Việt Nam là thị trường cung cấp chè lớn thứ 5 cho Hoa Kỳ
Chủ động các giải pháp tiêu thụ nông sản
Ngành Nông nghiệp và các địa phương đã chủ động triển khai nhiều giải pháp nhằm nâng cao giá trị sản phẩm, đẩy mạnh việc tiêu thụ nông sản trong nước và xuất khẩu đi các nước, thời gian qua.
Đây là một trong những giải pháp quan trọng, đó là chú trọng thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu nông sản, đẩy mạnh liên kết chuỗi để hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã tìm kiếm, mở rộng thị trường…
Tại Sơn La, trong năm 2021 đã đẩy mạnh xúc tiến thương mại cho các sản phẩm xoài, nhãn và mở rộng thị trường tới 21 quốc gia, vùng lãnh thổ như: Ba Lan, Hà Lan, Anh… với giá trị xuất khẩu hơn 161 triệu USD, tổng sản lượng nông sản xuất khẩu đạt 144.759 tấn.
Từ đầu năm đến nay, Sơn La tập trung hoàn thiện hệ thống các kênh tiêu thụ nông sản, kết nối chặt chẽ theo chuỗi giá trị, gia tăng sản xuất, chế biến, bảo quản, tiêu thụ, bảo đảm lợi ích của các đối tượng tham gia hợp tác liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản.
Giải pháp tháo gỡ khó khăn trong tiêu thụ nông sản
Mới đây, Sở NN&PTNT Hà Nội đã phối hợp với các địa phương kết nối đưa hàng trăm tấn nông sản của Hà Nội và các tỉnh, thành phố vào hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện ích, điểm giới thiệu Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP). Hà Nội cũng đã triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa thiết yếu qua các kênh thương mại điện tử…
Đặc biệt, từ đầu năm đến nay, ngành Nông nghiệp đã hỗ trợ, kết nối đưa một lượng lớn nông sản vào vụ thu hoạch hoặc xuất khẩu gặp khó khăn vào các hệ thống siêu thị như: Big C, AEON, Hapro, Vinmart; đồng thời thúc đẩy việc tham gia các sàn thương mại điện tử uy tín như: Alibaba, Amazon, Sendo, Voso, Shopee…
Mặt khác, các cơ quan chức năng đã phối hợp với đại sứ quán, thương vụ Việt Nam xây dựng kênh trao đổi, cung cấp thông tin các thị trường xuất khẩu trọng tâm như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, châu Âu, Trung Quốc… để đánh giá, dự báo thị trường và đưa ra giải pháp ứng phó kịp thời, linh hoạt…
Thực tế cho thấy, việc xúc tiến thương mại tiêu thụ nông sản còn không ít khó khăn, chủ yếu từ các vấn đề nội tại, như một số địa phương chưa chú trọng phát triển công nghiệp chế biến nên sản phẩm phần nhiều còn dưới dạng tươi sống và chưa tạo được nhiều mặt hàng mang tính đặc trưng.
Huyện Lâm Thao, Phú Thọ chủ động trong chỉ đạo các vùng trồng rau, đảm bảo nguồn cung phục vụ nhu cầu của thị trường
Đồng thời, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp hầu hết có quy mô vừa và nhỏ, thiếu cả vốn và nguồn nhân lực cho hoạt động xúc tiến thương mại…
Ngoài ra, cơ quan quản lý nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện việc cấp tem truy xuất nguồn gốc nhằm tạo thuận lợi cho tiêu thụ sản phẩm; đồng thời cho biết, công ty sẽ tập trung xây dựng vùng nguyên liệu lúa gạo chất lượng cao theo hướng an toàn; đầu tư chế biến sâu các sản phẩm và xây dựng thương hiệu để mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước, hướng tới xuất khẩu.
Về vấn đề này, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Nguyễn Ngọc Sơn thông tin: Ngành Nông nghiệp sẽ đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại; gắn việc quảng bá du lịch với các chương trình công bố giới thiệu sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản…; phát triển vùng nguyên liệu phục vụ các nhà máy chế biến và mở rộng thị trường tiêu thụ những mặt hàng có lợi thế như: Gạo chất lượng cao, nhãn chín muộn, chuối…
Các doanh nghiệp cần tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa kênh bán hàng trực tiếp và trực tuyến…, qua đó vừa tiết kiệm được chi phí vừa có thể quảng bá sản phẩm tới người tiêu dùng một cách dễ dàng, thuận lợi.
Bên cạnh việc đề nghị các địa phương chú trọng phát triển công nghiệp chế biến; tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp để đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm nguồn cung trong nước và phục vụ xuất khẩu, Bộ NN&PTNT đang tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng, doanh nghiệp tăng cường các biện pháp hỗ trợ hoạt động thương mại biên giới, tạo thuận lợi về thủ tục thông quan, không để ứ đọng hàng hóa.
