra thị trường với giá 70.000 đồng/kg giun và 2.000 đồng/kg phân.
“Mô hình này giúp tôi giảm đáng kể chi phí thức ăn, tăng giá trị sản phẩm và hạn chế ô nhiễm môi trường. Dù thị trường biến động tôi vẫn có nguồn thu ổn định. Doanh thu trung bình mỗi năm từ 250 – 300 triệu đồng, sau khi trừ chi phí còn lãi ròng 130 – 150 triệu đồng”, chị Nhinh chia sẻ.

Sâu canxi góp phần tái chế phế phẩm nông nghiệp, tạo nguồn thức ăn sạch và thân thiện với môi trường. Ảnh: Phạm Huy.
Thời gian tới, chị dự định mở rộng quy mô chăn nuôi, cải tạo chuồng trại, đưa cơ giới hóa vào sản xuất để nâng cao năng suất và giữ gìn vệ sinh môi trường.
Anh Nguyễn Quang Phú ở phường Hòa Khánh thì chọn hướng đi mới là đầu tư nuôi sâu canxi – sinh vật có vòng đời ngắn, ít tốn chi phí nhưng mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Sâu canxi là ấu trùng của ruồi lính đen, có giá trị cao trong chăn nuôi. Giai đoạn trưởng thành hoặc sau lột xác, sâu để lại lớp vỏ chứa hàm lượng canxi dồi dào. Cả sâu và vỏ đều có thể làm thức ăn giàu dinh dưỡng cho gia súc, gia cầm.
Bắt đầu từ năm 2023, anh Phú đầu tư mô hình nuôi sâu canxi trên diện tích 100 m². Dù gặp không ít khó khăn do giai đoạn đầu sâu bò ra khỏi khay, chết bất thường, song anh vẫn kiên trì nghiên cứu, điều chỉnh điều kiện nuôi, nhiệt độ và thức ăn phù hợp.
Cơ sở vật chất để nuôi sâu khá đơn giản. Khay nuôi ấu trùng, lồng nuôi ruồi rộng khoảng 15 m³, khung sắt bọc vải mùng để ruồi giao phối và đẻ trứng. Trung bình 1 gram trứng sâu sẽ cho ra 2,5 – 3 kg sâu sau 15 – 20 ngày. Với 1 kg trứng mỗi năm, anh thu được khoảng 2,5 – 3 tấn sâu canxi. Giá bán 30 gram trứng là 170.000 đồng, 1 kg sâu 30.000 đồng, 1 kg phân sâu 7.000 đồng.

