Category Archives: Tin tức

Tin tức

Thị trường tiêu thụ nông lâm và thủy sản được khơi thông, mở rộng

Thị trường tiêu thụ nông lâm và thủy sản được khơi thông, mở rộng

Theo Tổng cục Thống kê, sản xuất nông nghiệp trong tháng 4/2022 tập trung chăm sóc cây trồng vụ đông xuân tại các địa phương phía Bắc; thu hoạch lúa, hoa màu vụ đông xuân và gieo trồng lúa hè thu tại các địa phương phía Nam.

Chăn nuôi trong tháng 4 đang khởi sắc dần sau khi dịch Covid-19 được phục hồi

Chăn nuôi đang trong đà hồi phục, nhưng gặp khó khăn do giá thức ăn chăn nuôi tăng cao. Thời tiết trong tháng thuận lợi cho việc trồng rừng, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác đạt 1,6 triệu m3, tăng 5,9%.

Bên cạnh đó, nuôi trồng thủy sản phát triển khá cả ở thả nuôi mới và thu hoạch sản phẩm. Dịch Covid-19 đã được kiểm soát nên thị trường tiêu thụ sản phẩm nông sản, lâm sản, thủy sản được khơi thông, mở rộng.

Cụ thể, về nông nghiệp: Tính đến ngày 15/4, cả nước gieo cấy được 2.990,5 nghìn ha lúa đông xuân; gieo trồng được 375,5 nghìn ha ngô; 52,8 nghìn ha khoai lang; 12,6 nghìn ha đậu tương; 110 nghìn ha lạc; 584,4 nghìn ha rau đậu.

Chăn nuôi trâu, bò trong tháng 4 phát triển ổn định. Ước tính đến cuối tháng 4, tổng số lợn tăng 5,5% so với cùng thời điểm năm 2021; tổng số bò tăng 1,3%; tổng số trâu giảm 1,9%; tổng số gia cầm tăng 2,2%.

Tính đến ngày 24/4, cả nước không còn dịch tai xanh và dịch lở mồm long móng; dịch cúm gia cầm còn ở 5 địa phương; dịch tả lợn châu Phi còn ở 27 địa phương và dịch viêm da nổi cục còn ở 4 địa phương chưa qua 21 ngày.

Bảng thống kê về sản xuất nông lâm, thủy sản tháng 4/2022

Về lâm nghiệp: Trong tháng 4, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước ước đạt 30,3 nghìn ha, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước ước đạt 67,2 nghìn ha, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 34,8 triệu cây, tăng 6,8%; sản lượng gỗ khai thác đạt 4,7 triệu m3, tăng 4,4%; sản lượng củi khai thác đạt 6,2 triệu ste, tăng 0,7%.

Tình hình thiệt hại rừng 4 tháng đầu giảm so cùng kỳ năm trước. Diện tích rừng bị thiệt hại trong tháng 4 ước tính 118,6 ha, giảm 0,1% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Diện tích rừng bị cháy là 4,3 ha, giảm 77,5%; diện tích rừng bị chặt phá là 114,3 ha, tăng 14,6%.

Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, diện tích rừng bị thiệt hại là 361,8 ha, giảm 25,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Diện tích rừng bị cháy là 13,7 ha, giảm 89,8% (diện tích rừng bị cháy cùng kỳ năm trước là 134 ha); diện tích rừng bị chặt phá là 348,1 ha, giảm 0,4%.

Về thủy sản: Sản lượng thủy sản tháng 4 ước đạt 736,4 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 380,4 nghìn tấn, tăng 5,8%; sản lượng thủy sản khác ước đạt 356 nghìn tấn, giảm 0,6%

Tính chung 4 tháng đầu năm, sản lượng thủy sản ước tính đạt 2.600 nghìn tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Sản lượng nuôi trồng đạt 1.368,4 nghìn tấn, tăng 5,3%; sản lượng khai thác đạt 1.231,6 nghìn tấn, giảm 1% (sản lượng khai thác biển đạt 1.177,3 nghìn tấn, giảm 1,1%).

Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/thi-truong-tieu-thu-nong-lam-va-thuy-san-duoc-khoi-thong-mo-rong

Nông nghiệp hữu cơ: Xu hướng mới gia tăng giá trị nông sản

Việc nhân rộng các mô hình sử dụng phân bón hữu cơ không những nâng cao sản lượng, giúp nông dân tiết kiệm chi phí mà còn giúp cải tạo đất, bảo vệ môi trường.

Nâng cao năng suất và thu nhập, tiết kiệm chi phí đồng thời giúp cải tạo đất, bảo vệ môi trường là hiệu quả mang lại từ những mô hình sản xuất theo hướng hữu cơ và hữu cơ đã và đang được tỉnh Vĩnh Phúc quan tâm đầu tư trong giai đoạn 2021-2025.

Những ngày này, cánh đồng su su ngay dưới chân núi Tam Đảo ở xã Hồ Sơn, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc luôn tấp nập người dân thu hái, vận chuyển su su. Từ sau Tết Nguyên đán đến nay, giá su su luôn ở mức cao nên bà con nông dân nơi đây rất phấn khởi.

Bà Lê Thị Chín, thôn Làng Hạ, xã Hồ Sơn chia sẻ, với 2 sào su su sau hơn 1 năm tham gia mô hình theo hướng hữu cơ của Tập đoàn Quế Lâm với tiêu chuẩn “5 không”: Không thuốc diệt cỏ, không thuốc trừ sâu, không chất bảo quản, không chất kích thích sinh trưởng, không dư lượng hóa chất độc hại.  Khi vào vụ, bình quân 2 ngày/lần gia đình sẽ thu hoạch ngọn su su.

