Author Archives: Vitad Agri

Phát triển sản xuất giống phục vụ cơ cấu lại ngành nông nghiệp

Ngày 3/6, tại trụ sở Bộ NN-PTNT, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh chủ trì cuộc họp triển khai Chương trình phát triển nghiên cứu, sản xuất giống phục vụ cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021 – 2030.

Mới đây, ngày 28/5/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 703/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Phát triển nghiên cứu, sản xuất giống phục vụ cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021-2030, giao Bộ Nông nghiệp và PTNT chủ trì thực hiện Chương trình.

Với mục tiêu chung là nâng cao năng lực nghiên cứu, sản xuất giống cây nông lâm nghiệp, giống vật nuôi và giống thủy sản theo hướng công nghiệp hiện đại nhằm cung cấp đủ giống có chất lượng cho sản xuất; góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng trung bình toàn ngành giai đoạn 2021-2030 từ 2,7-3%/năm; kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2025 đạt 50-55 tỷ USD, năm 2030 đạt 55-60 tỷ USD; thực hiện có hiệu quả định hướng cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.

Theo đó, đến năm 2030, ngành trồng trọt đảm bảo sử dụng 90% giống lúa xác nhận và hạt lai F1; sử dụng giống ngô lai đạt trên 95%; 100% diện tích (chè, cao su, chuối), 80-90% diện tích (cà phê, điều), 70-80% diện tích (cam, bưởi), 40-50% diện tích (hồ tiêu, sắn) trồng mới được sử dụng giống đúng tiêu chuẩn; trên 95% giống nấm được sử dụng đạt tiêu chuẩn cấp 1; sản xuất giống rau trong nước đáp ứng 25-30% nhu cầu. Ngành lâm nghiệp, tỷ lệ cây giống cung cấp cho trồng rừng được kiểm soát nguồn gốc giống đạt 95%. Ngành chăn nuôi đảm bảo cung cấp giống tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất đối với lợn đạt 95%, gia cầm đạt 85-90%. Ngành thủy sản đảm bảo chủ động cung cấp 100% nhu cầu giống cho đối tượng thủy sản nuôi chủ lực; tôm thẻ chân trắng bố mẹ được sản xuất trong nước đáp ứng 30% nhu cầu; 100% giống tôm thẻ chân trắng, 100% giống cá tra và 50-60% giống tôm sú được kiểm soát chất lượng và sạch một số bệnh.

Chương trình tập trung vào 3 nhiệm vụ chính là (i) phát triển khoa học công nghệ về giống (bao gồm bảo tồn, lưu giữ nguồn gen, nuôi giữ giống gốc, chọn tạo giống); (ii) phát triển sản xuất giống; (iii) hoàn thiện hệ thống giống và ưu tiên triển khai thực hiện trên những đối tượng cây trồng, vật nuôi chủ lực quốc gia theo văn bản quy định của cấp có thẩm quyền. Đối với các cây trồng, vật nuôi khác; căn cứ yêu cầu thực tiễn, các bộ và địa phương xem xét, quyết định hỗ trợ theo chính sách của Chương trình này trong từng giai đoạn cụ thể.

Chương trình được triển khai thực hiện trên quy mô cả nước. Nguồn ngân sách Trung ương ưu tiên đầu tư, hỗ trợ đầu tư cho các cơ quan Trung ương và các địa phương chưa tự cân đối ngân sách; những địa phương đã tự cân đối ngân sách, chủ động tổ chức thực hiện đầu tư các dự án theo mục tiêu, nội dung Chương trình.

Thời gian thực hiện Chương trình từ năm 2021 đến hết năm 2030, chia theo 2 kỳ kế hoạch (2021 – 2025 và 2026 – 2030). Tổng mức vốn thực hiện Chương trình là 103.050 tỷ đồng.

Tại cuộc họp, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh cho biết, tính mới của chương trình lần này là nếu trước kia chỉ tập trung vào lưu giữ giống gốc, phát triển giống chủ yếu ở khối công lập như các viện, trường thì sang giai đoạn tới sẽ đầu tư sâu cho khối doanh nghiệp, tư nhân, thiết kế theo chuỗi từ nguồn gen phục vụ chọn tạo đến chương trình chọn tạo giống cho những đối tượng chủ lực phục vụ tái cơ cấu.

Thứ hai là chương trình sẽ huy động đa dạng nguồn lực của xã hội với cơ cấu vốn rất rõ phần nào của trung ương, của địa phương đặc biệt là của các doanh nghiệp và các thành phần khác kể cả nông dân.
Về những tồn tại hiện nay, trực tiếp Thứ trưởng đã đi khảo sát và chỉ đạo Cục Trồng trọt phối hợp với các đơn vị, các địa phương để làm sao kiểm soát được tính đúng giống và chất lượng của giống cây dài ngày đặc biệt là cây ăn quả có múi: “Không thể để cho tình trạng nhà nhà, người làm giống như hiện nay mà phải có chứng nhận cho các vườn ươm và phải thanh tra, kiểm tra được việc này.

Giai đoạn tới, Bộ sẽ đầu tư cho các viện nghiên cứu, các trung tâm giống của các địa phương để có hệ thống sản xuất theo đúng chuẩn từ vườn giống gốc đến các mắt ghép đảm bảo khi xuất bán cây giống phải hoàn toàn sạch bệnh, đặc biệt là bệnh do virus”.

(Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)

Ngành Khoa học và Công nghệ bàn giải pháp giúp doanh nghiệp, người dân phục hồi sản xuất

Phát biểu tại Hội nghị Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) ngày 29/5/2020, Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh đánh giá cao những kết quả hoạt động KH&CN trong cả nước thời gian qua đã kịp thời có những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người dân ứng phó thành công với đại dịch Covid-19. Rất nhiều công việc, địa phương đã thể hiện tính chủ động, đi đầu giải quyết, hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân phục hồi và phát triển sản xuất khi dịch Covid-19 được khống chế. Bộ trưởng cũng đánh giá cao ý kiến của Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đã tham mưu cho ngành KH&CN những công việc rất cụ thể trong thời gian tới.
 

 

Tham dự Hội nghị có đồng chí Chu Ngọc Anh, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN; đồng chí Phạm Công Tạc, Thứ trưởng Bộ KH&CN; đồng chí Lê Xuân Định, Thứ trưởng Bộ KH&CN; đồng chí Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội DNNVV và vừa Việt Nam;

Tại Điểm cầu của các Địa phương: đồng chí Lê Văn Quý, Phó Chủ tịch UBND Tỉnh Điện Biên; đồng chí Lâm Thị Sang, Phó Chủ tịch UBND Tỉnh Bạc Liêu; đại diện lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ KH&CN;

Tham dự hội nghị còn có Ban Giám đốc Sở và lãnh đạo các phòng, ban, đơn vị thuộc Sở KH&CN của 63 tỉnh, thành phố và đại diện Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa của các địa phương, các cơ quan thông tấn báo chí trung ương và địa phương.

KH&CN: chủ động, đi đầu, phát huy thế mạnh
 

Thứ trưởng Phạm Công Tạc phát biểu tại Hội nghị.

 Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Phạm công Tạc cho biết, năm 2019 hoạt động khoa học và công nghệ của toàn ngành nói chung và của các địa phương nói riêng, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Mặc dù nền kinh tế thế giới bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19 nhưng Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng dương. Để duy trì sản xuất, phục vụ phát triển KT-XH trong năm 2020 và những năm tiếp theo thì vai trò của KH&CN, vai trò của Hiệp hội DNNVV rất quan trọng.