Khu nuôi trùn quế – một phần trong mô hình nông nghiệp tuần hoàn giúp tái sử dụng nguồn phân chuồng hiệu quả. Ảnh: Phạm Huy.
“Tôi quyết định gắn bó với mô hình này vì thấy rõ lợi ích kép, vừa xử lý được phế phẩm nông nghiệp, vừa làm thức ăn sạch, giàu dinh dưỡng cho vật nuôi. Gia đình tôi nuôi nhiều gà, vịt, từ khi dùng sâu canxi làm thức ăn, vật nuôi ít bệnh, chất lượng thịt ngon hơn, chi phí thức ăn giảm tới 70 – 80%”, anh Phú cho biết.
Hiện mỗi tháng anh Phú có thu nhập ổn định khoảng 8 – 10 triệu đồng từ việc bán trứng sâu, sâu trưởng thành và phân sâu. Đây là mô hình phù hợp với diện tích nhỏ, dễ nhân rộng, đặc biệt ở các khu vực đô thị có quỹ đất hạn chế.
Từ hai mô hình thực tế của chị Nhinh và anh Phú, có thể thấy phát triển nông nghiệp theo hướng tuần hoàn, tối ưu chi phí đang mở ra hướng đi hiệu quả cho nông dân Đà Nẵng. Không chỉ giúp nâng cao thu nhập cho hộ gia đình, mô hình còn góp phần bảo vệ môi trường, tạo ra sản phẩm an toàn, giàu dinh dưỡng.
Trong bối cảnh đô thị hóa ngày càng tăng, đất sản xuất ngày càng thu hẹp, những mô hình sử dụng hợp lý diện tích và nguồn lực như trên cần được nhân rộng, hỗ trợ kỹ thuật, kết nối tiêu thụ và truyền thông mạnh mẽ, hướng đến nền nông nghiệp xanh, thông minh và phát triển bền vững.
Phạm Huy
Theo nongnghiep.vn
Vải u trứng trắng Thanh Hà
100.000 đồng/kg vải u trứng trắng Thanh Hà
Vải u trứng trắng ở Thanh Hà, tỉnh Hải Dương đang được nhiều khách hàng đặt mua 100.000 đồng/kg, mức giá cao nhất trong các loại vải của địa phương này.
10 ngày nữa, vải thiều Thanh Hà chín sớm vào vụ thu hoạch
Vải thiều Thanh Hà dự báo được mùa to
Giá vải thiều cao nhất lịch sử, tỉnh Bắc Giang thu hơn 5,7 nghìn tỷ đồng
Lấy lúa, rau, thịt… bù đắp vải thiều mất mùa
Hiện nay, huyện Thanh Hà đã có một số hộ thu hoạch vải u trứng trắng. Chính quyền địa phương đã khuyến cáo người dân thu hoạch vải khi đã bảo đảm độ chín, để vải đạt chất lượng cao nhất. Vải u trứng trắng sẽ cho thu hoạch đúng thời điểm vào tuần tới.

Vải u trứng trắng sẽ cho thu hoạch rộ vào tuần tới. Ảnh: Minh họa.
Do trà vải u trứng trắng sản lượng không nhiều và cho thu hoạch sớm nhất, nên giá bán cao. Nhiều hộ có vải u trứng trắng cho biết nhiều khách quen đã đặt mua trước với giá 100.000 đồng/kg, cao hơn vải thiều chính vụ khoảng 40.000 đồng/kg.
Vải u trứng trắng có vị thơm, cùi dầy, quả to, mọng. Loại vải này sản lượng không lớn như các loại vải u hồng, u gai, tàu lai và vải thiều chính vụ.
Huyện Thanh Hà hiện có 3.285 ha vải, trong đó có khoảng 1.900 ha vải sớm trồng tập trung ở khu Hà Đông. Năm nay do ảnh hưởng của thời tiết lạnh kéo dài nên các trà vải cho thu hoạch muộn hơn khoảng 10 ngày.
Phạm Hoàng
Theo nongnghiep.vn
Củ Cải Trắng Chế Biến Tại Nhà Máy Hikari Đà Lạt
Công Ty Cổ Phần Hikari Đà Lạt tự hào giới thiệu đến quý khách hàng sản phẩm củ cải trắng chế biến cao cấp, được sản xuất theo công nghệ hiện đại Octofrost từ Thụy Điển. Đây là quy trình sản xuất tiên tiến và đảm bảo chất lượng cao nhất, giúp mang đến cho người tiêu dùng sản phẩm sạch, an toàn và giữ nguyên được giá trị dinh dưỡng tự nhiên của củ cải trắng.
Quy Trình Sản Xuất Tiên Tiến
Tại Hikari Đà Lạt, sản phẩm củ cải trắng được chế biến qua nhiều công đoạn kỹ lưỡng và kiểm soát chặt chẽ, bao gồm:
- Lựa Chọn Nguyên Liệu Chất Lượng Cao: Chúng tôi chỉ lựa chọn những củ cải trắng tươi ngon, đạt tiêu chuẩn chất lượng cao từ vùng nguyên liệu sạch và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
- Rửa Sạch Và Cắt Gọt: Sau khi được chọn lọc kỹ lưỡng, củ cải trắng sẽ được rửa sạch và cắt gọt thành các hình dạng đồng đều, tạo sự tiện lợi cho người tiêu dùng khi sử dụng.