Mô hình trồng su su hữu cơ ở Vĩnh Phúc.

Nếu những ruộng su su canh tác theo phương pháp thông thường chỉ thu được 35 – 40kg/sào/lần hái thì ruộng nhà bà Chín cho sản lượng từ 45 – 50kg. Với giá bán bình quân 14.000 đồng/kg, mỗi tháng bà Chín có thể thu cả chục triệu đồng, trong khi mỗi vụ su su có thể thu hoạch kéo dài từ 7 – 8 tháng.

“Trước đây bón phân vô cơ và những loại phân thông thường chi phí từ 2 – 3 triệu/sào, còn bón phân bón hữu cơ chỉ hơn 1 triệu/sào nhưng giá su su bán ra lúc nào cũng cao hơn. Su su bán chợ có nhiều giá từ 10.000 – 15.000 đồng/kg nhưng su su trồng theo hướng hữu cơ lúc nào giá cũng cao nhất. Về chăm bón, phân hữu cơ không gây hại như bón phân vô cơ mà cây lại sinh trưởng tốt, chất lượng rau ngon”, bà Chín cho biết.

Trước nhu cầu sử dụng sản phẩm hữu cơ của người dân trên địa bàn ngày càng tăng, những năm qua, tỉnh Vĩnh Phúc đã có nhiều chính sách hỗ trợ người dân sản xuất an toàn. Chỉ tính riêng trong năm 2021, Vĩnh Phúc đã cấp kinh phí 45 tỷ đồng hỗ trợ nông dân xây dựng các mô hình trồng trọt an toàn, theo hướng hữu cơ, xử lý rơm rạ, môi trường.

Mặc dù vậy, theo ông Lê Văn Dũng, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Vĩnh Phúc, để sản phẩm nông nghiệp theo hướng hữu cơ ngày càng phát triển, có chỗ đứng trên thị trường, Bộ NN&PTNT cần ủy quyền cho Sở NN&PTNT các địa phương đứng ra cấp mã số vùng trồng cho các vùng sản xuất trên cơ sở thống nhất theo chỉ đạo của Bộ.

“Ngay cả sản phẩm tiêu thụ tại thị trường nội địa cũng cần có mã số vùng trồng, do vậy, nếu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ủy quyền cho các Sở thực hiện thì tiến độ sẽ nhanh hơn rất nhiều lần”, ông Dũng đề xuất.

Từ cách làm của doanh nghiệp trong gần 20 năm qua, ông Khắc Ngọc Bá, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Quế Lâm cho rằng, phát triển canh tác theo hướng hữu cơ là đòi hỏi tất yếu để cung cấp những sản phẩm sạch, an toàn cho người tiêu dùng, vì mục tiêu bảo vệ sức khỏe cộng đồng; định hướng sản xuất hữu cơ tạo ra giá trị nhân văn, là xu thế của tương lai cũng là mục tiêu hướng đến của doanh nghiệp.

“Doanh nghiệp đang phối hợp với nhiều địa phương chuyển giao công nghệ cho bà con nông dân sử dụng chế phẩm sinh học, từ đó có thể sản xuất phân hữu cơ từ chính những phụ phẩm nông nghiệp xung quanh vốn đang bị vứt bỏ một cách lãng phí. Nếu địa phương nào có lãnh đạo và ngành chuyên môn quan tâm, các mô hình sản xuất hữu cơ sẽ phát triển nhanh và có sự lan tỏa mạnh mẽ”, ông Bá cho biết.

Theo các chuyên gia, trong bối cảnh giá phân bón tăng tới 200% thì giá phân bón hữu cơ chỉ tăng 20% – 30%, bởi vậy việc nhân rộng các mô hình sử dụng phân bón hữu cơ không những giúp nông dân tiết kiệm chi phí mà còn giúp cải tạo đất, bảo vệ môi trường.

Giám sát sinh trưởng su su theo hướng hữu cơ ở Tam Đảo.

Bà Phạm Thị Vượng, nguyên Viện trưởng Viện Bảo vệ thực vật cho biết, thực tế sản xuất những mô hình sử dụng phân bón hữu cơ ở nhiều địa phương đã giúp tăng đáng kể hiệu quả sử dụng đất, mật độ số giun trong đất tăng cao, các chủng vi sinh vật có ích cũng tăng, hàm lượng kim loại nặng giảm, sản phẩm không còn dư lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật.

“Từ thực tế hiệu quả mô hình trồng su su theo hướng hữu cơ ở Hồ Sơn, ban đầu chỉ có 1 hộ tham gia nhưng chỉ sau 1 năm diện tích đã tăng lên 20 ha. Canh tác theo hướng hữu cơ bà con nông dân sẽ được 1 chữ “L” là lãi, và 2 chữ “H” đó là hạnh phúc và hồi sinh vì không lạm dụng phân bón vô cơ, thuốc trừ sâu, người tiêu dùng được ăn sản phẩm sạch, an toàn”, bà Vượng chia sẻ.

Trong Chỉ thị về sử dụng phân bón tiết kiệm, cân đối và hiệu quả, Bộ NN&PTNT đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo Sở NN&PTNT tập huấn, truyền thông, hướng dẫn người dân sử dụng phân bón cân đối và hiệu quả, tăng cường sản xuất, sử dụng phân bón hữu cơ, thay thế phân bón vô cơ bằng phân bón hữu cơ theo tỷ lệ phù hợp.