Mặc dù gặp không ít khó khăn do diễn biến của dịch bệnh nhưng các hộ chăn nuôi luôn chủ động để đảm bảo cung ứng cho thị trường
Cùng với đó là triển khai các giải pháp hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại; đa dạng các biện pháp phân phối hàng hóa; kích cầu tiêu dùng trong nước để chuẩn bị cho các vụ thu hoạch nông sản.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam cho rằng, các địa phương có vùng nguyên liệu lớn cần chủ động phương án hỗ trợ tiêu thụ nông sản, tránh tình trạng ứ đọng hàng hóa; đồng thời thông tin kịp thời về tình hình sản xuất, lưu thông nông sản tại địa phương để chủ động điều chỉnh kế hoạch sản xuất theo nhu cầu thị trường.
Bên cạnh đó, các hiệp hội, ngành hàng, doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng của Bộ NN&PTNT, Bộ Công thương để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nội địa và nhân rộng các hình thức liên kết sản xuất nhằm ổn định giá nông sản trong mọi tình huống.
Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/chu-dong-cac-giai-phap-tieu-thu-nong-san
Dự án VnSAT giúp nông dân chuyển đổi phương thức canh tác
Dự án VnSAT giúp nông dân chuyển đổi phương thức canh tác
Dự án Chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam (VnSAT) đã thay đổi thói quen, tập quán canh tác nông nghiệp của bà con nông dân trong thời gian qua.
Dự án VnSAT được thực hiện từ năm 2015 đến tháng 6/2022 tại 8 tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long, gồm: Tiền Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Long An, Sóc Trăng, Hậu Giang, Cần Thơ, An Giang. Trong đó, giai đoạn từ 2021 trở về sau là giai đoạn gia hạn, chủ yếu thực hiện các hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng, thiết bị hỗ trợ nông dân.
Trong năm 2021, tại 8 địa phương thực hiện dự án VnSAT đã có hơn 61.300 ha lúa có hợp đồng bao tiêu thu mua sản phẩm. Cùng với đó, đầu tư xây dựng 485 công trình thủy lợi, giao thông, cầu cống, trạm bơm, đường điện, trạm biến áp và 68 kho tạm trữ, nhà bao che máy sấy và nhiều thiết bị hỗ trợ các tổ chức nông dân như: máy sấy, máy cuốn rơm, máy đóng bao lúa, máy phun hạt…
Ông Lê Văn Hiến, Trưởng Ban quản lý các dự án nông nghiệp, kiêm Giám đốc Dự án VnSAT cho biết: Dự án được Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ vốn để thúc đẩy chuyển đổi hai ngành hàng là cà phê và lúa gạo. Đến nay, sau 6 năm thực hiện, các chỉ tiêu của Dự án đã cơ bản hoàn thành và vượt 20%.
Cả chương trình tái canh cà phê cũng như các quy trình “3 giảm 3 tăng”, “1 phải 5 giảm” đối với hợp phần lúa gạo đều được WB đánh giá rất cao, là một trong các dự án điển hình. Sau khi Dự án kết thúc, giá trị gia tăng đối với cà phê đạt gần 20%, đối với lúa gạo là 25% so với trước khi triển khai Dự án.
“Dự án VnSAT đã tác động rất lớn đối với việc thay đổi tập quán canh tác của khoảng 200.000 hộ nông dân trồng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long và 150.000 hộ nông dân trồng cà phê ở Tây Nguyên”, ông Hiến đánh giá.
Đối với hợp phần lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long, có 155.000 nông dân được đào tạo kỹ thuật sản xuất lúa “3 giảm, 3 tăng” để canh tác 175.400 ha lúa; hơn 104.400 nông dân được đào tạo quy trình sản xuất lúa “1 phải 5 giảm” với diện tích trên 146.800 ha lúa.
Qua thống kê của các địa phương, tỷ lệ áp dụng sau đào tạo đạt hơn 80%. Ngoài ra, các tổ chức nông dân tham gia dự án còn được đào tạo kỹ năng quản lý hợp tác xã, kỹ thuật luân canh, nhân giống lúa xác nhận, sản xuất lúa VietGAP…
Theo Ban quản lý Dự án VnSAT, giai đoạn 2021 – 2022, có tổng số 86 tiểu dự án đầu tư công tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (chia làm 87 gói thầu) với tổng vốn đầu tư trên 1.094 tỷ đồng. Hầu hết các gói thầu đã được trao hợp đồng và triển khai từ tháng 10 năm ngoái.