- Rửa Tinh Bằng Nước Ozone: Để đảm bảo vệ sinh tuyệt đối, củ cải trắng sẽ được rửa tinh bằng công nghệ nước Ozone, loại bỏ hoàn toàn các vi khuẩn và tạp chất còn lại trên bề mặt nguyên liệu.
- Chần/Hấp: Sau khi rửa tinh, củ cải trắng được chần hoặc hấp nhanh chóng để giữ lại màu sắc tươi sáng và cấu trúc giòn ngon tự nhiên.
- Giải Nhiệt: Ngay sau quá trình chần/hấp, sản phẩm được giải nhiệt nhanh chóng để ngăn ngừa quá trình nấu chín tiếp tục và bảo quản tối ưu chất lượng sản phẩm.
- IQF (Đông Lạnh Nhanh Từng Phần): Công nghệ đông lạnh IQF đảm bảo từng phần của củ cải trắng được đông lạnh nhanh chóng, giữ nguyên hương vị, màu sắc và dinh dưỡng của sản phẩm.

- Đóng Gói Và Lưu Trữ: Sản phẩm được đóng gói kỹ lưỡng, đảm bảo an toàn thực phẩm trước khi được lưu trữ trong kho lạnh sâu ở nhiệt độ -18 độ C, đảm bảo độ tươi ngon suốt quá trình vận chuyển và bảo quản.

Lợi Ích Sản Phẩm
- Giữ Nguyên Dinh Dưỡng: Quy trình chế biến hiện đại giúp củ cải trắng giữ nguyên giá trị dinh dưỡng tự nhiên.
- An Toàn Vệ Sinh Thực Phẩm: Sử dụng công nghệ rửa tinh bằng nước Ozone và quy trình chế biến khép kín, sản phẩm hoàn toàn an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng.
- Tiện Lợi: Sản phẩm đã được chế biến sẵn, dễ dàng sử dụng trong các món ăn hàng ngày mà không cần thêm bất kỳ công đoạn sơ chế nào khác.