Đối với các doanh nghiệp thực hiện cam kết về sản xuất, sử dụng phân bón cân đối, tiết kiệm, hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp; chủ động tham gia liên kết sản xuất để hỗ trợ, khuyến khích nông dân tăng cường sử dụng phân bón hữu cơ./.

Trồng bưởi da xanh tiêu chuẩn VietGAP: Hướng đi bền vững cho bà con ở Bến Tre

Trồng bưởi da xanh tiêu chuẩn VietGAP: Hướng đi bền vững cho bà con ở Bến Tre

Bưởi da xanh có thể xem là một trong 5 loại cây ăn trái đặc sản của tỉnh Bến Tre, được đưa vào nhóm cây ăn quả chất lượng cao và được xác định là cây ăn trái chủ lực có lợi thế trong phát triển kinh tế vườn của tỉnh Bến Tre thời gian tới.

Hiện nay, diện tích trồng bưởi da xanh toàn tỉnh là 5.904 ha, chiếm 20% diện tích cây ăn trái, trong đó diện tích đã và đang cho quả trên 4.000ha, trồng mới gần 130 ha, đến nay toàn tỉnh có 55,5 ha trồng bưởi theo tiêu chuẩn VietGAP và GlobalGAP. Năng suất gần 12 tấn/ha, sản lượng trên 47 nghìn tấn/năm. Vùng trồng tập trung ở các huyện: Châu Thành, Mỏ Cày Bắc, Giồng Trôm, Chợ Lách và thành phố Bến Tre.

Theo thống kê hàng năm của tỉnh, diện tích bưởi da xanh tăng dần và đây được xem là một trong những cây trồng làm giàu cho nông dân vì năng suất cao mà giá thành cũng cao, ổn định, hiệu quả kinh tế từ cây bưởi da xanh mang lại vượt trội so với các loại cây trồng khác, bình quân cho thu nhập từ 400-500 triệu đồng/ha/năm. Khi triển khai mô hình hữu cơ, cái khó nhất là nông dân phải thật sự “đoạn tuyệt” với phân bón vô cơ, thuốc bảo vệ thực vật, điều mà theo thói quen sản xuất, người dân vẫn sử dụng bấy lâu nay.

Anh Huy (xã châu Long, Bến Tre) chia sẻ: “Gia đình tôi trước đây chỉ có trồng một số loại cây ăn quả như: cam, nhãn, sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, nhưng năng suất đầu ra kém, bấp bênh. Năm 2010, tôi quyết cải tạo vườn trồng cây bưởi da xanh chuyên canh theo hướng hữu cơ trên diện tích 2ha. Lúc đầu tôi chỉ trồng vài chục gốc, sau này thấy Bến Tre được thiên nhiên ưu đãi về khí hậu và thổ nhưỡng, phù hợp với giống cây bưởi da xanh kết hợp áp dụng tốt các tiến bộ kỹ thuật nên vườn cây ngày một tươi tốt. Sau 3 năm, vườn bưởi đã lên trái xum xuê, trĩu quả nên tôi nhân rộng trồng lên vài trăm gốc và đều đạt sản lượng”.

Đó cũng là điều kiện thuận lợi cho người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng mang lại năng suất cao, giúp bà con có thu nhập ổn định, sớm thoát nghèo. Nhờ canh tác theo hướng hữu cơ, bưởi da xanh ở Bến Tre càng được thương lái ưa chuộng. Giá bưởi loại 1 dao động từ 35.000 đồng – 45.000 đồng/quả. Bình quân mỗi năm thu hoạch khoảng 60 tấn bưởi, mỗi ngày có thể tiêu thụ được cả tấn bưởi. Mỗi năm nguồn lãi có thể thu về gần 1 tỷ đồng. 

Bưởi da xanh được chăm sóc đúng kỹ thuật cho giống bưởi da căng, vỏ mỏng

Tuy nhiên, dịch Covid-19 cũng làm ảnh hưởng nặng nề đến năng suất tiêu thụ bưởi da xanh. Nhiều tỉnh, thành khác thực hiện giãn cách xã hội, thương lái không thể đến thu mua, nên lượng bưởi tồn đọng khá lớn làm ảnh hưởng lớn tới giá cả, được mùa nhưng mất giá.

Nếu không được tiêu thụ kịp thời, nhà vườn không chỉ thất thu mà còn ảnh hưởng đến quá trình chăm sóc vụ tiếp theo. Vì bưởi chín mà không hái kịp sẽ bị khô nước. Còn giữ lại trái bưởi trên cây khi mưa giông dễ khiến cây bị gãy đổ, hư hại.

Ông Đàm Văn Hưng, chủ cơ sở Hương Miền Tây, Phó Chủ tịch Hiệp hội Bưởi da xanh tỉnh Bến Tre chia sẻ: “Bến Tre có nhiều mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ trên trái bưởi da xanh. Việc liên kết sản xuất, tiêu thụ theo quy trình an toàn được chứng nhận đã giúp bà con trồng bưởi vững vàng giữa đại dịch”.

Nhà nông phân loại bưởi để đưa tới nhà xưởng sản xuất

Dù khá nổi tiếng và hàng năm cung ứng ra thị trường hàng chục ngàn tấn trái, nhưng bưởi da xanh Bến Tre vẫn loay hoay với thị trường nội địa. Mặc dù có rất nhiều đơn đặt hàng từ các nước như Đức, Pháp, Canada, Hà Lan, Nga, Trung Quốc… nhưng bưởi da xanh Bến Tre chủ yếu được tiêu thụ trong nước. Nguyên nhân là do sản xuất manh mún, thiếu liên kết, sản lượng và chất lượng trái bưởi không ổn định, số lượng không đủ để các doanh nghiệp đầu mối ký hợp đồng xuất khẩu ra ngoài nước.

