Tag Archives: NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ

Tăng cường Xúc tiến kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và thành phố Cảng Phòng Thành (Trung Quốc)

Hội nghị Xúc tiến kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và thành phố Cảng Phòng Thành (tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc) đã mở ra cơ hội hợp tác giữa các doanh nghiệp hai bên.

Ông Phạm Đình Nam (phải), Viện trưởng Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam (Vitad-Agri) phát biểu khai mạc hội nghị

Sáng 10/11 tại Hà Nội đã diễn Hội nghị Xúc tiến kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và thành phố Cảng Phòng Thành (tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc).

Chủ trì hội nghị là ông Phạm Đình Nam, Viện trưởng Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam (Vitad-Agri); ông Vũ Anh Tuấn, Phó Cục trưởng Cục thông tin khoa học và công nghệ quốc gia (Bộ KH&CN); TS Nguyễn Thế Hùng, Giám đốc Trung tâm giao dịch thông tin, công nghệ và thiết bị – Cục thông tin tin khoa học và công nghệ quốc gia (Bộ KH&CN).

Tham dự cuộc họp còn có đại diện của 1 số doanh nghiệp, đơn vị Việt Nam như: Công ty CP HD Kinh Bắc (Bắc Ninh); Công ty CP dinh dưỡng Hải Thịnh (thuộc Hiệp hội chăn nuôi tỉnh Thái Nguyên); Công ty TNHH thương mại dịch vụ Trung Nhân Group (Cần Thơ); Tập đoàn Global Genius Network (Hải Phòng), Hội nông dân tỉnh Kiên Giang.

Tham dự hội nghị trực tuyến có: TS Ngô Văn Nam, Phó Giám đốc văn phòng SPS Việt Nam (Bộ NN&PTNT); ông Vũ Đức Côn, Chủ tịch Hiệp hội sầu riêng tỉnh Đắk Lắk; ông Phạm Quang Phúc, Chủ tịch Hội Chăn nuôi – Thú y tỉnh Thái Nguyên.

Về phía Trung Quốc trưởng đoàn là ông Chiêm Đức Phúc, Phó Chủ tịch Uỷ ban Xúc tiến thương mại thành phố Cảng Phòng Thành, Phó Chủ tịch Phòng thương mại quốc tế thành phố Cảng Phòng Thành; bà Trần Chí Quỳnh, TTK Phòng thương mại quốc tế thành phố Cảng Phòng Thành; ông Tô Nhật Hảo, TTK Liên hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Quảng Tây tại Việt Nam trực thuộc Hiệp hội doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam, Phó Chủ tịch TTK Phòng thương mại quốc tế thành phố Cảng Phòng Thành; và đại diện của các doanh nghiệp phía bạn.

Sau phần phát biểu khai mạc Hội nghị của ông Phạm Đình Nam về mục đích tăng cường xúc tiến kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và thành phố Cảng Phòng Thành, ông Chiêm Đức Phúc đại diện cho phía bạn cũng bày tỏ mong muốn hợp tác giữa 2 bên.

Ông Chiêm Đức Phúc (giữa), Phó Chủ tịch Uỷ ban Xúc tiến thương mại thành phố Cảng Phòng Thành, Phó Chủ tịch Phòng thương mại quốc tế thành phố Cảng Phòng Thành đại diện cho phía bạn phát biểu

Ông Chiêm Đức Phúc cho biết, Cảng Phòng Thành là thành phố mới được thành lập 30 năm và có bến cảng được xây dựng 16 năm. Cảng Phòng Thành muốn hợp tác với các doanh nghiệp, đơn vị của Việt Nam trong 5 lĩnh vực chính gồm:  Y tế – Chế tạo tiên tiến – Sản phẩm bảo vệ sức khoẻ từ nông sản – Tài nguyên biển – Logictis.

Hiệp hội Chăn nuôi – Thú y tỉnh Thái Nguyên, Hiệp hội sầu riêng Đắk Lắk, các doanh nghiệp của Việt Nam cũng bày tỏ việc mong muốn tăng cường hợp tác để khai thác tối đa tiềm năng của các đơn vị trong từng lĩnh vực chuyên sâu, nhất là với thị trường rộng lớn như Trung Quốc nói chung và thành phố Cảng Phòng Thành nói riêng.

Các doanh nghiệp, đơn vị Việt Nam mong muốn hợp tác để khai thác thị trường rộng lớn Trung Quốc

TS Ngô Văn Nam, Phó Giám đốc văn phòng SPS Việt Nam (Bộ NN&PTNT) tham dự Hội nghị thông qua hình thức trực tuyến

Về phía bạn, Công ty Container thuộc Công ty Cảng Phòng Thành (Tập đoàn Beigang) muốn tìm hiểu nguồn hàng chính tại các cảng liên quan ở Việt Nam, tìm hiểu cung cầu và khả năng triển khai các tuyến hàng container hoặc tàu chở hàng – Công ty CP chuỗi cung ứng lạnh Xinfu (Tân Phúc) Cảng Phòng Thành mong muốn hợp tác với nhà cung cấp hải sản đông lạnh và thuỷ sản của Việt Nam.

Các DN Trung Quốc cũng rất mong muốn hợp tác với phía Việt Nam

Công ty CP dịch vụ tàu Quốc tế Chunhui (Xuân Huy) Cảng Phòng Thành mong muốn hợp tác với doanh nghiệp vận tải tàu biển của Việt Nam – Công ty CP kỹ thuật thông minh Linggui (Lĩnh Quế) mong muốn hợp tác với các doanh nghiệp Việt Nam chuyên về dây chuyền sản xuất thiết bị tự động hoá và gia công phụ tùng cơ khí.

Công ty CP Y tế Internet Akon Cảng Phòng Thành mong muốn hợp tác với doanh nghiệp y tế và bệnh viện của Việt Nam – Công ty TNHH thương mại Quốc tế Yinteng (Dận Đằng) Quảng Tây mong được hợp tác với các thương gia sầu riêng, dứa và các loại trái cây khác của Việt Nam – Công ty CP quản lý chuỗi cung ứng tập đoàn Trung Nguyên Quảng Tây hi vọng được hợp tác với các doanh  nghiệp logictics cảng, logictics chuỗi cung ứng lạnh, vận tải biển của Việt Nam.

Các đại biểu, DN Trung Quốc trao đổi với ông Vũ Anh Tuấn (áo trắng), Phó Cục trưởng Cục thông tin khoa học và công nghệ quốc gia (Bộ KH&CN) bên lề hành lang hội nghị

Ở phần kết luận hội nghị, ông Phạm Đình Nam đã đưa ra một số đề xuất để tăng cường xúc tiến thương mại giữa 2 bên gồm: tìm hiểu cơ chế, chính sách; tổ chức hội thảo; tuần lễ hàng hoá; phía bạn cử cán bộ, chuyên gia để kiểm tra năng lực, sản phẩm của phía Việt Nam; trong lĩnh vực nông nghiệp các DN Việt Nam rất mong muốn được giúp đỡ về vấn đề bảo quản sau thu hoạch; các DN Việt Nam sang thăm, học hỏi tại thành phố Cảng Phòng Thành; và phía Việt Nam có hệ thống các chuyên gia sẵn sàng hỗ trợ về nhiều mặt.

Ông Chiêm Đức Phúc, đại diện cho phía bạn đưa ra đề xuất cần có một cơ chế hợp tác thường xuyên giữa 2 bên, và có một kế hoạch hành động cụ thể.