 “Hội nghị trực tuyến hôm nay, Bộ KH&CN, Hiệp Hội DNVVN cùng các địa phương tập trung trao đổi, thảo luận và thống nhất hành động thực hiện một số giải pháp KH&CN mang tính cấp bách để hỗ trợ, phục vụ doanh nghiệp, người dân phục hồi và phát triển sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm” – Thứ trưởng chia sẻ.

Theo ông  Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội DNNVV, Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc việc ngăn chặn và kiểm soát đại dịch Covid-19, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, người dân đều đã được khôi phục trở lại bình thường. Đây là thắng lợi của cả nước đặc biệt là của Bộ KH&CN. Có thể thấy, tác động của KH&CN trong giai đoạn Covid-19 là rất đáng kể, hỗ trợ nhiều cho doanh nghiệp, người dân và người lao động trong công việc và sinh hoạt hàng ngày như trao đổi thông tin, giảng dạy, mua sắm và thanh toán trực tuyến…

Đại diện cộng đồng DNNVV, ông Nguyễn Văn Thân cũng chỉ ra hai cơ hội tốt bứt phá nền kinh tế sau đại dịch, trong đó đều gắn liền với vai trò của ngành KH&CN. Theo ông Thân, trong tình hình hội nhập kinh tế thế giới mà trong đó vai trò của KH&CN là vô cùng quan trọng như việc thúc đẩy ứng dụng KH&CN để kích thích tiêu dùng nội địa, vai trò của quản lý nhà nước trong truy xuất nguồn gốc, những vướng mắc trong cộng đồng doanh nghiệp đối mặt khi đăng ký quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) cũng như những khó khăn của các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và nghị định 13 về hỗ trợ doanh nghiệp… là rất cần thiết.
 

Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính (Bộ KH&CN) Nguyễn Nam Hải phát biểu tại Hội nghị.
 

Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ Đinh Hữu Phí phát biểu tại Hội nghị.
 

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Nguyễn Hoàng Linh phát biểu tại Hội nghị. 

Tại Hội nghị, đại diện một số đơn vị thuộc Bộ đã có những báo cáo liên quan đến một số nhiệm vụ trọng tâm gắn với hoạt động KH&CN địa phương tập trung vào: Hoạt động phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo và phát triển doanh nghiệp KH&CN; Những nội dung trọng tâm về sở hữu trí tuệ liên quan đến hoạt động của các Sở Khoa học và Công nghệ; Các nội dung về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) đề xuất đưa vào báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ tỉnh, thành phố nhiệm kỳ 2020-2025; Một số nhiệm vụ trọng tâm về hoạt động tiêu chuẩn đo lương chất lượng của địa phương trong giai đoạn tới.

Nhiều Giám đốc Sở KH&CN đã đánh giá cao những nỗ lực của Bộ KH&CN trong việc tạo hành lang pháp lý cho KH&CN phát triển, đặc biệt thể hiện cao độ trong tình hình dịch bệnh Covid-19. Đề xuất, kiến nghị nhằm ”hiến kế” tháo gỡ những khó khăn trong hoạt động KH&CN tại địa phương liên quan liên đến giải pháp phát triển doanh nghiệp KH&CN theo Nghị định 13; việc thực hiện Quyết định số 100/QĐ-TTg ngày 09/01/2019 về phê duyệt Đề án triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc. Đề xuất những giải pháp để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh trong thời gian tới,….

Những vấn đề liên quan đến Chương trình nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa. Đặc biệt là Công tác phối hợp với Hiệp hội DNNVV Việt Nam và Hiệp hội DNNVV các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để triển khai Đề án 100 và các nhiệm vụ hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới, ứng dụng công nghệ;

Nhiều ý kiến cũng đề xuất có phương án cụ thể triển khai Chiến lược Sở hữu trí tuệ đến năm 2030 và giải quyết khó khăn vướng mắc trong hoạt động bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho các sản phẩm OCOP, sản phẩm chủ lực, đặc hữu…; Triển khai đề án 844 và hỗ trợ cho nhóm doanh nghiệp hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp KH&CN; Tìm kiếm các giải pháp huy động nguồn lực đầu tư cho KH&CN, nhất là từ doanh nghiệp; Nội dung nhiệm vụ và giải pháp về KH,CN&ĐMST trong văn kiện Đại hội Đảng bộ cấp tỉnh, thành phố nhiệm kỳ 2020-2025, các nghị quyết/chương trình/đề án/kế hoạch… để triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ cấp tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025; Nội dung trọng tâm trong xây dựng kế hoạch KH&CN năm 2021 và giai đoạn 2021-2025.

Bên cạnh đó, nhiều địa phương cũng có những bài học trong triển khai hoạt động KH&CN tại địa bàn, mỗi bài học kinh nghiệm đều thể hiện sự sinh động sáng tạo vượt qua mọi khó khăn như: tỉnh Bến Tre triển khai Quyết định 100 về truy xuất nguồn và Chương trình hỗ trợ Doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; phát triển không gian khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo tại địa phương; Thanh Hóa là sự chủ động tham mưu cho lãnh đạo tỉnh ban hành cơ chế, chính sách KH,CN & ĐMST; Phú Thọ về các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn đo lường chất lượng, truy xuất nguồn gốc sản phẩm; Quảng Ninh  hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng KH&CN, bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ, hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực, sản phẩm OCOP ở địa phương, đề xuất kiến nghị giải pháp; Hà Nội  đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp khoa học và công nghệ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thủ đô…

Tạo điều kiện tối đa cho hoạt động KH,CN&ĐMST
 

Bộ trưởng Chu Ngọc Anh phát biểu tại Hội nghị. 

Chủ trì Hội nghị, Bộ trưởng Bộ KH&CN đánh giá cao những kết quả hoạt động KH&CN trong cả nước thời gian qua. Rất nhiều công việc, địa phương đã thể hiện tính chủ động, đi đầu giải quyết, đưa KH&CN chuyển động gắn sang phục vụ và đồng hành, đúng với thông điệp tại Lễ kỷ niệm Ngày KH&CN 18/5, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam nhận định: khi đất nước đứng trước những thách thức, khoa học và công nghệ đã chứng minh vai trò quan trọng trên tuyến đầu.

Bộ trưởng cho rằng, với trách nhiệm tham mưu cho lãnh đạo tỉnh về hoạt động KH&CN, các lãnh đạo Sở KH&CN ở địa phương đã vượt qua khó khăn, thể hiện vai trò tham mưu của mình. Hiện có rất nhiều tỉnh ban hành nghị quyết, chương trình, kế hoạch triển khai các nghị quyết của Trung ương về chủ trương, chính sách hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nghiệp, xác định doanh nghiệp là trung tâm của hoạt động đổi mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng hương hiệu và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, áp dụng các tiêu chuẩn đo lường chất lượng tiên tiến, phát triển sản phẩm chủ lực, sản phẩm có lợi thế phát triển của địa phương. Có thể thấy KH&CN theo cùng để giải quyết bài toán tốt nhất cho các ngành, lĩnh vực.

Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động KH&CN địa phương trong thời gian tới, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho rằng, cần chú trọng một số vấn đề trọng tâm như: các Sở KH&CN cần chủ động tham mưu, đề xuất cho Tỉnh ủy, Thành ủy, HĐND, UBND cấp tỉnh tổ chức thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp khoa học và công nghệ hỗ trợ cho doanh nghiệp và người dân phục hồi nhanh chóng sản xuất, khắc phục mọi khó khăn do dịch bệnh gây ra. Đặc biệt là tháo gỡ các vướng mắc liên quan đến hoạt đông tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sở hữu trí tuệ; khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, cơ chế ưu đãi doanh nghiệp theo Nghị định 13…

“Bộ KH&CN sẽ luôn luôn đồng hành, sát cánh cùng các địa phương để tháo gỡ những khó khăn, hạn chế, đồng thời khai thác thế mạnh của từng địa phương trong hoạt động KH&CN nhằm thúc đẩy hoạt động KH&CN mạnh mẽ hơn trong thời gian tới”, Bộ trưởng khẳng định.

Đối với Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam Bộ Khoa học và Công nghệ đề nghị Hiệp hội là đầu mối cung cấp thông tin, phản ánh nhu cầu, tổng hợp đề xuất những kiến nghị, từ đó đưa ra bài toán cụ thể,  đề xuất và phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ trong việc hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi sát cánh cùng cộng đồng doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, phát triển sản xuất kinh doanh.

Bộ trưởng cũng giao nhiệm vụ cho các các đơn vị trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ khẩn trương có các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở địa phương phát triển đúng như Kết luận số 50-Kết luận số 50-KL/TW gồm: Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền; Rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật về đầu tư, tài chính và doanh nghiệp, bảo đảm đồng bộ với các quy định pháp luật về KH&CN; Tái cơ cấu các chương trình KHCN quốc gia, nâng cao năng lực ứng dụng KH&CN; Phát triển tiềm lực KH&CN; Tiếp tục thúc đẩy phát triển mạnh thị trường KH&CN và hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về KH&CN.

Tại Hội nghị, Bộ trưởng cũng Chúc mừng các Giám đốc Sở KH&CN mới nhận nhiệm vụ và cảm ơn các đồng chí Giám đốc Sở KH&CN nghỉ hưu hoặc chuyển công tác.

(Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN)

Tỉnh Đắk Lắk sức hút canh tác giống lúa ST24 mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Từ giải thưởng “Gạo ngon nhất thế giới” tại cuộc thi World’s Best Rice lần thứ 11 (tổ chức tại Phillippines), gạo ST24, ST25 của Việt Nam đang có sức hút mạnh trên thị trường. Nắm bắt cơ hội này, nhiều đơn vị hợp tác xã (HTX) nông nghiệp tại các vùng đất lúa trên địa bàn tỉnh đã bắt tay sản xuất giống ST24 và đạt được hiệu quả kinh tế cao.

Cán bộ Phòng NN-PTNT huyện Ea Súp cùng HTX Giảm nghèo Ea Súp kiểm tra chất lượng lúa ST24 trồng thử nghiệm theo phương pháp hữu cơ.

Hơn 3 năm trước, HTX Dịch vụ nông nghiệp Nhật Minh thuộc huyện Krông Ana tỉnh Đắk Lắk đã bắt đầu nhận canh tác lúa ST24 theo đặt hàng của đơn vị cung ứng giống. Lúc bấy giờ, lúa ST24 còn khá mới mẻ và chưa được nhiều người biết đến nên phía cung ứng chỉ tạm gọi là “RVT thế hệ mới” và bao tiêu với giá ngang bằng với giá lúa RVT. Giống lúa này có đặc điểm hạt thuôn dài, chất lượng gạo thơm ngon, năng suất canh tác tại vùng chuyên canh lúa nước của HTX cao hơn hẳn so với lúa RVT, lên đến 11 tấn lúa tươi/ha (RVT đạt bình quân 9,5 tấn lúa tươi/ha).

Sau vụ lúa thử nghiệm thành công ngoài mong đợi, HTX dần mở rộng diện tích canh tác lúa ST24. Giá lúa ST24 dần tăng cao so với các giống lúa lai khác giúp nông dân thêm phần yên tâm, phấn khởi. Ông Nguyễn Văn Tưởng, Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp Nhật Minh nhận xét, so với các giống lúa mà đơn vị từng canh tác trước đây, giống ST24 thích ứng tốt, không phát sinh sâu bệnh đáng kể, nhất là không thấy xuất hiện bệnh hoa cúc thường gây thiệt hại cho bà con trong vụ hè thu. Nhận thấy đặc tính kháng sâu bệnh cao của giống lúa này, vụ hè thu năm 2019, HTX đã chuyển đổi 2 ha từ canh tác truyền thống sang sử dụng hoàn toàn các biện pháp hữu cơ, sinh học với định hướng xây dựng thương hiệu gạo riêng cho HTX. Thời điểm thu hoạch, gạo ST24 lại được người tiêu dùng “săn đón” sau hiệu ứng từ Giải thưởng “Gạo ngon nhất thế giới” của gạo ST25 (do gạo ST25 chưa có mặt trên thị trường). Vì vậy, toàn bộ sản lượng gạo ST24 sản xuất theo quy trình hữu cơ của HTX nhanh chóng được tiêu thụ hết với giá cao, nhiều đơn vị đặt hàng cung ứng lâu dài.

Vụ đông xuân 2019 – 2020, các thành viên của HTX Dịch vụ nông nghiệp Nhật Minh triển khai 15 ha lúa hữu cơ và hơn 270 ha lúa canh tác theo quy trình thông thường. Trong đó, lúa ST24 hữu cơ được thu mua cao hơn 1.000 đồng/kg, giúp thành viên được hưởng lợi trực tiếp từ việc ứng dụng quy trình sản xuất an toàn, bền vững. Bước đầu, HTX cũng đã thuê kỹ sư nông nghiệp soạn quy trình hữu cơ riêng cho đơn vị, đồng hành giám sát quá trình sản xuất để xây dựng giá trị riêng cho thương hiệu gạo của HTX. Đây là những bước đi quan trọng để HTX quy hoạch riêng vùng sản xuất hữu cơ trên cánh đồng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các đối tượng khách hàng khó tính.

Tại cánh đồng xã Ya Tờ Mốt (huyện Ea Súp) giống lúa ST24 cũng vừa được HTX Giảm nghèo Ea Súp trồng thành công theo hướng sản xuất hữu cơ. Ngay sau khi hay tin gạo ST24, ST25 đạt thành công lớn tại cuộc thi World’s Best Rice lần thứ 11, HTX Giảm nghèo Ea Súp đã cử thành viên cùng nông dân đến tận nhà của Kỹ sư Hồ Quang Cua (tỉnh Sóc Trăng) để tìm hiểu quy trình canh tác và mua lúa giống. Tại đây, các thành viên trong đoàn được mời dùng thử 3 đĩa cơm nấu từ gạo ST21, ST24 và ST25 chỉ ký hiệu bằng số thứ tự để mọi người cùng chọn ra đĩa cơm ngon nhất. Điều trùng hợp là hầu hết mọi người đều lựa chọn đĩa cơm được nấu từ gạo ST24 bởi hạt cơm ngọt, thơm, dẻo, mềm dù không thay đổi kích thước nhiều sau khi nấu chín.