Video: Mô hình trồng bưởi da xanh ở Bến Tre

Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/trong-buoi-da-xanh-tieu-chuan-vietgap-huong-di-ben-vung-cho-ba-con-o-ben-tre

Phân cấp quản lý mã số vùng trồng về địa phương

Phân cấp quản lý mã số vùng trồng về địa phương

 

Tại hội nghị phổ biến các quy định mới về xoài xuất khẩu đi thị trường Nhật Bản vừa qua tại An Giang và Đồng Tháp, bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (BVTV) cho biết, số lượng mã số vùng trồng các Chi cục địa phương quản lý hiện rất lớn.


Hội nghị phổ biến các quy định mới về xuất khẩu đi thị trường Nhật Bản tổ chức trực tiếp và trực tuyến ngày 14/3/2022 tại An Giang

Trên quan điểm giúp người dân nâng cao hơn nữa nhận thức về mã số vùng trồng, cũng như các kỹ thuật canh tác “1 phải 5 giảm”, “3 giảm 3 tăng”…, Cục BVTV chủ trương bàn giao dần những mã số đã được cấp từ Chi cục về huyện (Trạm Trồng trọt và BVTV huyện, Phòng NN-PTNT huyện).

Trong quá trình chuyển giao, Chi cục địa phương cần phối hợp với các đơn vị cấp huyện giám sát mã số vùng trồng theo quy định, yêu cầu của nước nhập khẩu.

Hàng năm, Chi cục cấp tỉnh, thành phố sẽ kiểm tra, rà soát lại công tác giám sát mã số vùng trồng đã cấp, với tỷ lệ khoảng 10 – 15% hồ sơ mà Trạm Trồng trọt và BVTV cấp huyện quản lý.

Chi cục cấp tỉnh, thành phố sẽ chỉ kiểm tra các vùng trồng được đề nghị cấp mã số mới. “Trong quá trình này, chúng ta cần tăng cường công tác tập huấn cho nông dân, doanh nghiệp để thay đổi nhận thức”, bà Hương nói.

Theo Cục BVTV, định hướng mới của Cục sẽ giúp bà con nông dân hiểu rõ và nắm chắc hơn những yêu cầu xuất khẩu. Trong bối cảnh các nước đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, quy cách đóng gói, bao bì, cách làm này sẽ giúp ngành nông nghiệp Việt Nam phát triển bài bản, bền vững hơn.

Cùng với việc giải đáp thắc mắc của các đại biểu và bà con nông dân, bà Hương còn giới thiệu cho đại biểu tham dự cách tra cứu thuốc BVTV bằng phần mềm tra cứu thuốc BVTV trên điện thoại. Các thao tác truy cập phần mềm cơ sở dữ liệu về phân bón và những quy định mới về kiểm dịch thực vật của các nước trên website Cục BVTV cũng được cán bộ Cục BVTV hướng dẫn.

Tính đến cuối năm 2021, toàn tỉnh An Giang được cấp 236 mã số cho 123 vùng trồng (xoài, lúa, mít và chuối) xuất khẩu. Trong đó, xoài 195 mã số của 82 vùng trồng (diện tích 5.146 ha). 

Trong năm nay, Cục BVTV đã tổ chức 1 lớp tập huấn online về quy định mã số vùng trồng trên lúa cho 84 lượt học viên; tập huấn 14 lớp cho 140 các cán bộ của Trạm Trồng trọt và BVTV huyện, Trạm Khuyến nông và cán bộ các huyện; tập huấn 20 lớp cho tổ chức, cá nhân, nông dân với 200 người.

Song song với đẩy mạnh xuất khẩu, Cục BVTV cũng phối hợp Sở NN-PTNT An Giang triển khai mô hình trình diễn thuốc BVTV sinh học trên đồng ruộng, hay “Cánh đồng ước mơ” góp phần bảo vệ môi trường, tạo thói quen cho nông dân giảm lượng thuốc BVTV hóa học. 

Ngành BVTV tại An Giang cũng đã triển khai 4 mô hình sử dụng phân bón tại các huyện Châu Thành, Tri Tôn, Chợ Mới và An Phú trên các giống OM 18, OM 5451 và VNG-20. Kết quả, các mô hình sử dụng phân bón ít hơn ruộng đối chứng của nông dân từ 100 – 130 kg/ha, giúp giảm chi phí sản xuất khoảng 3,5 – 4 triệu đồng/ha. 


Cán bộ Cục Bảo vệ thực vật và cán bộ, nông dân kiểm tra các vùng trồng xoài tại An Giang

Trong năm 2022, Cục BVTV sẽ phối hợp với Sở NN-PTNT An Giang dự kiến tổ chức 5 lớp tập huấn trên lúa, cây ăn quả và rau màu. Ngoài ra, các mô hình “Không dấu chân”, “Canh tác lúa gạo bền vững”, “Mô hình bao lợi nhuận” sẽ được Cục tiếp tục thực hiện.

Tại Hội thảo ngày 14/3, một trong những vấn đề được người làm nông nghiệp An Giang quan tâm là xoài Cát Chu. Đây là mặt hàng được Nhật Bản chính thức mở cửa từ năm 2015, nhờ nỗ lực của Cục BVTV trong việc đàm phán, từng bước tháo gỡ các rào cản kỹ thuật, đồng thời hướng dẫn các địa phương thiết lập vùng nguyên liệu đáp ứng các quy định về kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm 

Để các vùng trồng xoài duy trì việc đáp ứng các điều kiện xuất khẩu sang Nhật Bản, Cục BVTV khuyến cáo người dân không ngừng nâng cao kỹ thuật và trình độ sản xuất, đồng thời có những hiểu biết nhất định về quy định thị trường này.