Ông Phạm Đình Nam, Viện trưởng Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam (Vitad-Agri) tặng quà lưu niệm cho ông Chiêm Đức Phúc, Phó Chủ tịch Uỷ ban Xúc tiến thương mại thành phố Cảng Phòng, Phó Chủ tịch Phòng thương mại quốc tế thành phố Cảng Phòng Thành

Các đại biểu chụp ảnh kỷ niệm

Hà Dũng

Đông trùng hạ thảo, món quà quý của người lữ hành

Dân gian có câu: “quý như đông trùng hạ thảo, hiếm như nhân sâm Cao Ly”, ý nói đây là hai loại dược liệu quý hiếm và đắt đỏ hàng đầu. Tuy thế Công ty CP Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam muốn biến điều “xa tận chân trời” thành “gần ngay trước mắt” với dự án “Nghiên cứu, ứng dụng và hoàn thiện quy trình sản xuất các sản phẩm đông trùng hạ thảo”.

Hội đồng khoa học tư vấn đánh giá dự án “Nghiên cứu, ứng dụng và hoàn thiện quy trình sản xuất các sản phẩm đông trùng hạ thảo”

     Dự án này được Hội đồng khoa học thẩm định, đánh giá, tư vấn và đề ra phương hướng thực hiện trong thời gian tới cho Công ty CP Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam, đầu năm 2025 tại Phòng họp 102, số 24 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Hội đồng gồm các chuyên gia khoa học công nghệ: PGS.TS Trần Mạnh Trí – Chủ tịch Hội đồng, TS Hồ Trường Giang – Phó chủ tịch Hội đồng, TS Phạm Đình Nam, TS Nguyễn Đức Thọ; các chuyên gia nông nghiệp: TS Vũ Văn Sang, TS Nguyễn Hồng Hạnh, TS Nguyễn Ngọc Dinh đều là các nhà khoa học hàng đầu Việt Nam hiện nay trên lĩnh vực khoa học công nghệ và nông nghiệp.

     Tại đây, Công ty Cổ phần Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam đã nêu mục đích và ý nghĩa của Dự án. Theo đó giới thiệu Tập đoàn là tổ chức lữ hành và chăm sóc sức khỏe hàng đầu Việt Nam, kinh doanh du lịch và ứng dụng công nghệ trong sản xuất, nuôi trồng, thương mại hóa, tìm kiếm hợp tác sản xuất nấm Đông trùng hạ thảo, phát triển sản phẩm thông qua dịch vụ du lịch lữ hành (bán hoặc khuyến mãi tặng kèm cho khách du lịch của tập đoàn). Việc phát triển các sản phẩm Đông trùng hạ thảo giúp xây dựng hệ sinh thái dịch vụ chăm sóc sức khỏe toàn diện, nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo vệ môi trường và giữ gìn di sản văn hóa đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế cho Tập đoàn, tạo ra chuỗi giá trị khép kín từ sản xuất (nuôi trồng) đến chế biến, quản lý chất lượng và thương mại hóa các sản phẩm từ nấm Đông trùng Hạ thảo thông qua các hoạt động quảng bá, giới thiệu, tiếp cận người dùng từ dịch vụ lữ hành.

     Phần trình bày của Tập đoàn cũng giới thiệu hiện có 2 chủng đông trùng hạ thảo chính. Một là Cordyceps sinensis – có giá thành rất cao, phân bố rất hạn chế trong tự nhiên (chủ yếu ở khu vực Tây Tạng) và hiện chưa được nuôi thành công trong môi trường nhân tạo. Đây chính là loại Đông trùng hạ thảo được đề cập trong các thành ngữ, tục ngữ trong dân gian. Và hai là Cordyceps militaris – tương tự một loại nấm dược liệu có thể nuôi trồng nhân tạo và chế biến thành nhiều sản phẩm khác nhau. Đa số các sản phẩm được bán ngoài thị trường hiện nay chính là Cordyceps militaris – loại Đông trùng hạ thảo có thể nuôi trồng nhân tạo, có cả 65 hoạt chất với tỷ lệ tương tự như Cordyceps sinensis tự nhiên, bao gồm các hoạt chất hỗ trợ điều trị ung thư như polysaccharide, sterol, adenosine và đặc biệt cordycepin.

     Ngoài ra, Đông trùng hạ thảo còn có tác dụng bồi bổ cơ thể, tráng dương, tăng cường miễn dịch… hữu ích cho điều trị mỡ máu, tiểu đường, suy nhược, suy dinh dưỡng và còn có thể dùng làm nước giải khát chất lượng cao.

     Như vậy chúng ta hoàn toàn có thể nuôi trồng Đông trùng hạ thảo Cordyceps militaris thay thế Cordyceps sinensis tự nhiên với chất lượng tương đương mà giá thành thấp hơn rất nhiều và có thể đa dạng hóa sản phẩm theo nhu cầu sử dụng.

     Tại Việt Nam, hiểu biết về đông trùng hạ thảo còn hạn chế. Theo TS Vũ Văn Sang, chuyên gia nông nghiệp của Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam (VITAD-AGRI), ủy viên Hội đồng khoa học, phần ngọn Đông trùng hạ thảo đẹp mắt như san hô dưới đáy biển lại không có nhiều chất dinh dưỡng như phần đế, nơi chứa nhiều hoạt chất có tác dụng chữa bệnh tiểu đường, tim mạch, ung thư… nên người mua thường lựa chọn những cụm Đông trùng hạ thảo đẹp mắt thay vì chọn những khóm có phần đế chất lượng hơn. Ngoài ra hiện nay giá thành các sản phẩm Đông trùng hạ thảo tại Việt Nam cũng có hiện tượng loạn giá, độ chênh giữa hàng hóa các công ty khá lớn khiến khách hàng lưỡng lự, dè dặt khi quyết định chọn mua hay không.

Chất lượng của Đông trùng hạ thảo được quyết định bởi phần đế

     Phát biểu tại cuộc họp, TS Phạm Đình Nam, Viện trưởng VITAD-AGRI đề nghị Công ty Cổ phần Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam làm rõ nét quy trình công nghệ, xác định đăng ký sản phẩm ở mức độ nào: dùng cho người, làm dược liệu, thực phẩm chức năng hay là thuốc. Phải kiểm soát được chất lượng sản phẩm. Xây dựng logo, nhãn hàng phụ. Đăng ký bản quyền logo; tiến tới đăng ký bảo hộ nhãn hiệu; kiểu dáng công nghệ, chứng chỉ Oganic, Cácbon… Lưu ý chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hữu cơ, được ghi tại điều 17, nghị định 109/2018.

TS Phạm Đình Nam, Viện trưởng VITAD-AGRI (giữa) phát biểu tại cuộc họp

     Các chuyên gia nông nghiệp TS Nguyễn Hồng Hạnh, TS Nguyễn Ngọc Dinh đề nghị Công ty Cổ phần Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam sớm nghiên cứu, công bố tiêu chuẩn cơ sở đáp ứng tiêu chuẩn Nhà nước về sản phẩm an toàn cho người như Nghị định 15/2018, 19/2019…

     Các chuyên gia khoa học công nghệ TS Hồ Trường Giang, TS Nguyễn Đức Thọ cũng tư vấn Công ty Cổ phần Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam xây dựng chi tiết quy trình thực hiện dự án: thời gian, địa điểm, sớm xây dựng thương hiệu, đối tác sản xuất, công nghệ áp dụng và công tác marketing cho sản phẩm.

     TS Vũ Văn Sang, Chuyên gia Nông nghiệp đánh giá, tư vấn dự án cần làm đề cương chi tiết về 4 điểm chính: kế hoạch sản xuất, hợp tác (theo tiêu chuẩn nào), bổ sung chi tiết công nghệ sản xuất, quy trình chế biến, xây dựng Tiêu chuẩn cơ sở phải đề cập rõ Công ty tự xây dựng hay đề nghị đối tác xây dựng. Lưu ý cần dựa vào các tiêu chuẩn, nghị định, thông tư của Nhà nước như NĐ 15/2018 hay QĐ 885/TTg năm 2020.