Sự Cam Kết Từ Hikari Đà Lạt
Hikari Đà Lạt cam kết mang đến cho khách hàng sản phẩm củ cải trắng chất lượng cao, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Công nghệ Octofrost tiên tiến cùng quy trình sản xuất được kiểm soát nghiêm ngặt là lời hứa của chúng tôi về chất lượng và sự hài lòng của khách hàng.
Hãy trải nghiệm sản phẩm củ cải trắng chế biến của Hikari Đà Lạt – một lựa chọn hoàn hảo cho những bữa ăn ngon, an toàn và bổ dưỡng.
Theo mastershop.vn
Công nghệ chiết xuất siêu tới hạn CO2 giúp chiết xuất các tinh dược có độ tinh chất cao nhất
Áp dụng công nghệ chiết xuất siêu tới hạn CO2, công ty cổ phần Hikari Đà Lạt đã chiết xuất thành công chất cordycept in trong đông trùng hạ thảo.
Thạc sĩ Võ Văn Thịnh, Phó giám đốc thường trực Công ty cổ phần Hikari Đà Lạt, trong nhà máy nghiên cứu.
Đông trùng hạ thảo được biết đến với các đặc tính dược lý cao và tác dụng tích cực đối với sức khỏe con người. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng đông trùng hạ thảo có khả năng cải thiện hệ miễn dịch, hỗ trợ tim mạch, chống viêm, giảm cholesterol xấu trong máu và thậm chí có tiềm năng trong việc hỗ trợ điều trị ung thư.
Đông trùng hạ thảo có chứa đến 17 loại acid amin và hơn 50 hoạt chất sinh học, làm cho nó trở thành một nguồn nguyên liệu quan trọng trong việc phát triển các phương pháp điều trị bệnh tật.
Theo thạc sĩ Võ Văn Thịnh, Phó giám đốc Thường trực Công ty cổ phần Hikari Đà Lạt: “Trong quá khứ, việc chiết xuất đông trùng hạ thảo để sản xuất thuốc thường sử dụng các phương pháp truyền thống như: ngâm chiết, chưng cất thuỷ lực, và chiết xuất lỏng có áp suất. Mặc dù những phương pháp này có chi phí đầu tư thấp, nhưng gặp nhiều hạn chế như: Yêu cầu năng lượng vận hành cao; Sử dụng dung môi hữu cơ đắt tiền và tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường; Mất đi một số hoạt chất quý giá ở nhiệt độ cao; Thời gian chiết xuất kéo dài, làm ảnh hưởng đến chất lượng dịch chiết do quá trình oxy hóa…”.
Công nghệ chiết xuất siêu tới hạn CO2 là một phương pháp sử dụng khí CO2 làm dung môi để chiết các hoạt chất từ dược liệu tại điểm siêu tới hạn. Dưới đây là một số thông tin về công nghệ này:
Điều kiện siêu tới hạn xảy ra ở nhiệt độ gần môi trường xung quanh (khoảng 31°C) và áp suất cao (từ 200 bar trở lên). CO2 ở điều kiện này có khả năng hòa tan các chất hữu cơ.
Hiện tại, thiết bị công nghệ chiết xuất siêu tới hạn của công ty Cổ Phần Hikari Đà lạt đã đạt áp suất trên 400 bar.
Quá trình chiết xuất không để lại dư lượng dung môi, giúp sản phẩm có chất lượng cao. CO2 không độc hại, không cháy, không mùi, không vị, trơ và rẻ tiền, an toàn và thân thiện với môi trường.
Thích hợp cho ngành thực phẩm, hương liệu, tinh dầu và dinh dưỡng, nguyên liệu đầu vào cho ngành dược.
Thạc sĩ Võ Văn Thịnh chia sẻ thêm: “Khí CO2 được nạp vào bình chứa sau đo hệ thống tự động mở dòng CO2 lỏng đi qua bộ phận làm lạnh rồi qua bơm nén với áp suất cao (200 bar – 400 bar) tuỳ vào sản phẩm và tuỳ vào hoạt chất cần chiết xuất sẽ có công thức riêng. Khi đạt nhiệt độ và áp suất, CO2 trở thành dòng siêu tới hạn và được đưa vào bình chiết”.
Riêng với đông trùng hạ thảo với áp suất cao (trên 400 bar) và nhiệt độ thấp (45 – 60oC) hoàn toàn hầu hết giữ được các hoạt chất. Ngoài ra, dung môi CO2 sử dụng cho việc chiết xuất luôn thân thiện với môi trường, hầu như tái chế, tận dụng tuần hoàn không cần phải xử lý chất thải.
Khả năng khuếch tán của dung môi CO2 vào nguyên liệu tốt nhất dẫn đến việc lấy ra nhiều hoạt chất hơn; độ nhớt thấp, dễ thu hồi; độ tinh dịch chiết cao đặt biệt thu được tinh dầu dễ bay hơi và các vi lượng trong nấm.
Các chuyên gia của Công ty Cổ Phần Hikari Đà lạt đang lấy dịch Cordycept in trong hệ thống chiết xuất siêu tới hạn CO2.
Qua kết quả phân tích bởi trung tâm Tentamus hiệu suất dịch cordycep in rất cao trong nấm đông trùng hạ thảo đã được chiết xuất một cách triệt để. Đây là một tín hiệu tốt cho nguyên liệu ngành dược liệu trong tương lai.
Từ sự chắt lọc, nghiên cứu, nhóm khoa học gồm các chuyên gia thuộc công ty cổ phần Hikari Đà Lạt đã áp dụng công nghệ chiết xuất siêu tới hạn CO2 là một lựa chọn cho ngành dươc phẩm như một phương pháp tối ưu nhất hiện nay giữ lại hương liệu và tinh chất của sản phẩm.