Bảo Thắng (Báo Nông nghiệp Việt Nam)

Công văn số 953/BVTV-ATTP: Cập nhật một số nội dung đăng ký xuất khẩu thực phẩm có nguồn gốc thực vật nhập khẩu theo Lệnh 248 của Trung Quốc

Công văn số 953/BVTV-ATTP: Cập nhật một số nội dung đăng ký xuất khẩu thực phẩm có nguồn gốc thực vật nhập khẩu theo Lệnh 248 của Trung Quốc

 

Công văn số 953/BVTV-ATTP ngày 13/03/2022 về cập nhật một số nội dung đăng ký xuất khẩu thực phẩm có nguồn gốc thực vật nhập khẩu theo Lệnh 248 của Trung Quốc.

Tài liệu hướng dẫn sử dụng Hệ thống Quản lý đăng ký cho các doanh nghiệp thực phẩm nhập khẩu ở nước ngoài của Trung Quốc (bản mới) 

Quy định mới EU 2018/848 có làm khó nông sản hữu cơ Việt Nam?

Quy định mới EU 2018/848 có làm khó nông sản hữu cơ Việt Nam?

 

Các sản phẩm hữu cơ muốn xuất khẩu sang EU phải tuân thủ các quy tắc về sản xuất hữu cơ theo Quy định EU 848/2018 và phải được cấp chứng nhận xuất khẩu hữu cơ.

Thách thức lớn đối với các nhà xuất khẩu

Để tăng cường phát triển diện tích sản xuất hữu cơ cũng như thị trường nông sản hữu cơ, vào tháng 5/2020, Nghị viện Châu Âu đã xây dựng và triển khai kế hoạch hành động để phát triển sản xuất hữu cơ tại EU từ năm 2021 – 2027, nhằm hướng tới mục tiêu 25% diện tích đất nông nghiệp được áp dụng sản xuất hữu cơ vào năm 2030.

Trước đây, sản phẩm nông hữu cơ tại thị trường EU đang áp dụng theo các quy định (EC) số 834/2007. Với quy định này, EU cho phép các nước xuất khẩu áp dụng các tiêu chuẩn khác đã được đối chuẩn (benchmark) với yêu cầu của EU.

Điều này tạo nên sự không đồng nhất về mức chất lượng của các sản phẩm hữu cơ khi áp dụng các tiêu chuẩn khác nhau. Ngoài ra, yêu cầu về tiêu chuẩn hữu cơ của EU thường cao hơn so với yêu cầu của các tiêu chuẩn khác, do vậy tạo ra sự cạnh tranh không công bằng giữa các nhà sản xuất hữu cơ ở EU với các nhà sản xuất hữu cơ khác trên thế giới.

Trong thời gian vừa qua, EU cũng phát hiện một số trường hợp các nhà sản xuất có sự không minh bạch trong việc triển khai, áp dụng các tiêu chuẩn hữu cơ khác.

Bởi thế, Liên minh châu Âu đã đưa ra một bộ quy tắc mới theo Quy định (EU) số 2018/848 nhằm đảm bảo cạnh tranh công bằng, đồng thời ngăn chặn gian lận và nâng cao lòng tin của người tiêu dùng tại EU về các sản phẩm hữu cơ.

Quy định mới không chỉ kiểm soát rất chặt chẽ việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong các sản phẩm, mà còn liên quan đến quản lý đất và sản xuất thực phẩm. Bộ quy tắc đơn nhất này cũng sẽ áp dụng cho các nông dân ngoài EU xuất khẩu sản phẩm hữu cơ của họ sang thị trường EU.

Với các quy định mới như vậy sẽ công bằng cho các nhà sản xuất nông nghiệp EU. Tuy nhiên, điều này sẽ tạo ra thách thức không nhỏ đối với các nhà sản xuất hữu cơ ở các nước đang phát triển để có thể đáp ứng được các yêu cầu nghiêm ngặt của quy định mới.

Sản xuất quế hữu cơ của Công ty Quế Việt Nam

Quy định mới của EU 2018/848

Hiện tại, Việt Nam đang xuất khẩu nông sản sang thị trường EU khoảng 5,5 tỷ USD/năm, chiếm tỷ trọng 15% tổng giá trị nông sản xuất khẩu. EU đang là thị trường lớn thứ ba của xuất khẩu nông sản Việt Nam (sau Trung Quốc, Mỹ).

Vậy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là nông sản hữu cơ sẽ thay đổi như thế nào khi áp dụng quy định hữu cơ mới EU 2018/848?

Theo các chuyên gia nông nghiệp, hiện tại, Hiệp định EVFTA được thực thi sẽ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam trên các thị trường khó tính thuộc EU, thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam.

Với 99,2% số dòng thuế trong biểu thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU được cắt giảm trong vòng 7 năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực.

0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại (bao gồm một số sản phẩm gạo, ngô ngọt, tỏi, nấm, đường và các sản phẩm chứa hàm lượng đường cao, tinh bột sắn, cá ngừ đóng hộp) được EU cam kết mở cửa cho Việt Nam theo hạn ngạch thuế quan, sẽ giúp cho hàng nông sản Việt Nam tăng cường lợi thế cạnh tranh về giá so với nông sản xuất khẩu của các đối thủ cạnh tranh không phải là thành viên hiệp định.