Sau chuyến đi ấy, HTX Giảm nghèo Ea Súp đã triển khai canh tác 2,5 ha lúa ST24 theo hướng hữu cơ và liên kết với HTX Nông nghiệp dịch vụ Thành Công (huyện Ea Súp) trồng 25 ha lúa ST24 theo quy trình thông thường trong vụ đông xuân 2019 – 2020. Năng suất thử nghiệm lúa ST24 trồng theo quy trình thông thường tại cánh đồng xã Ya Tờ Mốt không thua kém các giống lúa lai khác, đạt trên 7,5 tấn lúa khô/ha. Với mô hình canh tác hữu cơ, lúa ST24 thích ứng và sinh trưởng tốt, không phát sinh sâu bệnh hại và mặc dù năng suất chỉ đạt khoảng 75% so với canh tác theo quy trình thông thường, nhưng chất lượng gạo sau khi nấu chín thơm ngon hơn hẳn.

Toàn bộ sản lượng lúa ST24 đều được HTX Giảm nghèo Ea Súp cung ứng cho đối tác ở thị trường các tỉnh, thành phía Bắc và kênh bán hàng riêng của đơn vị. Nhờ đó, HTX đã bao tiêu cho nông dân với giá cao hơn các giống lúa khác cùng thời điểm. Ông Nguyễn Thái Sơn, Giám đốc HTX Giảm nghèo Ea Súp cho biết, kết quả đáng mừng trên là tiền đề quan trọng để HTX xây dựng chuỗi sản xuất lúa gạo chất lượng cao tại huyện Ea Súp, tiếp tục mở rộng diện tích canh tác lúa ST24, nhất là lúa canh tác theo quy trình hữu cơ.

Có thể thấy, với nhiều ưu điểm vượt trội về chất lượng gạo, tính thích ứng cùng khả năng chống chịu sâu bệnh cao, lúa ST24 đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt tại những vùng chuyên canh lúa nước trên địa bàn tỉnh. Đây là cơ hội “vàng” để các HTX nông nghiệp vùng lúa đầu tư nâng cao giá trị, xây dựng uy tín, thương hiệu để nắm bắt nhu cầu lúa gạo chất lượng cao của thị trường nội địa còn nhiều tiềm năng hiện nay.

(Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)

Nhiều hoạt động trong bảo đảm chất lượng, an toàn nông sản năm 2020

Thực hiện chỉ đạo của UBND thành phố, Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản Hà Nội vừa ban hành Công văn số 38/QLCL-CBTN, đề nghị UBND các quận, huyện, thị xã phối hợp trong công tác bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm (ATTP) nông sản năm 2020.

Để nâng cao hiệu quả công tác phối hợp quản lý nhà nước về ATTP, hỗ trợ phát triển các chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp an toàn năm 2020, Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản đề nghị UBND các quận, huyện, thị xã chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền bảo đảm ATTP trên địa bàn. Trong đó, nội dung tuyên truyền về các quy định bảo đảm an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng thực phẩm nông sản.

Về hình thức tuyên truyền, các UBND các quận, huyện, thị xã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc tuyên truyền có thể bằng Pano treo tại chợ đầu mối, chợ dân sinh, nơi tập trung đông dân cư, cơ sở sản xuất, kinh doanh; tờ rơi tuyên truyền phát cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng thực phẩm nông sản. Thời gian tập trung tuyên truyền trong quý II và III/2020.

Bên cạnh đó, UBND các quận, huyện, thị xã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn trên địa bàn tập trung tập huấn kiến thức cho người quản lý, người sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng thực phẩm nông sản. Nội dung tập huấn về nghiệp vụ quản lý, kiến thức chất lượng ATTP nông sản cho cán bộ làm công tác quản lý các cấp; tập huấn các quy định về bảo đảm ATTP cho đối tượng các cơ sở sản xuất, sơ chế, chế biến kinh doanh sản phẩm nông sản; tập huấn kiến thức ATTP cho người tiêu dùng thực phẩm.

Song song với giám sát, cảnh báo nguy cơ về chất lượng, ATTP nông sản, Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản Hà Nội đề nghị UBND các quận, huyện, thị xã hỗ trợ, phát triển các cơ sở, chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông sản an toàn. Về việc này, Chi cục sẽ phối hợp với Phòng Kinh tế các quận, huyện, thị xã đề xuất, khảo sát, lựa chọn các cơ sở sản xuất, kinh doanh có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; sản xuất, kinh doanh các sản phẩm trong danh mục sản phẩm nông nghiệp chủ lực của thành phố, tham gia các chuỗi sản xuất, tiêu thụ nông sản an toàn; có giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP, cam kết bảo đảm ATTP và có nhu cầu nâng cao công tác bảo đảm ATTP, minh bạch thông tin truy xuất nguồn gốc, xây dựng và phát triển nhãn hiệu sản phẩm của cơ sở.

Ngoài ra, đề nghị UBND các quận, huyện, thị xã phối hợp chặt chẽ trong công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm bảo đảm ATTP nông sản trên địa bàn, đặc biệt trong hoạt động thanh tra, kiểm tra đột xuất.

(Nguồn: Cổng Giao tiếp điện tử thành phố Hà Nội)

Triển khai kế hoạch đẩy mạnh phát triển chuỗi cung cấp rau, thịt, nông sản an toàn

 

Ngày 24/4, UBND thành phố Hà Nội ban hành kế hoạch số 88/KH-UBND về việc đẩy mạnh phát triển chuỗi cung cấp rau, thịt, nông sản an toàn.

Theo đó, UBND thành phố giao Sở Nông nghiệp và PTNT chủ trì, tham mưu, xây dựng ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai thực hiện cơ chế, chính sách xây dựng và phát triển chuỗi, khuyến khích tiêu thụ sản phẩm an toàn theo chuỗi trên địa bàn Thành phố. Tổ chức đào tạo, đào tạo nâng cao cho cán bộ quản lý an toàn thực phẩm các cấp nhằm trang bị đầy đủ kiến thức để tổ chức triển khai xây dựng, phát triển chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ nông, lâm, thủy sản an toàn.

Tuyên truyền, thực hiện hiệu quả các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, phát triển sản xuất, hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, áp dụng thực hành nông nghiệp tốt, hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm. Xây dựng mới và tiếp tục triển khai các chương trình, đề án, dự án, mô hình về phát triển nông nghiệp được phê duyệt gắn với việc xây dựng và phát triển chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ nông, lâm, thủy sản an toàn.

Xây dựng, hỗ trợ phát triển chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ nông, lâm, thủy sản kết hợp với thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, khuyến khích phát triển Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP), sản phẩm chủ lực thành phố, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, thực hành nông nghiệp tốt, chương trình quản lý chất lượng tiên tiến, xây dựng hạ tầng nông thôn thành phố Hà Nội, chính sách hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Về các nội dung tập trung hỗ trợ phát triển chuỗi liên kết sản xuất, sơ chế, chế biến, tiêu thụ nông, lâm, thủy sản an toàn, thành phố sẽ hỗ trợ tư vấn thúc đẩy liên kết trong chuỗi giá trị; Tập huấn chuyên sâu về công nghệ, kỹ thuật sản xuất, tiêu chuẩn, chất lượng, chiến lược phát triển sản phẩm theo chuỗi giá trị; Hỗ trợ phát triển thương hiệu, truyền thông, quảng bá; Hỗ trợ kỹ thuật nâng cao tiêu chuẩn, chất lượng, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các chuỗi.

Phối hợp 21 tỉnh, thành phố trong Ban điều phối chuỗi cung cấp rau, thịt an toàn cho thành phố Hà Nội và các tỉnh, thành phố trên toàn quốc xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại, kết nối chuỗi cung cấp rau, thịt, nông sản an toàn giữa các cơ sở sản xuất, kinh doanh của Hà Nội và các tỉnh, thành phố.