TS Vũ Văn Sang, Chuyên gia Nông nghiệp đánh giá, tư vấn dự án

     PGS.TS Trần Mạnh Trí, Chủ tịch hội đồng đã tổng hợp ý kiến của các chuyên gia và đề nghị Công ty Cổ phần Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam hoàn thiện bổ sung hồ sơ dự án; xây dựng Tiêu chuẩn cơ sở rõ ràng, thông số cụ thể; làm rõ hơn điểm mới và ưu việt của sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại hiện có trên thị trường. Bổ sung quy trình công nghệ nuôi trồng, chế xuất sản phẩm. Xây dựng thương hiệu, kế hoạch thương mại hóa và phát triển sản phẩm. Ông ủng hộ ý tưởng sản xuất sản phẩm tốt cho sức khỏe và cam kết đồng hành cùng Công ty trong quá trình thực hiện dự án. Theo ông, dự án này hoàn toàn khả thi và trong tương lai gần, Đông trùng hạ thảo sẽ là món quà quý giá và quen thuộc của người lữ hành, dễ mang theo sử dụng khi du lịch cũng như làm quà cho gia đình, người thân.

PGS.TS Trần Mạnh Trí, Chủ tịch hội đồng (thứ 2 từ phải sang) tổng hợp ý kiến của các chuyên gia

     Hội đồng khoa học cam kết đồng hành cùng Công ty Cổ phần Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam trong quá trình thực hiện dự án. Ngoài ra, Viện ứng dụng công nghệ và phát triển Nông nghiệp Việt Nam VITAD-AGRI cũng đề ra chiến lược hợp tác lâu dài với Công ty Cổ phần Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam trong các lĩnh vực liên quan đến nông nghiệp như các khóa đào tạo ứng dụng nông nghiệp hữu cơ Organic, đưa người ra nước ngoài học tập kỹ thuật nông nghiệp…

Hội đồng khoa học cam kết đồng hành cùng Công ty Cổ phần Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam thực hiện dự án

Nội dung: Thành Vinh 

Hình ảnh: Bích Hồng    

Trung Quốc lại khiến thế giới “đuổi không kịp” về khả năng ứng dụng công nghệ (P3): Nông dân đã dùng AI hiệu quả lâu rồi!

Viện sĩ Chu Hữu Dũng đã cùng Baidu phát triển “Nông dân Viện sĩ Thông minh”, một trợ lý AI giúp giải đáp thắc mắc về nông nghiệp cho bà con nông dân mọi lúc mọi nơi. Ứng dụng này hứa hẹn sẽ là cầu nối hiệu quả giữa kiến thức chuyên môn và thực tiễn sản xuất, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn.

 

 

Sự phát triển mạnh mẽ của mô hình AI đặt ra câu hỏi về việc ứng dụng công nghệ này vào cuộc sống và sản xuất, tạo ra giá trị thực tiễn. Câu hỏi làm thế nào AI thể hiện khả năng vượt trội trong việc xử lý các nhiệm vụ cụ thể, đã được trả lời ở Trung Quốc. Hiện nay, nhiều nông dân ở quốc gia này đã ứng dụng tốt AI vào việc đồng áng.

Ngày 28/6, Viện sĩ Chu Hữu Dũng và Baidu đã chính thức ra mắt “Nông dân Viện sĩ Thông minh”, sản phẩm AI đầu tiên dành cho lĩnh vực nông nghiệp, thu hút sự chú ý của giới chuyên môn.

Viện sĩ Chu Hữu Dũng, được mệnh danh là “Viện sĩ Nông dân”, đã gắn bó gần 10 năm với huyện Lan Thương, tỉnh Phổ Nhĩ, Vân Nam, giúp đỡ người dân thoát nghèo. Tuy nhiên, việc truyền đạt kiến thức, kỹ năng canh tác cho hàng chục vạn nông dân trong khi thời gian và sức lực có hạn là bài toán khó.

Sự xuất hiện của AI đã mang đến giải pháp cho vấn đề này. “Nông dân Viện sĩ Thông minh” giúp “đưa viện sĩ vào điện thoại”, giải đáp thắc mắc cho bà con nông dân mọi lúc mọi nơi. Điều này không chỉ thể hiện sức mạnh của mô hình AI mà còn mở ra ứng dụng thực tiễn đầy giá trị.

Huyện Lan Thương, nằm ở phía Tây Nam tỉnh Vân Nam, từng là một huyện nghèo khó với điều kiện sản xuất, sinh hoạt khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi, thường xuyên gặp thiên tai. Tuy nhiên, Viện sĩ Chu Hữu Dũng nhận thấy tiềm năng của vùng đất này với thổ nhưỡng phì nhiêu và lượng mưa phù hợp cho cây trồng. Ông cùng nhóm nghiên cứu đã tìm kiếm loại cây trồng phù hợp và quyết định ứng dụng khoa học kỹ thuật để xóa đói giảm nghèo.

“Qua hơn 10 năm nghiên cứu, chúng tôi đã trồng thành công lúa trên đất khô, gọi chung là lúa nước chất lượng cao trên đất khô”. Viện sĩ Chu Hữu Dũng và nhóm của ông đã triển khai nhiều kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến tại địa phương, tiêu biểu là kỹ thuật trồng lúa nước chất lượng cao trên đất khô, trồng khoai tây mùa đông và trồng sâm tam thất dưới tán rừng. Đặc biệt, kỹ thuật trồng lúa nước chất lượng cao trên đất khô đã giúp tăng gấp đôi năng suất lúa, giải quyết vấn đề lương thực cho người dân.

“Giúp người dân có thu nhập, tự chủ được cuộc sống là điều tốt đẹp biết bao”. Viện sĩ Chu Hữu Dũng chia sẻ. Ông đã thành lập Trạm làm việc của Viện sĩ và “Viện sĩ Tiểu viện” tại thôn Hạo Chi Bá, huyện Lan Thương, tổ chức các lớp tập huấn chuyên môn, khơi dậy niềm đam mê học hỏi của bà con nông dân.

Theo thông tin từ China Economic Net, nhờ sự hướng dẫn của Viện sĩ Chu Hữu Dũng, xã Trúc Đường đã có sự thay đổi đáng kể, thu nhập bình quân đầu người tăng từ 3.410 Nhân dân tệ năm 2015 lên 13.228 Nhân dân tệ năm 2023, tổng thu nhập kinh tế nông thôn toàn xã tăng khoảng 319%.

Một người dân ở thôn Vân Sơn, xã Trúc Đường chia sẻ: “Ban đầu chúng tôi không tin, nhưng sau đó, nhà nào cũng học được kỹ thuật nên thu nhập tăng lên. Tôi muốn học hỏi kinh nghiệm trồng trọt từ Viện sĩ nhưng ông ấy quá bận. Tôi phải đợi từ sớm ở cửa chỉ để hỏi ông ấy về vấn đề trồng trọt”.

Giờ đây, với “Viện sĩ trong điện thoại”, người dân không còn phải vất vả tìm kiếm Viện sĩ Chu Hữu Dũng nữa.

 

Ngày 28/6/2024, tại “Hội nghị các nhà phát triển học sâu WAVE SUMMIT 2024” do Trung tâm Nghiên cứu Kỹ thuật và Ứng dụng Học sâu Quốc gia tổ chức, Viện sĩ Chu Hữu Dũng và nhóm của ông cùng Baidu đã chính thức ra mắt “Nông dân Viện sĩ Thông minh” – sản phẩm AI đầu tiên dành cho lĩnh vực nông nghiệp.