Một sản phẩm có thể xuất khẩu đến EU hoặc các quốc gia ngoài EU dưới dạng sản phẩm hữu cơ và có thể mang biểu tượng logo sản xuất hữu cơ của châu Âu với điều kiện sản phẩm đó phải tuân thủ các quy tắc về sản xuất hữu cơ theo Quy định EU 848/2018.

Sản phẩm hữu cơ xuất khẩu phải được cấp giấy chứng nhận xuất khẩu hữu cơ để đảm bảo rằng sản phẩm hữu cơ xuất khẩu được thực hiện theo Quy định hữu cơ EU 2018/848.

Các Nguyên tắc chung của Quy định hữu cơ EU 2018/848

– Tôn trọng các chu trình và hệ thống tự nhiên cũng như là duy trì, nâng cao hiện trạng của đất, nước, không khí, sức khỏe của động vật, thực vật và cân bằng giữa chúng.

– Bảo tồn các yếu tổ cảnh quan tự nhiên như các khu di sản thiên nhiên; Sử dụng tài nguyên thiên nhiên và năng lượng có trách nhiệm như đất, nước, các vật chất hữu cơ và không khí.

– Sản xuất nhiều loại thực phẩm chất lượng cao cùng như các sản phẩm nông nghiệp và thủy sản đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Các sản phẩm hữu cơ này được sản xuất bằng cách sử dụng các quy trình không gây hại cho môi trường, sức khỏe con người và phúc lợi động vật.

– Đảm bảo tính toàn vẹn của sản xuất hữu cơ ở tất cả các giai đoạn sản xuất, sơ chế, chế biến, phân phối thực phẩm và thức ăn chăn nuôi.

– Quản lý và thiết kế thích hợp quá trình sinh học, dựa trên các hệ thống sinh thái và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên bên trong hệ thống quản lý; Hạn chế sử dụng các yếu tố đầu vào từ bên ngoài.

Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/quy-dinh-moi-eu-2018-848-co-lam-kho-nong-san-huu-co-viet-nam-2

Nuôi vịt trời theo hướng hữu cơ, đăng kí sản phẩm OCOP

Nuôi vịt trời theo hướng hữu cơ, đăng kí sản phẩm OCOP

Vịt trời nuôi theo hướng hữu cơ của HTX Chăn nuôi và tiêu thụ gà đồi Ba Vì đang tiến hành các bước  đăng kí đây là sản phẩm OCOP của huyện.

HTX Chăn nuôi và tiêu thụ gà đồi Ba Vì là đơn vị đã xây dựng được thương hiệu trên thị trường với sản phẩm chủ lực là gà đồi. Tuy nhiên, do nhu cầu của thị trường và những điều kiện môi trường sẵn có, một số thành viên của HTX đã quyết định chăn nuôi vịt trời theo hướng hữu cơ từ cuối năm 2021 và nhân rộng từ đó đến nay.

Thành viên của HTX, anh Trương Đức Hoàng, thôn Đông An, xã Thuỵ An, huyện Ba Vì, nhận thấy diện tích đất đai, ao đầm của gia đình mình phù hợp với việc phát triển chăn nuôi vịt trời theo hướng hữu cơ. Sau khi tìm hiểu, anh đã mạnh dạn đầu tư chuồng trại chăn nuôi 1.000 con vịt trời theo hình thức bán hoang dã. Nhờ chăm sóc đúng kỹ thuật, đàn vịt của gia đình anh sinh trưởng, phát triển tốt.

Với việc sử dụng các loại thức ăn như: ngô, cám mì, giun quế, ấu trùng, cá xay ủ lên men và trộn thêm vi lượng khoáng chất… vịt trời nuôi theo hướng hữu cơ của HTX có vị thơm ngon, đặc trưng nên được thị trường rất ưa chuộng. Ngoài ra, để đảm bảo sản phẩm hữu cơ, an toàn đến tay người tiêu dùng, vịt trời được chăn nuôi ở môi trường thoáng mát, nguồn nước sạch sẽ.

Vịt trời nuôi theo hướng hữu cơ đem lại hiệu quả kinh tế cao đang được nhân rộng

Hiện vịt trời theo hướng hữu cơ của HTX Chăn nuôi và tiêu thụ gà đồi Ba Vì luôn trong tình trạng “cháy hàng”, có bao nhiêu hết ngay đến đó với giá cả rất tốt khoảng 150 nghìn/con vịt 1kg.

Với hiệu quả như vậy, hiện HTX chăn nuôi vịt liên tục gối đàn, mỗi lứa từ 500 con và hiện có khoảng 3.000 con đang được chăn thả.

Đặc biệt, thời gian tới HTX sẽ tiến hành các bước đăng ký sản phẩm “Vịt trời hữu cơ” là sản phẩm OCOP của huyện Ba Vì, đồng thời tiếp tục nhân rộng mô hình để đem lại hiệu quả kinh tế cho các xã viên.

Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/nuoi-vit-troi-theo-huong-huu-co-dang-ki-san-pham-ocop

Hội thảo Khởi động dự án “Tăng cường năng lực cho nông dân quy mô nhỏ thông qua việc thống nhất mạng lưới PGS hữu cơ tại Việt Nam”

Hội thảo Khởi động dự án “Tăng cường năng lực cho nông dân quy mô nhỏ thông qua việc thống nhất mạng lưới PGS hữu cơ tại Việt Nam”

Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam (VOAA) là tổ chức xã hội – nghề nghiệp được thành lập năm 2011, kể từ khi thành lập Hiệp hội đã là đơn vị thúc đẩy, phát triển hệ thống đảm bảo cùng tham gia (PGS) trong giám sát, quản lý chất lượng sản phẩm hữu cơ đặc biệt đối với nông dân quy mô nhỏ tại Việt Nam. Hiệp hội cùng Tổ chức phát triển nông nghiệp Đan Mạch Châu Á (ADDA) đã ký kết thỏa thuận thực hiện dự án “Tăng cường năng lực cho nông dân quy mô nhỏ thông qua việc thống nhất mạng lưới PGS hữu cơ tại Việt Nam” (Tên viết tắt: ESUP). Với mục tiêu chính là nâng cao sinh kế cho nông dân hữu cơ quy mô nhỏ tại 07 tỉnh, thành phố thông qua cải tiến tổ chức, chia sẻ thị trường nông sản và năng lực vận động chính sách.