Tiếp tục phát triển Hệ thống truy xuất nguồn gốc nông, lâm, thủy sản thực phẩm thành phố Hà Nội, ứng dụng hệ thống phần mềm thông tin điện tử sử dụng mã QR trong quản lý, nhận diện và truy xuất nguồn gốc đối với các sản phẩm nông, lâm, thủy sản, tiếp tục nâng cao tỷ lệ ứng dụng hệ thống thông tin điện tử trong truy xuất nguồn gốc đảm bảo an toàn thực phẩm theo chuỗi tập trung vào sản phẩm nguy cơ cao như rau, củ, trái cây, thịt, thủy sản.

Bình An

(Nguồn: Cổng thông tin điện tử thành phố Hà Nội https://hanoi.gov.vn/)

 

Thúc đẩy hợp tác phát triển nông nghiệp, thương mại nông sản giữa Việt Nam và Trung Quốc

Ngày 16/4, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) Nguyễn Xuân Cường đã có buổi tiếp và làm việc với Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Hùng Ba nhằm thúc đẩy hợp tác phát triển nông nghiệp, thương mại nông sản giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Toàn cảnh buổi làm việc

 

Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, do tác động của dịch COVID-19, thương mại nông, lâm, thủy sản giữa Việt Nam và Trung Quốc những tháng đầu năm nay đã giảm khoảng 7% so với cùng kỳ năm ngoái.

Để phòng chống dịch bệnh, hai bên đã tăng cường thắt chặt kiểm soát nên tốc độ thông quan hàng hóa rất chậm. Ngoài thương mại nông sản, các đoàn làm việc cấp cao giữa hai Bộ của hai nước cũng đang bị gián đoạn so với kế hoạch. Các hoạt động về mở cửa thêm các sản phẩm, cũng như các hội chợ lớn về nông, lâm, thủy sản ở Trung Quốc đang bị gián đoạn.

Hiện Trung Quốc đã cấp phép xuất khẩu cho 9 mặt hàng rau quả của Việt Nam. Hai bên đang hoàn thiện thủ tục ký cấp phép thêm cho 8 mặt hàng nông sản.

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho biết Việt Nam đã gửi hồ sơ sang phía Trung Quốc và Bộ trưởng đề nghị Đại sứ tiếp tục hỗ trợ tích cực để trong hoàn cảnh hiện nay chưa làm việc được trực tiếp, có những hình thức trao đổi gián tiếp, thông qua online, văn bản giải quyết những vấn đề kỹ thuật, đáp ứng mong muốn chung của hai bên.

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường mong muốn, những thủ tục hành chính có thể được thực hiện nhanh nhất để có thêm các nông sản Việt Nam được chính thức vào thị trường Trung Quốc. Từ đó, góp phần thúc đẩy thương mại hai chiều cũng như thúc đẩy nông nghiệp của hai bên.

Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Hùng Ba cho biết, Việt Nam là đối tác thương mại quan trọng và lớn nhất của Trung Quốc trong khu vực ASEAN, chiếm 25% tỷ trọng thương mại của Trung Quốc với ASEAN.

Hai bên cần tăng cường hợp tác phát triển nông nghiệp công nghệ cao và chế biến sâu, thương mại điện tử để nâng cao nguồn thu cho nông dân. Do đó, Trung Quốc mong muốn nâng cao thương mại nông nghiệp giữa hai nước theo ngành nghề.

Với những khó khăn về thông quan hàng hóa, tình trạng ù ứ tại cửa khẩu những ngày gần đây, Đại sứ cho biết Trung Quốc cũng rất coi trọng vấn đề này và tin tưởng chỉ mang tính tạm thời. Hai bên cùng nỗ lực sẽ vượt qua thời điểm khó khăn này. Đại sứ Hùng Ba đồng ý quan điểm, một mặt nghiêm ngặt kiểm soát dịch bệnh, một mặt thúc đẩy giao thương, phát triển kinh tế.

Hiện áp lực của Trung Quốc với tình hình dịch bệnh lây làn từ ngoài vào cũng như trong nước vẫn rất cao nên việc kiểm soát tại các cửa khẩu biên giới giữa Trung Quốc với các nước đều được thực hiện nghiêm ngặt. Đại sứ Hùng Ba cho biết ngành hải quan Trung Quốc cũng có nhiều biện pháp rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa. Đại sứ cũng đề xuất Việt Nam có thể mở rộng bãi xe hàng hóa để có đủ không gian điều phối xe đi lại; phân luồng, giảm sức ép tại các cửa khẩu như Tân Thanh, Hữu Nghị. Hàng hóa không nên tập trung vào một cửa khẩu mà có thể sử dụng đường sắt Đồng Đăng-Bằng Tường. Kênh đường sắt có nhiều ưu thế với sức chứa hàng hóa lớn, chi phí thấp. 

Để nâng cao tính hiệu quả thông quan, Đại sứ đề xuất Việt Nam nên thực hiện kiểm soát bằng cách gắn chip điện tử vào các xe chuyển hàng. Các lái xe Việt Nam có thể khai báo điện tử. Hiện thời gian làm việc có hạn, trong khi thời gian khai báo sức khỏe chiếm khá lâu. Các lái xe có thể khai báo trước giờ để nâng cao hiệu quả hơn, tránh phải xếp hàng lâu do khai báo bằng giấy. Đại sứ Hùng Ba cũng đề nghị Việt Nam tăng thêm các lối cho các xe đi vào.

Trước những kiến nghị của Đại sứ, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho biết, Việt Nam sẽ phải giải quyết tốt hơn những vấn đề từ sân bãi, quy trình kỹ thuật về thương mại, ứng dụng công nghệ thông tin… để quá trình hải quan được thông quan nhanh nhất. Bộ trưởng cũng kiến nghị với phía Trung Quốc kéo dài thời gian thông quan một số cửa khẩu vì hiện cá biệt một vài cửa khẩu thông quan 5-6 tiếng. Bên cạnh đó, hai bên cần đầu tư nguồn nhân lực, bởi nếu thời gian thông quan kéo dài trong khi nguồn nhân lực các khâu của hai bên không đảm bảo thì vẫn chậm tiến độ.

Tại cuộc họp hai bên đều thống nhất sẽ cố gắng tập trung những nhóm giải pháp cao nhất liên quan đến hải quan, các ngành, địa phương của hai bên để trong thời gian sớm nhất có thể giải quyết được ùn tắc về nông sản. Hai bên đều đánh giá khi đã khống chế được dịch bệnh có thể tập trung tăng tốc đẩy mạnh thương mại để kim ngạch xuất nhập khẩu hai bên cao hơn năm 2019.

(Nguồn: Bộ NN&PTNT)

Giảm thiểu tác động của COVID-19 đối với thương mại và thị trường thực phẩm

Đây là tuyên bố chung của Tổng giám đốc Tổ chức Lương Nông Liên hiệp quốc (FAO) QU Dongyu, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) Tedros Adhanom Ghebreyesus và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) Roberto Azevedo.

 

Hàng triệu người trên thế giới phụ thuộc vào thương mại quốc tế để đảm bảo an ninh lương thực và sinh kế. Khi các quốc gia ban hành các biện pháp nhằm ngăn chặn đại dịch COVID-19 đang gia tăng, cần phải thận trọng để giảm thiểu tác động tiềm ẩn đối với nguồn cung thực phẩm hoặc hậu quả không lường trước được đối với thương mại và an ninh lương thực toàn cầu.