Ứng dụng được xây dựng dựa trên nền tảng mô hình AI trong nước, mô phỏng cuộc trò chuyện hỏi đáp giữa Viện sĩ Chu Hữu Dũng và người dùng. Người dân có thể hỏi bất cứ lúc nào về điều kiện trồng lúa nước trên đất khô, kỹ thuật canh tác, phòng trừ sâu bệnh…, “Nông dân Viện sĩ Thông minh” sẽ giải đáp chi tiết từng vấn đề.

“Tôi muốn hỏi khi nào là thời điểm tốt nhất để trồng lúa nước trên đất khô?”, “Cần lưu ý những gì khi trồng lúa nước chất lượng cao trên đất khô?”, “Nếu lúa nước chất lượng cao trên đất khô liên tục bị sâu bệnh thì phải làm sao?”.… “Xin chào, tôi là trợ lý thông minh của Viện sĩ Nông dân Chu Hữu Dũng. Nếu lúa nước chất lượng cao trên đất khô liên tục bị sâu bệnh, bạn có thể áp dụng các biện pháp sau…”.

Một người dân ở thôn Vân Sơn, xã Trúc Đường, huyện Lan Thương, tỉnh Phổ Nhĩ đã chia sẻ tại WAVE SUMMIT: “Viện sĩ Chu Hữu Dũng như đang ở trong điện thoại của tôi, giống hệt như người thật. Chúng tôi hỏi gì ông ấy trả lời đấy, cứ như ông ấy đang ngồi cạnh tôi vậy. Lần đầu tiên sử dụng ứng dụng này, tôi thấy thật kỳ diệu. Giọng nói và hình ảnh của Viện sĩ Chu Hữu Dũng đều rất chân thực, câu trả lời cũng giống như thường lệ. Từ nay, chúng tôi có thể hỏi han ‘Viện sĩ Chu Hữu Dũng’ trong điện thoại bất cứ lúc nào!”.

Mục tiêu của trí tuệ nhân tạo là mô phỏng, mở rộng và phát triển trí thông minh của con người. “Nông dân Viện sĩ Thông minh” là một ví dụ điển hình cho việc mở rộng trí thông minh con người, giải quyết những vấn đề thiết thực của đời sống dân sinh.

Viện sĩ Chu Hữu Dũng cho biết: “Nông nghiệp là ngành nghề trường tồn, trợ lý thông minh là kênh truyền tải kiến thức và thông tin tốt nhất. Chúng tôi muốn ứng dụng này mang lại lợi ích cho nhiều người hơn nữa”. Theo thông tin, “Nông dân Viện sĩ Thông minh” sẽ được tích hợp trên nhiều nền tảng như ứng dụng và trang web Văn Tâm Nhất Ngôn, Baidu Search, Baidu Baike. Người dùng có thể tìm kiếm “Nông dân Viện sĩ”, “Chu Hữu Dũng” hoặc “Nông dân Viện sĩ” để truy cập nhanh vào ứng dụng.

Có thể hình dung, việc phát triển trợ lý thông minh chuyên ngành sẽ cho phép các viện sĩ và chuyên gia trong nhiều lĩnh vực áp dụng vào các tình huống tương tự, tạo ra giá trị thương mại và xã hội to lớn. Hiện nay, AI, với đại diện là mô hình ngôn ngữ lớn, đang thúc đẩy quá trình chuyển đổi và nâng cấp trong nhiều ngành nghề, mở rộng phạm vi và chiều sâu ứng dụng trong sản xuất.

Giám đốc Công nghệ Baidu, ông Vương Hải Phong, cho rằng công nghệ AI hiện tại, dựa trên nền tảng học sâu và mô hình ngôn ngữ lớn, đã có tính ứng dụng cao, đồng thời sở hữu các đặc điểm tiêu chuẩn hóa, mô-đun hóa và tự động hóa. Việc đưa AI vào sản xuất và dịch vụ của các ngành nghề sẽ giúp giải quyết hiệu quả các vấn đề thực tế trong công việc và cuộc sống.

Bạn có thể theo dõi thêm các bài báo về các lĩnh vực ứng dụng công nghệ khác thuộc chuỗi bài: Trung Quốc lại khiến thế giới “đuổi không kịp” về khả năng ứng dụng công nghệ trên website: markettimes.vn

Trái cây được mùa nhưng còn đó nỗi lo tiêu thụ, giá cả

Trái cây được mùa nhưng còn đó nỗi lo tiêu thụ, giá cả

Quý II/2022 là thời điểm nhiều loại cây trái khắp cả nước, đặc biệt là các tỉnh Nam Bộ bước vào vụ thu hoạch, nhưng việc tiêu thụ cùng với giá cả đang là vấn đề lớn.

Trái cây Nam Bộ sắp vào vụ thu hoạch nhưng khâu tiêu thụ và giá cả là vấn đề không dễ giải quyết

Đây cũng chính là lý do để Bộ NN-PTNT tổ chức Hội nghị trực tuyến “Thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ nông sản tại các tỉnh, thành Nam Bộ” vào ngày 8/5.

Trên cơ sở dự báo tiêu thụ sẽ gặp khó khăn do Trung Quốc tiếp tục duy trì chính sách “zero Covid”, các biện pháp phòng dịch của nước này làm chậm tiến độ xuất khẩu, gây ùn ứ tại cửa khẩu, ảnh hưởng đến tiêu thụ trong nước. Ngoài ra, năng lực chế biến trái cây trong nước còn hạn chế, chủ yếu xuất khẩu trái tươi, nếu gặp điều kiện khó khăn khi xuất khẩu, lúc đó việc tiêu thụ sẽ vô cùng khó khăn, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, ông Lê Thanh Tùng đưa ra những trở ngại trong việc tiêu thụ trái cây quý II/2022.

Cùng quan điểm với ông Lê Thanh Tùng, ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN-PTNT), cho biết trong 2 tháng qua, các cửa khẩu chính tại Quảng Ninh, Lào Cai đóng cửa do Trung Quốc phát hiện Covid-19 đã gây áp lực lớn đến xuất khẩu nông sản Việt Nam.

Chưa kể, những đợt phía Trung Quốc kiểm tra trực tuyến về công tác kiểm soát Covid-19 cho thấy nhiều doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam còn chủ quan, chưa tuân thủ quy định về phòng dịch khi đưa hàng sang nước bạn. Việc ách tắc trong xuất khẩu rau quả cũng nằm ở khâu kiểm tra Covid-19, không phải do kiểm dịch thực vật nên doanh nghiệp cần phải kiểm soát chặt quy trình sản xuất, tránh lây nhiễm chéo Covid-19 trên bao bì, sản phẩm, thành container…

Còn đối với thị trường EU, dù rau quả Việt Nam đang được hưởng lợi do ưu đãi thuế quan nên tăng trưởng tốt trong năm qua. Tuy nhiên trong thời gian gần đây phát sinh vấn đề EU tăng tần suất kiểm tra đối với thanh long và rau gia vị từ 10% lên 20% khiến lượng xuất khẩu sụt giảm.

Trước những khó khăn kể trên, ông Lê Thanh Tùng kiến nghị đẩy mạnh đánh giá cấp mã số vùng trồng cây ăn quả để tăng cường quản lý vùng trồng, nắm sát sản lượng, chất lượng từng loại quả; chỉ đạo rải vụ trái cây (thanh long, xoài, nhãn, chôm chôm, sầu riêng) linh hoạt phù hợp với tình hình tiêu thụ. Đồng thời, tiếp tục kết nối doanh nghiệp thu mua trái cây; phát triển mảng bảo quản và chế biến.