Ảnh: Hộ nông dân được chứng nhận PGS chăm sóc rau hữu cơ

Hội thảo Khởi động dự án “Tăng cường năng lực cho nông dân quy mô nhỏ thông qua việc thống nhất mạng lưới PGS hữu cơ tại Việt Nam” – ESUP được tổ chức vào:
Thời gian: 1/2 ngày, bắt đầu từ 8h30 ngày 16 tháng 4 năm 2022 (Thứ Bảy)
Địa điểm:  Vạn Phúc, Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội

Chương trình hội thảo: 

 

 

Cam “ăn” đậu xanh, ngô nghiền, tưởng dở ai ngờ chở cam sang Nhật bán đắt hàng

Vài năm trở lại đây, cụm từ “nông nghiệp hữu cơ” là từ khóa mới trong sản xuất nông nghiệp ở Sơn La, nhằm tạo ra nông sản an toàn, có giá trị dinh dưỡng cao, mang lại lợi ích đối với sức khỏe con người, góp phần cải tạo, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững nền kinh tế.

 

“Sản xuất xanh”

Tháng 1/2018, HTX Nông trại hữu cơ bản Pa Cốp, xã Vân Hồ (Vân Hồ, Sơn La) được thành lập với 7 thành viên, là một trong những HTX tiên phong của tỉnh áp dụng sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ. Đến nay, HTX có 10 thành viên, canh tác 21ha cam đường canh, 4ha cây bưởi ruby và cam Vinh.

Anh Vũ Hùng Cường – Giám đốc HTX, cho biết: Trong quy trình chăm sóc cây ăn quả, các thành viên luôn coi trọng sản xuất sạch, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân hóa học. Chế phẩm HTX dùng để phun cho toàn bộ diện tích cây cam đường canh, cam Vinh được nhập từ Nhật, là dạng khuẩn sinh học. Định kỳ cho cây cam “ăn” đậu tương, ngô nghiền nhỏ ủ chung cá, nấm tạo ra phân hữu cơ. Hiện nay, toàn bộ sản phẩm cam đường canh của HTX được xuất khẩu sang Nhật với giá hợp đồng là 55.000 đồng/kg. Trung bình, mỗi ha cam đường canh có năng suất 14 tấn/ha, doanh thu bình quân 550 triệu đồng/ha, trừ chi phí, lãi 440 triệu đồng.

“Sản xuất xanh” - nông sản rộng đường xuất khẩu - Ảnh 1.

Anh Hùng Văn Cường – Giám đốc HTX Nông trại hữu cơ bản Pa Cốp, xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ (tỉnh Sơn La). Ảnh: Yến Nguyễn

Đến hết năm 2020, toàn tỉnh Sơn La có 35ha rau, cây ăn quả đã được cấp chứng nhận hữu cơ, 155ha đang được sản xuất theo hướng hữu cơ. Xây dựng, duy trì 197 chuỗi nông, lâm, thủy sản an toàn, trong đó có 159 chuỗi cung ứng sản phẩm cây trồng, sản lượng trên 30.000 tấn. Nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ của các HTX, như: HTX sinh thái Nà Sản, HTX Ngọc Lan (Mai Sơn), HTX sản xuất rau an toàn Ta Niết (Mộc Châu) đã có những sản phẩm sản xuất theo hướng hữu cơ được thị trường biết đến…

Quy trình sản xuất chặt chẽ

Nông nghiệp hữu cơ là một hình thức nông nghiệp tránh hoặc loại bỏ phần lớn việc sử dụng phân bón tổng hợp, thuốc trừ sâu, các chất điều tiết tăng trưởng của cây trồng nên yêu cầu canh tác khá khắt khe. Ông Nguyễn Quang Vinh-Giám đốc HTX Nông nghiệp Ngọc Hoàng (Mai Sơn), cho biết: Chúng tôi có 5ha thanh long được trồng theo hướng hữu cơ. Trước đây, người dân chủ yếu dùng phân bón vô cơ, đất bị thoái hóa, một số loại sâu bệnh kháng thuốc, nên khi bắt đầu chuyển sang dùng phân hữu cơ, chi phí cao gấp đôi. Hơn nữa, cần phải có hệ thống tưới ẩm tốt và từ năm thứ 3 trở đi, các loại vi sinh vật có ích mới phát triển mạnh.

Bà Cầm Thị Phong – Phó Giám đốc Sở NNPTNT, thông tin: Rất nhiều HTX khi bắt tay vào sản xuất nông nghiệp hữu cơ gặp không ít khó khăn. Do việc sản xuất hữu cơ đòi rất nhiều tiêu chí, như: Phải có thời gian nhất định để thực hiện chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp hữu cơ. Các tổ chức, cá nhân khi thực hiện sản xuất theo hướng hữu cơ phải thực hiện việc ghi chép đầy đủ rõ ràng về vật tư, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật…

HTX Ngọc Lan (Mai Sơn) tham gia thí điểm mô hình phát triển nông nghiệp hữu cơ của tỉnh. Sau hơn 2 năm triển khai đến nay HTX đã có nhiều sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo an toàn bán ra thị trường.