Khi hành động để bảo vệ sức khỏe và hạnh phúc của người dân, các quốc gia cần đảm bảo rằng mọi biện pháp liên quan đến thương mại không làm gián đoạn chuỗi cung ứng thực phẩm. Những gián đoạn bao gồm cản trở sự di chuyển của các công nhân nông nghiệp và thực phẩm, kéo dài sự chậm trễ ở biên giới đối với hàng hóa dẫn đến sự hư hỏng của thực phẩm và làm gia tăng lãng phí thực phẩm. Hạn chế thương mại thực phẩm cũng có thể được liên kết với mối quan tâm phi lý về an toàn thực phẩm. Nếu một kịch bản như vậy xảy ra sẽ phá vỡ chuỗi cung ứng thực phẩm, với những hậu quả đặc biệt rõ rệt đối với những người dễ bị tổn thương và những người không đủ ăn.

Bất ổn về nguồn thực phẩm sẵn có có thể châm ngòi cho một làn sóng hạn chế xuất khẩu, tạo ra sự thiếu hụt trên thị trường toàn cầu. Những phản ứng như vậy có thể làm thay đổi cân bằng cung và cầu thực phẩm, dẫn đến tăng giá và biến động giá. Chúng tôi đã học được từ các cuộc khủng hoảng trước đây rằng các biện pháp như vậy đặc biệt gây tổn hại cho các nước thu nhập thấp, thiếu lương thực và các nỗ lực của các tổ chức nhân đạo trong việc mua thực phẩm cho những người có nhu cầu cấp thiết.

Chúng ta phải ngăn chặn sự lặp lại của các biện pháp gây tổn hại như vậy. Chính những lúc như thế này, hợp tác quốc tế trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Giữa các lần giãn cách xã hội vì COVID-19, mọi nỗ lực phải được thực hiện để đảm bảo hoạt động giao dịch diễn ra tự do nhất có thể, đặc biệt tránh thiếu lương thực. Tương tự, điều tối quan trọng là các nhà sản xuất thực phẩm và công nhân ở khâu chế biến và bán lẻ được bảo vệ để giảm thiểu sự lây lan của bệnh và duy trì chuỗi cung ứng thực phẩm. Người tiêu dùng, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương nhất, phải được duy trì khả năng tiếp cận thực phẩm trong cộng đồng theo các yêu cầu an toàn nghiêm ngặt.

Chúng tôi cũng phải đảm bảo rằng thông tin về các biện pháp thương mại liên quan đến thực phẩm, mức độ sản xuất, tiêu thụ và nguồn cung dự trữ, cũng như về giá cả lương thực luôn có sẵn cho tất cả mọi người trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội. Điều này làm giảm lo ngại và cho phép các nhà sản xuất, người tiêu dùng và thương nhân đưa ra quyết định sáng suốt. Trên hết, điều này giúp hạn chế ‘mua hoảng loạn ‘và tích trữ thực phẩm và các mặt hàng thiết yếu khác.

Bây giờ là lúc để thể hiện sự đoàn kết, hành động có trách nhiệm và tuân thủ mục tiêu chung của chúng tôi là tăng cường an ninh lương thực, an toàn thực phẩm và dinh dưỡng, cải thiện phúc lợi chung của tất cả người dân trên toàn thế giới. Chúng tôi phải đảm bảo rằng phản ứng của chúng tôi với COVID-19 không vô tình tạo ra sự thiếu hụt không đáng có các mặt hàng thiết yếu và làm trầm trọng thêm tình trạng đói và suy dinh dưỡng.

(Nguồn: Bộ NN&PTNT)

Cú sốc Covid-19 đánh thẳng vào nông dân

Trong nhiều ngày qua, cùng với những hình ảnh mùa màng đến kỳ thu hoạch bị bỏ không do thiếu nhân công lao động ở nhiều các quốc gia từ châu Á sang châu Âu cho đến châu Mỹ thì ngay cả khi nông sản đã thu hoạch cũng bị đổ đi do không thể lưu thông.

Nông dân trồng cà chua ở nước CH Dominica nhỏ bé cũng không thể tiêu thụ được sản phẩm. Ảnh: RT

Nông dân trồng cà chua ở nước CH Dominica nhỏ bé cũng không thể tiêu thụ được sản phẩm. Ảnh: RT

Lệnh phong tỏa ở Singapore khiến nhà cung cấp trái cây Toh Lee Bing (Malaysia) phải dùng xe tải chở hàng tấn dưa hấu đi phát không và đổ vào thùng rác. Ảnh: Reuters

Lệnh phong tỏa ở Singapore khiến nhà cung cấp trái cây Toh Lee Bing (Malaysia) phải dùng xe tải chở hàng tấn dưa hấu đi phát không và đổ vào thùng rác. Ảnh: Reuters

Tại Mỹ, nông dân đã phải đổ 43 triệu gallon sữa tươi xuống đầm, chôn lấp hàng triệu cân hành tây và thậm chí đập bỏ 750.000 quả trứng quá lứa mỗi tuần. Ảnh: New York Times

Tại Mỹ, nông dân đã phải đổ 43 triệu gallon sữa tươi xuống đầm, chôn lấp hàng triệu cân hành tây và thậm chí đập bỏ 750.000 quả trứng quá lứa mỗi tuần. Ảnh: New York Times

Hộ nông dân nuôi bò sữa Alicia Underwood ở Staffordshire, vương quốc Anh khóc sưng mắt vì phải đổ sữa tươi vì không bán được. Ảnh: Dailymail

Hộ nông dân nuôi bò sữa Alicia Underwood ở Staffordshire, vương quốc Anh khóc sưng mắt vì phải đổ sữa tươi vì không bán được. Ảnh: Dailymail

Jim Husk, chủ trang trại rau quả Dimare ở bang Florida (Mỹ) đang đối mặt với tình trạng tiến thoái lưỡng nan do không thuê được nhân công thu hoạch trong khi thị trường tiêu thụ cũng bị gián đoạn bởi đại dịch Covid-19. Ảnh: AP

Jim Husk, chủ trang trại rau quả Dimare ở bang Florida (Mỹ) đang đối mặt với tình trạng tiến thoái lưỡng nan do không thuê được nhân công thu hoạch trong khi thị trường tiêu thụ cũng bị gián đoạn bởi đại dịch Covid-19. Ảnh: AP

Một nông dân ở Ấn Độ đang cho bò ăn dâu tây vì không bán được sản phẩm do đứt gãy kết nối cung - cầu. Ảnh: Reuters

Một nông dân ở Ấn Độ đang cho bò ăn dâu tây vì không bán được sản phẩm do đứt gãy kết nối cung – cầu. Ảnh: Reuters

Hàng tấn hành tây của một trang trại ở Idaho (Mỹ) bị vứt bỏ làm phân do ế ẩm. Ảnh: NYT

Hàng tấn hành tây của một trang trại ở Idaho (Mỹ) bị vứt bỏ làm phân do ế ẩm. Ảnh: NYT

Bông cải xanh quá lứa bị chặt đốn ở trang trại Footprint, bang Mississippi, Mỹ. Ảnh: Dailymail

Bông cải xanh quá lứa bị chặt đốn ở trang trại Footprint, bang Mississippi, Mỹ. Ảnh: Dailymail

Các biện pháp giãn cách xã hội và hạn chế đi lại cũng khiến hàng nông sản xuất khẩu gặp khó khăn do cước phí đóng gói, vận chuyển tăng mạnh từ 30-40%. Ảnh: CNA

Các biện pháp giãn cách xã hội và hạn chế đi lại cũng khiến hàng nông sản xuất khẩu gặp khó khăn do cước phí đóng gói, vận chuyển tăng mạnh từ 30-40%. Ảnh: CNA

Hội nghị trực tuyến “Thúc đẩy sản xuất nông nghiệp trong điều kiện dịch bệnh Covid-19”

Chiều 12/3, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tổ chức Hội nghị trực tuyến “Thúc đẩy sản xuất nông nghiệp trong điều kiện dịch bệnh Covid-19”. Hội nghị tổ chức trong bối cảnh dịch bệnh đang có diễn biến phức tạp ở trên thế giới và cả Việt Nam, đặt ra những thách thức lớn cho ngành nông nghiệp. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường tham dự và chủ trì hội nghị.

Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, 2 tháng đầu năm 2020, kim ngạch xuất khẩu của ngành đạt 5,34 tỷ USD, giảm 2,8% so với cùng kỳ năm 2019. Kim ngạch nhập khẩu ước khoảng 4,3 tỷ USD, giảm 6,7% so với cùng kỳ năm 2019. Thặng dư thương mại 2 tháng đạt 1,02 tỷ USD, tăng 18,4% so với cùng kỳ năm trước.

Dự báo thời gian tới, kinh tế toàn cầu tiếp tục xu hướng tăng trưởng chậm. Các nền kinh tế chủ chốt đối mặt với nhiều khó khăn. Sự bùng phát của dịch Covid-19 diễn biến nghiêm trọng, phức tạp, chưa dự báo được thời điểm kết thúc gây ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế thế giới. Trong nước, ngành nông nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như: biến đổi khí hậu xuất hiện ngay từ đầu năm gây ra tình hình hạn hán, xâm nhập mặn tại đồng bằng sông Cửu Long ảnh hưởng tới ngành trồng trọt và nuôi trồng thủy sản; dịch tả lợn châu Phi tuy có giảm mạnh nhưng chưa được khống chế hoàn toàn nên vẫn gây khó khăn cho công tác tái đàn.

Dịch Covid-19 đã thành đại dịch, hết sức nguy hiểm, gây ra 2 vấn đề bao trùm là đe dọa sức khỏe, tính mạng người dân trên toàn cầu và làm rối loạn nền kinh tế thế giới. Dịch này tác động đến hầu hết các quốc gia. Nhiệm vụ đặt ra là đảm bảo hạn chế thấp nhất thách thức nêu trên đồng thời đảm bảo tăng trưởng.

Trước các tình hình đó, Bộ NN&PTNT đưa ra dự báo về mức tăng trưởng ngành nông nghiệp của Việt Nam trong thời gian tới với các con số cụ thể.

Về diện tích lúa, đơn vị ước tính đạt 7,3 triệu ha/năm, năng suất bình quân ước đạt 59,3 tạ/ha và sản lượng ước đạt 43,4 triệu tấngiảm khoảng 70.000 tấn so với năm 2019.

Về rau màu, sản lượng dự kiến đạt 18,2 triệu tấn trên 980.000 ha. Với lượng tiêu thụ trong nước khoảng 14 triệu tấn thì mặt hàng này vẫn dư khoảng 4,2 triệu tấn để xuất khẩu. Ngoài ra, sản lượng trái cây còn có thể tăng 0,8 triệu tấn so với năm 2019.

Để đạt được các mục tiêu thúc đẩy này, Bộ Nông nghiệp đặt ra một số giải pháp trước mắt như chỉ đạo cơ quan chuyên môn, địa phương có những điều chỉnh phù hợp về cơ cấu mùa vụ lúa. Cơ quan chuyên môn cũng cần rà soát xây dựng, phát triển các vùng sản xuất đối với sản phẩm xuất khẩu chủ lực, ứng dụng công nghệ cao trong bảo quản, chế biến.

Bộ yêu cầu các đơn vị trực thuộc tiếp tục triển khai các đoàn công tác xúc tiến, phát triển thị trường tại các địa phương trọng điểm của Trung Quốc, ngay sau khi phía Trung Quốc kiểm soát dịch Covid-19 và công bố mở cửa lại bình thường.

“Các đơn vị cần chuẩn bị sẵn cả phương án, kịch bản nhu cầu nông sản, thủy sản của nhiều địa phương có dịch Covid-19 tăng cao sau khi hết dịch”, Bộ trưởng Nông nghiệp đề nghị.

Đặc biệt, Bộ yêu cầu các đơn vị, địa phương tổ chức lại hệ thống phân phối gắn kết với người sản xuất. Phương án này bao gồm chuẩn bị kịch bản trong bối cảnh nhiều địa phương công bố dịch Covid-19 sẽ dẫn đến nhu cầu cao và số lượng lương thực thực phẩm, do tâm lý và nhu cầu tích trữ phòng dịch của người dân.

Phát biểu tại Hội nghị, ngoài đề cập thách thức từ dịch COVID-19 đã mang tính chất toàn cầu, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường phân tích cụ thể 3 thách thức lớn bao trùm ngành Nông nghiệp của Việt Nam trong thời gian tới. Đó là tính phức tạp, khó lường của khí hậu, thời tiết; hạn hán và xâm nhập mặn; dịch bệnh trên gia súc gia cầm diễn biến phức tạp.

Bộ trưởng cũng khẳng định rằng, chưa bao giờ ngành chăn nuôi có quy mô lớn như vậy, tổng đàn gia súc gia cầm đạt mức cao và kỷ lục nhất từ trước đến nay. Năm 2020 này, ngành chăn nuôi chính là cứu cánh của cả ngành Nông nghiệp.

Liên quan đến ngành chăn nuôi, từ đầu năm đến nay, cả nước xuất hiện 44 ổ dịch cúm gia cầm (39 ổ dịch do virus cúm A/H5N6 và 5 ổ dịch do virus cúm A/H5N1) tại 14 tỉnh, thành phố gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hòa Bình, Bắc Ninh, Hà Nam, Ninh Bình, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Bình Dương và Trà Vinh. Tổng số gia cầm chết, buộc tiêu hủy là 137.180 con.

Công tác thú y hiện nay còn nhiều khó khăn. Hệ thống thú y cơ sở, nhất là thú y cấp thôn, xã, huyện ở nhiều nơi không còn hoặc đã sáp nhập thành Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp, nhưng không nắm được tình hình, không báo cáo đến cơ quan chuyên môn cấp trên để được hướng dẫn, xử lý kịp thời.