Về việc ách tắc ở cửa khẩu, ông Lê Thanh Hòa khuyến nghị các địa phương, doanh nghiệp theo dõi, cập nhật thông tin ở cửa khẩu để điều phối trái cây lên biên cho hợp lý.

Trước những ý kiến, giải pháp của các đại biểu đưa ra, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan đã đưa ra ý kiến chỉ đạo. Theo Tư lệnh ngành Nông nghiệp, các địa phương không nên “than vãn” mà cần tìm giải pháp để hướng đến sản xuất nông nghiệp bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông dân.

“Cần tổ chức lại sản xuất để thích ứng với những thay đổi của thị trường, đừng để khi cửa khẩu với Trung Quốc thông thì mọi việc lại quay về như cũ. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp vẫn còn tư duy nước đến chân mới nhảy, vẫn suy nghĩ Trung Quốc là thị trường dễ tính nên không chịu thay đổi để thích ứng. Cần nhìn vào cách ngành rau quả Thái Lan thích ứng với chính sách “zero Covid” của Trung Quốc nên xuất khẩu của họ ít bị ảnh hưởng. Họ tìm cách đáp ứng được quy định để kiểm soát Covid-19 trong chuỗi sản xuất trái cây trong khi Việt Nam chỉ có thể hy vọng đàm phán để Trung Quốc nới lỏng quy định”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan thẳng thẳn góp ý.

Cuối cùng Bộ trưởng Lê Minh Hoan chia sẻ quy luật thị trường không phải lúc nào cũng như ý muốn, vì thế các mô hình sản xuất nông nghiệp cần tiết kiệm chi phí, giúp tăng hiệu quả kinh doanh cần được lan tỏa, nhân rộng.

Được biết, theo ước tính của Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), tổng sản lượng cây ăn quả chính tại Nam Bộ trong quý II/2022 sẽ đạt khoảng 1,5 triệu tấn, cao hơn quý I khoảng 137.000 tấn do một số loại quả vào mùa như: thanh long, chuối, nhãn, chôm chôm, sầu riêng… Vì thế đây sẽ là một áp lực trong khâu tiêu thụ cũng như giá cả.

Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/trai-cay-duoc-mua-nhung-con-do-noi-lo-tieu-thu-gia-ca

Việt Nam tập trung xuất khẩu gạo ngon tới thị trường ASEAN

Việt Nam tập trung xuất khẩu gạo ngon tới thị trường ASEAN

Với dân số gần 700 triệu người, ASEAN là thị trường cực kì quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam.

ASEAN là thị trường lớn nhập khẩu gạo của Việt Nam

Dân số đông, có vị trí địa lý trong khu vực, cùng với những nét tương đồng về văn hóa, ASEAN là một thị trường cực kì quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam.

Trong số các nước nhập khẩu gạo của Việt Nam, Philippines là thị trường lớn nhất. Năm 2021, Philippines là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam với lượng nhập khẩu đạt 2,45 triệu tấn, đạt kim ngạch trên 1,25 tỷ USD, giá trung bình 509,7 USD/tấn, tăng 10,7% về lượng, tăng 18,5% về kim ngạch và tăng 7,1% về giá so với năm 2020. Philippines cũng chiếm 39,4% trong tổng lượng và chiếm 38% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam.

Quý I/2022 tiếp tục ghi nhận kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam sang Philippines với 672.136 tấn, tương đương 311,08 triệu USD, giá trung bình 462,8 USD/tấn, tăng mạnh 63,3% về lượng, tăng 41,4% về kim ngạch, chiếm 44,7% trong tổng lượng và chiếm 42,6% trong tổng kim ngạch gạo xuất khẩu.

Ngoài Philippines, gạo Việt Nam còn được xuất khẩu sang các thị trường quan trọng khác trong ASEAN như: Malaysia, Singapore, Indonesia, Brunei. Trong đó, thị trường Malaysia tăng trưởng mạnh với số liệu tháng 1/2022 là 34.925 tấn, tương đương 16,07 triệu USD, tăng 163,4% về lượng và  156% về kim ngạch so với tháng 12/2021.

Hiện gạo xuất khẩu sang Philippines và các nước ASEAN khác chủ yếu là gạo trắng phẩm cấp thường, độ tấm từ 20-25%, chủ yếu cạnh tranh bằng giá. Về mặt chiến lược, ngành gạo của Việt Nam đang giảm dần sản xuất và xuất khẩu các loại gạo trắng thường, tăng tỉ trọng sản xuất lúa gạo chất lượng cao từ 35-40% lên 75-80% vào năm 2020.

Việc này giúp tăng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam lên rất nhanh trong những năm gần đây, đặc biệt từ sau năm 2020. Tuy nhiên, với sự chuyển dịch này, gạo Việt Nam lại gặp khó khăn do không thể cạnh tranh về giá với các nước chuyên sản xuất gạo giá rẻ như Myanmar, Pakistan và Ấn Độ.

Vì vậy, hiện cơ cấu gạo xuất khẩu của Việt Nam đang tiếp tục chuyển dịch theo hướng gia tăng các loại gạo thơm, gạo đặc sản, gạo japonica, gạo trắng phẩm cấp cao với giá bán và giá trị gia tăng cao hơn. Mục tiêu xuất khẩu gạo cũng được điều chỉnh, dự kiến chỉ còn khoảng 4 triệu tấn vào năm 2030.

Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo sang các nước ASEAN, ngành gạo còn phải  rà soát lại nhu cầu nhập khẩu của từng thị trường trong ASEAN, xác định những thị trường tiêu thụ gạo phẩm cấp thường với giá rẻ, thị trường tiêu thụ gạo cao cấp, gạo thơm…

Cuối cùng, Việt Nam cần tận dụng các hiệp định thương mại với các nước trong khu vực, cải thiện trình độ công nghệ để tăng khả năng cạnh tranh, tăng cường thương mại dịch vụ và đầu tư.

Nhằm tư vấn, giải đáp các vấn đề doanh nghiệp quan tâm liên quan đến việc xuất, nhập khẩu sản phẩm lúa gạo sang thị trường ASEAN nắm bắt được các thông tin như: Nhu cầu thị trường, yêu cầu đối với chất lượng và phẩm cấp hàng hóa, phương thức thanh toán, cách thức vận chuyển, bảo hiểm hàng xuất nhập khẩu, giải quyết các vấn đề bất cập có thể phát sinh trong quá trình xuất nhập khẩu, ngày 5/5/2022, Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công thương) phối hợp với các Thương vụ Việt Nam tại ASEAN tổ chức phiên tư vấn xuất khẩu sản phẩm lúa gạo sang thị trường ASEAN diễn ra tại TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang. 

Trong phiên tư vấn, ông Phạm Thế Cường, Tham tán thương mại Việt Nam tại Indonesia sẽ thông tin về tình hình thị trường gạo Indonesia và các cơ hội cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Bà Lê Thị Phương Hoa, Tham tán thương mại Việt Nam tại Lào sẽ chia sẻ về mặt hàng gạo tại thị trường Lào; Bà Trần Lê Dung, Bí thứ thứ nhất phụ trách Thương vụ Việt Nam tại Malaysia sẽ nêu một số vấn đề cần lưu ý khi xuất khẩu gạo sang Malaysia; Ông Cao Xuân Thắng, đại diện Thương vụ Việt Nam tại Singapore sẽ giới thiệu tình hình thị trường gạo Singapore niên vụ 2021 – 2022; Ông Nguyễn Thành Huy, Phụ trách Thương vụ Việt Nam tại Thái Lan sẽ chia sẻ một số kinh nghiệm gieo trồng, thu hoạch gạo của Thái Lan với doanh nghiệp Việt Nam.

Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/viet-nam-tap-trung-xuat-khau-gao-ngon-toi-thi-truong-asean

Nông nghiệp hữu cơ: Xu hướng mới gia tăng giá trị nông sản

Việc nhân rộng các mô hình sử dụng phân bón hữu cơ không những nâng cao sản lượng, giúp nông dân tiết kiệm chi phí mà còn giúp cải tạo đất, bảo vệ môi trường.

Nâng cao năng suất và thu nhập, tiết kiệm chi phí đồng thời giúp cải tạo đất, bảo vệ môi trường là hiệu quả mang lại từ những mô hình sản xuất theo hướng hữu cơ và hữu cơ đã và đang được tỉnh Vĩnh Phúc quan tâm đầu tư trong giai đoạn 2021-2025.

Những ngày này, cánh đồng su su ngay dưới chân núi Tam Đảo ở xã Hồ Sơn, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc luôn tấp nập người dân thu hái, vận chuyển su su. Từ sau Tết Nguyên đán đến nay, giá su su luôn ở mức cao nên bà con nông dân nơi đây rất phấn khởi.

Bà Lê Thị Chín, thôn Làng Hạ, xã Hồ Sơn chia sẻ, với 2 sào su su sau hơn 1 năm tham gia mô hình theo hướng hữu cơ của Tập đoàn Quế Lâm với tiêu chuẩn “5 không”: Không thuốc diệt cỏ, không thuốc trừ sâu, không chất bảo quản, không chất kích thích sinh trưởng, không dư lượng hóa chất độc hại.  Khi vào vụ, bình quân 2 ngày/lần gia đình sẽ thu hoạch ngọn su su.

Mô hình trồng su su hữu cơ ở Vĩnh Phúc.

Nếu những ruộng su su canh tác theo phương pháp thông thường chỉ thu được 35 – 40kg/sào/lần hái thì ruộng nhà bà Chín cho sản lượng từ 45 – 50kg. Với giá bán bình quân 14.000 đồng/kg, mỗi tháng bà Chín có thể thu cả chục triệu đồng, trong khi mỗi vụ su su có thể thu hoạch kéo dài từ 7 – 8 tháng.

“Trước đây bón phân vô cơ và những loại phân thông thường chi phí từ 2 – 3 triệu/sào, còn bón phân bón hữu cơ chỉ hơn 1 triệu/sào nhưng giá su su bán ra lúc nào cũng cao hơn. Su su bán chợ có nhiều giá từ 10.000 – 15.000 đồng/kg nhưng su su trồng theo hướng hữu cơ lúc nào giá cũng cao nhất. Về chăm bón, phân hữu cơ không gây hại như bón phân vô cơ mà cây lại sinh trưởng tốt, chất lượng rau ngon”, bà Chín cho biết.

Trước nhu cầu sử dụng sản phẩm hữu cơ của người dân trên địa bàn ngày càng tăng, những năm qua, tỉnh Vĩnh Phúc đã có nhiều chính sách hỗ trợ người dân sản xuất an toàn. Chỉ tính riêng trong năm 2021, Vĩnh Phúc đã cấp kinh phí 45 tỷ đồng hỗ trợ nông dân xây dựng các mô hình trồng trọt an toàn, theo hướng hữu cơ, xử lý rơm rạ, môi trường.

Mặc dù vậy, theo ông Lê Văn Dũng, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Vĩnh Phúc, để sản phẩm nông nghiệp theo hướng hữu cơ ngày càng phát triển, có chỗ đứng trên thị trường, Bộ NN&PTNT cần ủy quyền cho Sở NN&PTNT các địa phương đứng ra cấp mã số vùng trồng cho các vùng sản xuất trên cơ sở thống nhất theo chỉ đạo của Bộ.

“Ngay cả sản phẩm tiêu thụ tại thị trường nội địa cũng cần có mã số vùng trồng, do vậy, nếu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ủy quyền cho các Sở thực hiện thì tiến độ sẽ nhanh hơn rất nhiều lần”, ông Dũng đề xuất.

Từ cách làm của doanh nghiệp trong gần 20 năm qua, ông Khắc Ngọc Bá, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Quế Lâm cho rằng, phát triển canh tác theo hướng hữu cơ là đòi hỏi tất yếu để cung cấp những sản phẩm sạch, an toàn cho người tiêu dùng, vì mục tiêu bảo vệ sức khỏe cộng đồng; định hướng sản xuất hữu cơ tạo ra giá trị nhân văn, là xu thế của tương lai cũng là mục tiêu hướng đến của doanh nghiệp.

“Doanh nghiệp đang phối hợp với nhiều địa phương chuyển giao công nghệ cho bà con nông dân sử dụng chế phẩm sinh học, từ đó có thể sản xuất phân hữu cơ từ chính những phụ phẩm nông nghiệp xung quanh vốn đang bị vứt bỏ một cách lãng phí. Nếu địa phương nào có lãnh đạo và ngành chuyên môn quan tâm, các mô hình sản xuất hữu cơ sẽ phát triển nhanh và có sự lan tỏa mạnh mẽ”, ông Bá cho biết.

Theo các chuyên gia, trong bối cảnh giá phân bón tăng tới 200% thì giá phân bón hữu cơ chỉ tăng 20% – 30%, bởi vậy việc nhân rộng các mô hình sử dụng phân bón hữu cơ không những giúp nông dân tiết kiệm chi phí mà còn giúp cải tạo đất, bảo vệ môi trường.

Giám sát sinh trưởng su su theo hướng hữu cơ ở Tam Đảo.

Bà Phạm Thị Vượng, nguyên Viện trưởng Viện Bảo vệ thực vật cho biết, thực tế sản xuất những mô hình sử dụng phân bón hữu cơ ở nhiều địa phương đã giúp tăng đáng kể hiệu quả sử dụng đất, mật độ số giun trong đất tăng cao, các chủng vi sinh vật có ích cũng tăng, hàm lượng kim loại nặng giảm, sản phẩm không còn dư lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật.

“Từ thực tế hiệu quả mô hình trồng su su theo hướng hữu cơ ở Hồ Sơn, ban đầu chỉ có 1 hộ tham gia nhưng chỉ sau 1 năm diện tích đã tăng lên 20 ha. Canh tác theo hướng hữu cơ bà con nông dân sẽ được 1 chữ “L” là lãi, và 2 chữ “H” đó là hạnh phúc và hồi sinh vì không lạm dụng phân bón vô cơ, thuốc trừ sâu, người tiêu dùng được ăn sản phẩm sạch, an toàn”, bà Vượng chia sẻ.

Trong Chỉ thị về sử dụng phân bón tiết kiệm, cân đối và hiệu quả, Bộ NN&PTNT đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo Sở NN&PTNT tập huấn, truyền thông, hướng dẫn người dân sử dụng phân bón cân đối và hiệu quả, tăng cường sản xuất, sử dụng phân bón hữu cơ, thay thế phân bón vô cơ bằng phân bón hữu cơ theo tỷ lệ phù hợp.

Đối với các doanh nghiệp thực hiện cam kết về sản xuất, sử dụng phân bón cân đối, tiết kiệm, hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp; chủ động tham gia liên kết sản xuất để hỗ trợ, khuyến khích nông dân tăng cường sử dụng phân bón hữu cơ./.

Nuôi vịt trời theo hướng hữu cơ, đăng kí sản phẩm OCOP

Nuôi vịt trời theo hướng hữu cơ, đăng kí sản phẩm OCOP

Vịt trời nuôi theo hướng hữu cơ của HTX Chăn nuôi và tiêu thụ gà đồi Ba Vì đang tiến hành các bước  đăng kí đây là sản phẩm OCOP của huyện.