Với những lợi ích thiết thực về cân bằng sinh thái, sức khỏe con người và giá trị sản phẩm, phát triển nông nghiệp hữu cơ là hướng đi tất yếu. Ngoài các cơ chế, chính sách của tỉnh cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền để làm thay đổi thói quen sản xuất của người dân về sản xuất hữu cơ, cũng như thói quen lựa chọn thực phẩm của người tiêu dùng, tạo cơ hội thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ; xây dựng mối liên kết chặt chẽ và bền vững giữa các thành phần tham gia sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm hữu cơ dựa trên cơ sở chuỗi giá trị. 

Nguồn: https://danviet.vn/mot-htx-o-son-la-cho-cam-an-dau-xanh-ngo-nghien-tuong-do-ai-ngo-cho-cam-sang-nhat-ban-dat-hang-20211103165351283.htm

Nông sản xuất khẩu: Nâng cao năng suất, chất lượng nhờ khoa học – công nghệ

Nông sản xuất khẩu: Nâng cao năng suất, chất lượng nhờ khoa học – công nghệ

Nông sản là một trong những ngành xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước. Để nâng cao năng suất, chất lượng các sản phẩm nông sản, thời gian qua các ngành, địa phương đã tích cực đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN).

Là lĩnh vực chiếm tỷ lệ nghiên cứu, ứng dụng lớn nhất của hầu hết địa phương, kết quả của ngành nông nghiệp đều có sự đóng góp của KH&CN thông qua việc khuyến khích phát triển sản xuất quy mô lớn, hợp tác liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị; ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ vào sản xuất; năng lực nghiên cứu, dự báo và thông tin thị trường được nâng cao để kịp thời định hướng tổ chức sản xuất, tiêu thụ nông sản.

Nhờ đó, KH&CN đang cho thấy vai trò ngày càng quan trọng nhằm nâng cao năng suất, chất lượng nông sản Việt Nam và là đòn bẩy để mặt hàng này vươn xa đến nhiều thị trường quốc tế. Đặc biệt, trong năm 2021, mặc dù gặp nhiều khó khăn do đại dịch Covid-19, ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất, kinh doanh nhưng xuất khẩu nông sản của Việt Nam vẫn đạt 48,6 tỷ USD. Điển hình, năm 2021, sản lượng vải thiều Lục Ngạn, Bắc Giang tiêu thụ và xuất khẩu sang thị trường “khó tính” như Nhật Bản, Pháp, CH. Czech, Australia, Mỹ, Đức… với sản lượng cao nhất từ trước đến nay.

Hay tại Sơn La, thị trường xuất khẩu nông sản của tỉnh này cũng ngày càng được mở rộng như Trung Quốc, Campuchia, Anh, Mỹ, Australia, Hàn Quốc, Nhật Bản… Từ chỗ là tỉnh miền núi có diện tích đất nương đồi trồng ngô lớn nhất nước, Sơn La đã nhanh chóng chuyển đổi sang trồng cây ăn quả trên đất dốc, trở thành vựa cây ăn quả lớn thứ hai của cả nước, với tổng diện tích trên 70.000 ha. Thu nhập bình quân trên 1 ha đạt từ 150 – 500 triệu đồng/ha, góp phần nâng cao mức sống của người dân và mở rộng phát triển sản xuất.

Cũng nhờ đẩy mạnh chuyển giao khoa học, kỹ thuật, sản xuất na Chi Lăng, Hữu Lũng tại Lạng Sơn đã đạt diện tích trên 3.500 ha, trong đó hơn 400 ha Na được chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP; tổng giá trị sản xuất ước đạt khoảng 1.200 tỷ đồng, bình quân thu nhập trên 1ha canh tác na đạt 275 triệu đồng/ha.

“Nhờ ứng dụng KH&CN, năng suất một số vật nuôi, cây trồng của Việt Nam đạt cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cụ thể, năng suất lúa cao nhất trong các nước ASEAN (trong đó cao hơn gấp rưỡi Thái Lan), cà phê có năng suất đứng thứ 2 trên thế giới (chỉ sau Brazil), năng suất hồ tiêu đứng đầu thế giới, cao su đứng thứ 2 thế giới (chỉ sau Ấn Độ), cá tra với năng suất 500 tấn/ha cũng cao nhất thế giới” – đại diện Bộ KH&CN cho biết.

Nhiều chuyên gia cho rằng, để tiến vào thị trường các nước, tận dụng cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA), các sản phẩm nông sản của Việt Nam phải đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường quốc tế về chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, mẫu mã đa dạng, giá thành hợp lý, đồng thời cũng phải đảm bảo khâu cung ứng kịp thời cho nhà nhập khẩu…

Ông Nguyễn Đình Phong – Phó giám đốc Sở Công Thương tỉnh Sơn La – cho biết, để các sản phẩm nông sản có thể mở rộng thị trường, tận dụng được các cơ hội từ các Hiệp định FTA, thì trước tiên các yếu tố đầu vào như vật tư, giống cây trồng cho đến quản lý, chăm sóc, bao gói, truy xuất nguồn gốc sản phẩm… đều phải đáp ứng tiêu chuẩn, sau đó mới đưa đi giới thiệu, xúc tiến tiêu thụ sản phẩm, tiếp cận thị trường.

Nguyễn Quỳnh (Báo Công Thương)

Copyrights © 2019 VITAD-AGRI All Rights Reserved.

X