Việc tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch bệnh tại cơ sở chưa tốt; việc xử lý các ổ dịch chưa được thực hiện triệt để, chưa bảo đảm đúng yêu cầu kỹ thuật; khoanh vùng, cảnh báo và quản lý ổ dịch còn khó khăn. Thiếu sự kiểm tra, đôn đốc, giám sát thực hiện, đặc biệt tại tuyến cơ sở; chính quyền và cơ quan chuyên môn tại một số địa phương (Quảng Ngãi, Quảng Nam, Thanh Hóa) chưa chỉ đạo quyết liệt công tác phòng, chống dịch…

Giải pháp được ngành Nông nghiệp đưa ra trong thời điểm này là tiếp tục tổ chức nghiên cứu các giải pháp tổng thể phòng, chống dịch bệnh; hợp tác và tranh thủ sự hỗ trợ của quốc tế và các nước để phòng, chống bệnh dịch tả heo châu Phi và nghiên cứu, sản xuất vắc-xin phòng bệnh này. Hướng dẫn, giám sát việc nuôi tái đàn heo theo nguyên tắc áp dụng nghiêm ngặt các biện pháp cách ly, vệ sinh, sát trùng và các biện pháp an toàn sinh học, dưới sự giám sát của chính quyền cơ sở và các cơ quan chuyên môn. Hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp chăn nuôi lớn, các trang trại, gia trại có điều kiện đảm bảo chăn nuôi an toàn sinh học được tái đàn, để cung cấp các sản phẩm thịt heo cho thị trường và bình ổn giá.

V.A tổng hợp

Làm nông nghiệp công nghệ cao, nông dân thu 9 tỷ đồng/ha

Đưa công nghệ ra đồng ruộng

Xa dần hình ảnh “con trâu đi trước, cái cày theo sau” với hàng chục triệu mảnh ruộng nhỏ, những năm gần đây, ở các nông thôn của nước ta đã xuất hiện nhiều hơn những “cánh đồng công nghệ cao”. 

Ở đó, người nông dân áp dụng thành tựu công nghệ, thay đổi phương thức sản xuất, làm việc trên những cánh đồng bằng phương pháp điều khiển từ xa… nhằm tối ưu hoá quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng nông sản, bảo vệ môi trường, cải thiện đời sống và làm giàu cho người nông dân.

Tại một hội nghị về nông nghiệp công nghệ cao (nông nghiệp 4.0) vừa được tổ chức ở Lâm Đồng, ông Đa Cát Vinh – Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Lâm Đồng – nhận xét, việc áp dụng công nghệ thông tin, tự động hóa trong lĩnh vực ngành nông nghiệp đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng giá trị sản phẩm và tăng năng suất lao động…

nông nghiệp công nghệ cao,nông nghiệp 4.0,Lâm Đồng

Hiện có nhiều mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin có mức đầu tư cao được hội viên, nông dân mạnh dạn đầu tư đưa vào sản xuất như hệ thống nhà kính có hệ thống điều chỉnh tự động, thiết bị cảm biến, camera theo dõi quá trình sinh trưởng của cây, công nghệ IoT… đưa diện tích ứng dụng công nghệ cao của Lâm Đồng tăng nhanh, không chỉ tập trung ở các huyện, thành trọng điểm mà nhiều loại hình công nghệ đã được ứng dụng rộng rãi làm nên thương hiệu nông sản của tỉnh. Công nghệ thông tin kết hợp với điện tử, viễn thông, tự động hóa đã giải được nhiều bài toán về dự báo thời tiết; dự báo về dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi; dự báo thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp… Những năm gần đây, nông dân Lâm Đồng đã được tiếp cận và ứng dụng công nghệ thông tin vảo sản xuất nông nghiệp.

Ông Vinh cho biết, Lâm Đồng có trên 56.000 ha diện tích sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, giá trị sản xuất bình quân đạt khoảng 400 triệu đồng/ha; mô hình sản xuất rau cao cấp đạt hơn 500 triệu đồng/ha/năm, cá biệt rau thủy canh đạt từ 8 đến 9 tỷ đồng; hoa 1,2 tỷ đồng, chè chất lượng cao 250 triệu đồng và cà phê đạt 240 triệu đồng/ha/năm…

Chia sẻ câu chuyện thành công từ nông nghiệp công nghệ cao, ông Nguyễn Công Thừa – Chủ nhiệm HTX Anh Đào (TP. Đà Lạt, Lâm Đồng) từng cho biết, HTX đang áp dụng công nghệ nhà kính, nhà lưới và áp dụng thiết bị tự động hóa vào tưới tiêu. 

Hiện HTX đang trồng rau quả VietGAP cung cấp cho các hệ thống siêu thị khắp cả nước và xuất khẩu, sản lượng tiêu thụ bình quân 50.000 tấn trong nước và 4.000 tấn xuất khẩu. Doanh thu hơn 10 triệu USD/năm, ông Thừa tiết lộ. 

nông nghiệp công nghệ cao,nông nghiệp 4.0,Lâm Đồng

Dù đem lại hiệu quả kinh tế cao, song, ông Vinh cũng thừa nhận, diện tích đất sản xuất ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thông tin còn hạn chế khi chỉ chiếm khoảng 20% diện tích đất canh tác, chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh về nông nghiệp của tỉnh.

Tỷ lệ nông dân ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất còn quá ít so với số hộ sản xuất nông nghiệp; những mô hình, trang trại thành công trong sản xuất nhờ áp dụng thành tựu khoa học công nghệ đa số tuổi đời còn khá trẻ, hầu hết được qua đào tạo chuyên môn nhất định, nhạy bén và dễ dàng tiếp cận những thành tựu của công nghệ thông tin mang lại để áp dụng trong sản xuất nông nghiệp.

Còn phần lớn người nông dân Lâm Đồng vẫn sản xuất theo phương thức truyền thống, diện tích đất manh mún, còn thụ động và chưa làm chủ được công nghệ và chưa tự tin, mạnh dạn ứng dụng thành tựu, hiệu quả của công nghệ vào sản xuất, chăn nuôi.

nông nghiệp công nghệ cao,nông nghiệp 4.0,Lâm Đồng

Để giải quyết được bài toán cho người nông dân sẵn sàng làm nông nghiệp 4.0, theo ông Vinh, cần có nguồn vốn đủ và có cơ chế chính sách đặc thù, ưu đãi hơn nữa để đầu tư, khuyến khích nông dân phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đây chính là khâu then chốt.

Ông Chu Phú Mỹ – Giám đốc Sở NN-PTNT Hà Nội, mới đây cho rằng, dù giá thành cao hơn nông sản sản xuất đại trà khoảng 20-30%, nhưng nông sản ứng dụng công nghệ cao lại được thị trường ưa chuộng, làm tới đâu tiêu thụ hết tới đó.

Hà Nội hiện có 133 mô hình nông nghiệp công nghệ cao. Đáng chú ý, 100% mô hình này trong trồng trọt, chăn nuôi đều đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Song số lượng còn ít, chưa đáp ứng nhu cầu tiêu thụ tại chỗ, ông Mỹ thừa nhận.

Thời gian tới, ngành nông nghiệp thành phố sẽ tập trung xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại, thúc đẩy phát triển thêm nhiều mô hình nông nghiệp 4.0, đồng thời đẩy mạnh hướng tới xuất khẩu các sản phẩm này. Trong đó, sẽ chú trọng vào chăn nuôi và cây ăn quả.

Trước hết, với phương châm “nhiều vùng nhỏ cộng lại thành vùng lớn”, Sở NN-PTNT sẽ vận động bà con trong một hợp tác xã cùng sản xuất sản phẩm thế mạnh có ứng dụng khoa học kỹ thuật. Đồng thời, khuyến khích doanh nghiệp liên kết với nông dân để tư vấn về quy trình, kỹ thuật để tạo ra những chuỗi sản phẩm có giá trị cao, ông Mỹ chia sẻ.

Nguồn: Báo Vietnamnet

Copyrights © 2019 VITAD-AGRI All Rights Reserved.

X