HTX Chăn nuôi và tiêu thụ gà đồi Ba Vì là đơn vị đã xây dựng được thương hiệu trên thị trường với sản phẩm chủ lực là gà đồi. Tuy nhiên, do nhu cầu của thị trường và những điều kiện môi trường sẵn có, một số thành viên của HTX đã quyết định chăn nuôi vịt trời theo hướng hữu cơ từ cuối năm 2021 và nhân rộng từ đó đến nay.

Thành viên của HTX, anh Trương Đức Hoàng, thôn Đông An, xã Thuỵ An, huyện Ba Vì, nhận thấy diện tích đất đai, ao đầm của gia đình mình phù hợp với việc phát triển chăn nuôi vịt trời theo hướng hữu cơ. Sau khi tìm hiểu, anh đã mạnh dạn đầu tư chuồng trại chăn nuôi 1.000 con vịt trời theo hình thức bán hoang dã. Nhờ chăm sóc đúng kỹ thuật, đàn vịt của gia đình anh sinh trưởng, phát triển tốt.

Với việc sử dụng các loại thức ăn như: ngô, cám mì, giun quế, ấu trùng, cá xay ủ lên men và trộn thêm vi lượng khoáng chất… vịt trời nuôi theo hướng hữu cơ của HTX có vị thơm ngon, đặc trưng nên được thị trường rất ưa chuộng. Ngoài ra, để đảm bảo sản phẩm hữu cơ, an toàn đến tay người tiêu dùng, vịt trời được chăn nuôi ở môi trường thoáng mát, nguồn nước sạch sẽ.

Vịt trời nuôi theo hướng hữu cơ đem lại hiệu quả kinh tế cao đang được nhân rộng

Hiện vịt trời theo hướng hữu cơ của HTX Chăn nuôi và tiêu thụ gà đồi Ba Vì luôn trong tình trạng “cháy hàng”, có bao nhiêu hết ngay đến đó với giá cả rất tốt khoảng 150 nghìn/con vịt 1kg.

Với hiệu quả như vậy, hiện HTX chăn nuôi vịt liên tục gối đàn, mỗi lứa từ 500 con và hiện có khoảng 3.000 con đang được chăn thả.

Đặc biệt, thời gian tới HTX sẽ tiến hành các bước đăng ký sản phẩm “Vịt trời hữu cơ” là sản phẩm OCOP của huyện Ba Vì, đồng thời tiếp tục nhân rộng mô hình để đem lại hiệu quả kinh tế cho các xã viên.

Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/nuoi-vit-troi-theo-huong-huu-co-dang-ki-san-pham-ocop

Cam “ăn” đậu xanh, ngô nghiền, tưởng dở ai ngờ chở cam sang Nhật bán đắt hàng

Vài năm trở lại đây, cụm từ “nông nghiệp hữu cơ” là từ khóa mới trong sản xuất nông nghiệp ở Sơn La, nhằm tạo ra nông sản an toàn, có giá trị dinh dưỡng cao, mang lại lợi ích đối với sức khỏe con người, góp phần cải tạo, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững nền kinh tế.

 

“Sản xuất xanh”

Tháng 1/2018, HTX Nông trại hữu cơ bản Pa Cốp, xã Vân Hồ (Vân Hồ, Sơn La) được thành lập với 7 thành viên, là một trong những HTX tiên phong của tỉnh áp dụng sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ. Đến nay, HTX có 10 thành viên, canh tác 21ha cam đường canh, 4ha cây bưởi ruby và cam Vinh.

Anh Vũ Hùng Cường – Giám đốc HTX, cho biết: Trong quy trình chăm sóc cây ăn quả, các thành viên luôn coi trọng sản xuất sạch, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân hóa học. Chế phẩm HTX dùng để phun cho toàn bộ diện tích cây cam đường canh, cam Vinh được nhập từ Nhật, là dạng khuẩn sinh học. Định kỳ cho cây cam “ăn” đậu tương, ngô nghiền nhỏ ủ chung cá, nấm tạo ra phân hữu cơ. Hiện nay, toàn bộ sản phẩm cam đường canh của HTX được xuất khẩu sang Nhật với giá hợp đồng là 55.000 đồng/kg. Trung bình, mỗi ha cam đường canh có năng suất 14 tấn/ha, doanh thu bình quân 550 triệu đồng/ha, trừ chi phí, lãi 440 triệu đồng.

“Sản xuất xanh” - nông sản rộng đường xuất khẩu - Ảnh 1.

Anh Hùng Văn Cường – Giám đốc HTX Nông trại hữu cơ bản Pa Cốp, xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ (tỉnh Sơn La). Ảnh: Yến Nguyễn

Đến hết năm 2020, toàn tỉnh Sơn La có 35ha rau, cây ăn quả đã được cấp chứng nhận hữu cơ, 155ha đang được sản xuất theo hướng hữu cơ. Xây dựng, duy trì 197 chuỗi nông, lâm, thủy sản an toàn, trong đó có 159 chuỗi cung ứng sản phẩm cây trồng, sản lượng trên 30.000 tấn. Nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ của các HTX, như: HTX sinh thái Nà Sản, HTX Ngọc Lan (Mai Sơn), HTX sản xuất rau an toàn Ta Niết (Mộc Châu) đã có những sản phẩm sản xuất theo hướng hữu cơ được thị trường biết đến…

Quy trình sản xuất chặt chẽ

Nông nghiệp hữu cơ là một hình thức nông nghiệp tránh hoặc loại bỏ phần lớn việc sử dụng phân bón tổng hợp, thuốc trừ sâu, các chất điều tiết tăng trưởng của cây trồng nên yêu cầu canh tác khá khắt khe. Ông Nguyễn Quang Vinh-Giám đốc HTX Nông nghiệp Ngọc Hoàng (Mai Sơn), cho biết: Chúng tôi có 5ha thanh long được trồng theo hướng hữu cơ. Trước đây, người dân chủ yếu dùng phân bón vô cơ, đất bị thoái hóa, một số loại sâu bệnh kháng thuốc, nên khi bắt đầu chuyển sang dùng phân hữu cơ, chi phí cao gấp đôi. Hơn nữa, cần phải có hệ thống tưới ẩm tốt và từ năm thứ 3 trở đi, các loại vi sinh vật có ích mới phát triển mạnh.

Bà Cầm Thị Phong – Phó Giám đốc Sở NNPTNT, thông tin: Rất nhiều HTX khi bắt tay vào sản xuất nông nghiệp hữu cơ gặp không ít khó khăn. Do việc sản xuất hữu cơ đòi rất nhiều tiêu chí, như: Phải có thời gian nhất định để thực hiện chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp hữu cơ. Các tổ chức, cá nhân khi thực hiện sản xuất theo hướng hữu cơ phải thực hiện việc ghi chép đầy đủ rõ ràng về vật tư, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật…

HTX Ngọc Lan (Mai Sơn) tham gia thí điểm mô hình phát triển nông nghiệp hữu cơ của tỉnh. Sau hơn 2 năm triển khai đến nay HTX đã có nhiều sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo an toàn bán ra thị trường.

Với những lợi ích thiết thực về cân bằng sinh thái, sức khỏe con người và giá trị sản phẩm, phát triển nông nghiệp hữu cơ là hướng đi tất yếu. Ngoài các cơ chế, chính sách của tỉnh cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền để làm thay đổi thói quen sản xuất của người dân về sản xuất hữu cơ, cũng như thói quen lựa chọn thực phẩm của người tiêu dùng, tạo cơ hội thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ; xây dựng mối liên kết chặt chẽ và bền vững giữa các thành phần tham gia sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm hữu cơ dựa trên cơ sở chuỗi giá trị. 

Nguồn: https://danviet.vn/mot-htx-o-son-la-cho-cam-an-dau-xanh-ngo-nghien-tuong-do-ai-ngo-cho-cam-sang-nhat-ban-dat-hang-20211103165351283.htm

Nông sản xuất khẩu: Nâng cao năng suất, chất lượng nhờ khoa học – công nghệ

Nông sản xuất khẩu: Nâng cao năng suất, chất lượng nhờ khoa học – công nghệ

Nông sản là một trong những ngành xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước. Để nâng cao năng suất, chất lượng các sản phẩm nông sản, thời gian qua các ngành, địa phương đã tích cực đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN).

Là lĩnh vực chiếm tỷ lệ nghiên cứu, ứng dụng lớn nhất của hầu hết địa phương, kết quả của ngành nông nghiệp đều có sự đóng góp của KH&CN thông qua việc khuyến khích phát triển sản xuất quy mô lớn, hợp tác liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị; ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ vào sản xuất; năng lực nghiên cứu, dự báo và thông tin thị trường được nâng cao để kịp thời định hướng tổ chức sản xuất, tiêu thụ nông sản.

Nhờ đó, KH&CN đang cho thấy vai trò ngày càng quan trọng nhằm nâng cao năng suất, chất lượng nông sản Việt Nam và là đòn bẩy để mặt hàng này vươn xa đến nhiều thị trường quốc tế. Đặc biệt, trong năm 2021, mặc dù gặp nhiều khó khăn do đại dịch Covid-19, ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất, kinh doanh nhưng xuất khẩu nông sản của Việt Nam vẫn đạt 48,6 tỷ USD. Điển hình, năm 2021, sản lượng vải thiều Lục Ngạn, Bắc Giang tiêu thụ và xuất khẩu sang thị trường “khó tính” như Nhật Bản, Pháp, CH. Czech, Australia, Mỹ, Đức… với sản lượng cao nhất từ trước đến nay.

Hay tại Sơn La, thị trường xuất khẩu nông sản của tỉnh này cũng ngày càng được mở rộng như Trung Quốc, Campuchia, Anh, Mỹ, Australia, Hàn Quốc, Nhật Bản… Từ chỗ là tỉnh miền núi có diện tích đất nương đồi trồng ngô lớn nhất nước, Sơn La đã nhanh chóng chuyển đổi sang trồng cây ăn quả trên đất dốc, trở thành vựa cây ăn quả lớn thứ hai của cả nước, với tổng diện tích trên 70.000 ha. Thu nhập bình quân trên 1 ha đạt từ 150 – 500 triệu đồng/ha, góp phần nâng cao mức sống của người dân và mở rộng phát triển sản xuất.

Cũng nhờ đẩy mạnh chuyển giao khoa học, kỹ thuật, sản xuất na Chi Lăng, Hữu Lũng tại Lạng Sơn đã đạt diện tích trên 3.500 ha, trong đó hơn 400 ha Na được chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP; tổng giá trị sản xuất ước đạt khoảng 1.200 tỷ đồng, bình quân thu nhập trên 1ha canh tác na đạt 275 triệu đồng/ha.

“Nhờ ứng dụng KH&CN, năng suất một số vật nuôi, cây trồng của Việt Nam đạt cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cụ thể, năng suất lúa cao nhất trong các nước ASEAN (trong đó cao hơn gấp rưỡi Thái Lan), cà phê có năng suất đứng thứ 2 trên thế giới (chỉ sau Brazil), năng suất hồ tiêu đứng đầu thế giới, cao su đứng thứ 2 thế giới (chỉ sau Ấn Độ), cá tra với năng suất 500 tấn/ha cũng cao nhất thế giới” – đại diện Bộ KH&CN cho biết.

Nhiều chuyên gia cho rằng, để tiến vào thị trường các nước, tận dụng cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA), các sản phẩm nông sản của Việt Nam phải đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường quốc tế về chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, mẫu mã đa dạng, giá thành hợp lý, đồng thời cũng phải đảm bảo khâu cung ứng kịp thời cho nhà nhập khẩu…

Ông Nguyễn Đình Phong – Phó giám đốc Sở Công Thương tỉnh Sơn La – cho biết, để các sản phẩm nông sản có thể mở rộng thị trường, tận dụng được các cơ hội từ các Hiệp định FTA, thì trước tiên các yếu tố đầu vào như vật tư, giống cây trồng cho đến quản lý, chăm sóc, bao gói, truy xuất nguồn gốc sản phẩm… đều phải đáp ứng tiêu chuẩn, sau đó mới đưa đi giới thiệu, xúc tiến tiêu thụ sản phẩm, tiếp cận thị trường.

Nguyễn Quỳnh (Báo Công Thương)

Trồng rau an toàn ứng dụng công nghệ cao cho năng suất vượt trội

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội đang nỗ lực hỗ trợ bà con mở rộng diện tích trồng rau an toàn ứng dụng công nghệ cao để đáp ứng nhu cầu của thị trường.

Dù là Thủ đô nhưng Hà Nội có diện tích trồng rau lên đến 13.000 ha, trong đó có hơn 5.000ha được chứng nhận sản xuất an toàn. 

Đặc biệt, Hà Nội đã cho thấy sự thích ứng linh hoạt với sự phát triển của thời đại bằng cách rất nhanh chóng ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất. Hiện Thủ đô đã hình thành được 101 vùng sản xuất rau an toàn tập trung, quy mô từ 20ha trở lên. Tại các vùng trồng rau đã có 127 ha ứng dụng kỹ thuật nhà lưới, 47ha ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm, 7 nhà sơ chế rau với tổng diện tích 750 m2.

Rất nhiều các tiến bộ khoa học kĩ thuật đã được bà con ứng dụng vào sản xuất như: che phủ ni lông, nhà lưới, nhà màng và nông dân được hướng dẫn kĩ thuật để sản xuất rau an toàn, từ việc sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật sao cho hợp lý đến đánh giá sâu bệnh hại…

Cũng chính nhờ sản xuất rau an toàn, một bộ phận lớn nông dân đã thay đổi thói quen canh tác, giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, bao bì được thu gom, tiêu hủy bảo đảm vệ sinh môi trường.

Hà Nội đang nỗ lực mở rộng diện tích trồng rau an toàn ứng dụng công nghệ cao

Đặc biệt nhờ ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất rau an toàn, thu nhập của bà con đã tăng đáng kể. Giá trị sản xuất trung bình đạt từ 300-500 triệu đồng/ha/năm, đặc biệt có mô hình đạt hơn 1 tỷ đồng/ha, giá trị sản xuất rau an toàn cao hơn rau thường từ 10-20%.

Trước sự hiệu quả do mô hình trồng rau an toàn ứng dụng công nghệ cao, Sở NN&PTNT Hà Nội cho biết Sở đang nỗ lực để mở rộng diện tích mô hình này trong thời gian tới.

Về mặt tuyên truyền để thay đổi nhận thức của nông dân, Sở sẽ có những chương trình phổ biến để nâng cao nhận thức cho người dân về sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Ngoài ra, Sở sẽ tập trung nguồn kinh phí khuyến nông để hỗ trợ phát triển các mô hình sản xuất rau an toàn và xây dựng mô hình tiến bộ kỹ thuật mới. 

Không chỉ tuyên truyền, hỗ trợ về vốn và kĩ thuật, Sở NN&PTNT Hà Nội còn kết nối và khuyến khích doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác liên kết xây dựng các chuỗi sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm, đầu tư xây dựng cơ sở chế biến rau tại địa phương, tạo hiệu quả kinh tế cao. Đây chính là nền tảng để rau an toàn ngày càng có chỗ đứng vững chắc trên thị trường.

Hà Dũng (t/h) – Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam

Copyrights © 2019 VITAD-AGRI All Rights Reserved.

X