Do ảnh hưởng mùa mưa tại Nam Bộ và dịch bệnh Covid-19 nên đến cuối tháng 11/2021, các Ban quản lý Dự án VnSAT địa phương và nhà thầu mới có thể đẩy nhanh tiến độ thi công các gói thầu xây dựng công thủy lợi, giao thông, kho bảo quản lúa, các thiết bị thu hoạch, bảo quản, sơ chế lúa gạo…
Đến nay, cơ bản các gói thầu thi công đạt từ 40% đến 50% khối lượng hợp đồng; một số tỉnh như Sóc Trăng, Tiền Giang tiến độ đạt từ 60% đến 70% khối lượng hợp đồng.
Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Quốc Doanh nhận định, Dự án đã thay đổi thói quen, tập quán sản xuất lúa và cà phê của nông dân. Tuy nhiên, thời gian gia hạn Dự án còn rất ngắn.
Vì vậy, Thứ trưởng Doanh đề nghị các địa phương quan tâm một số vấn đề để Dự án hoàn thành được trọn vẹn. Đồng thời yêu cầu Ban quản lý Dự án VnSAT Trung ương phối hợp với các địa phương rà soát lại từng tiểu dự án, nhất là đối với các địa phương có các tiểu dự án trong diện có nguy cơ không hàn thành đúng tiến độ. Đối với các tiểu dự án của giai đoạn trước còn tồn đọng, yêu cầu đến 30/4 phải hoàn thành dứt điểm.
Tuy thời gian gấp rút, nhưng Thứ trưởng Lê Quốc Doanh cũng lưu ý các địa phương trong kiểm tra chất lượng, mỹ quan của công trình, không vì thời gian ngắn mà thiếu kiểm soát.
Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/du-an-vnsat-giup-nong-dan-chuyen-doi-phuong-thuc-canh-tac
Hội đồng thẩm định đánh giá tiêu chuẩn cơ sở 02 loại phân bón của CTCP Đầu tư Tiến Đông họp ngày 13/03/2022
Ngày 13/03/2022 tại Hà Nội, Hội đồng khoa học cấp cơ sở của Viện Ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam, căn cứ yêu cầu và đề nghị của Công ty Cổ phần đầu tư Tiến Đông, thành lập Hội đồng thẩm định đánh giá tiêu chuẩn cơ sở 02 loại phân bón của CTCP Đầu tư Tiến Đông.
Thùy Linh
Công văn số 175/BVTV-ATTP ngày 20/01/2022 về Hướng dẫn doanh nghiệp sản xuất thực phẩm có nguồn gốc thực vật thực hiện việc đăng ký xuất khẩu vào Trung Quốc
Công văn số 175/BVTV-ATTP ngày 20/01/2022 về Hướng dẫn doanh nghiệp sản xuất thực phẩm có nguồn gốc thực vật thực hiện việc đăng ký xuất khẩu vào Trung Quốc
Ngày 20/01/2022, Cục Bảo vệ thực vật ban hành công văn số 175/BVTV-ATTPMT ngày 20/01/2022 về việc hướng dẫn doanh nghiệp sản xuất thực phẩm có nguồn gốc thực vật thực hiện việc đăng ký xuất khẩu vào Trung Quốc.
Nội dung công văn số 175/BVTV-ATTPMT ngày 20/01/2022
Tài liệu hướng dẫn sử dụng Hệ thống Quản lý đăng ký cho các doanh nghiệp thực phẩm nhập khẩu ở nước ngoài của Trung Quốc
Chi tiết các biểu mẫu (bản word).
Tình trạng ùn ứ nông sản tại cửa khẩu tiếp tục tái diễn
Tình trạng ùn ứ nông sản tại cửa khẩu tiếp tục tái diễn
Bà Đoàn Thu Hà, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn thông tin, hàng hóa nông sản của chúng ta bị ùn ứ tại các cửa khẩu đã được giải quyết trước Tết. Tuy nhiên, sau Tết Nguyên đán đến nay, việc ùn ứ trở lại, xuất hiện ở các cửa khẩu biên giới phía Bắc.
Đến sáng ngày 4/3, tại Lạng Sơn, lượng xe đang chờ xuất khẩu tại các cửa khẩu là 1.400 xe, trong đó có 800 xe chở nông sản. Trong khoảng thời gian này, tỉnh đang tạm dừng tiếp nhận hoa quả tươi đến các cửa khẩu Lạng Sơn đến thời điểm 15/3.
Lãnh đạo tỉnh Lạng Sơn cho biết, để đảm bảo quy trình hoạt động thông quan, đặc biệt là hàng nông sản, các cơ quan chức năng tại cửa khẩu Lạng Sơn phải thực hiện các phương thức giao nhận hàng hóa chưa có tiền lệ.
Cụ thể, tỉnh này cố gắng trao đổi hàng ngày, hàng giờ với các cơ quan chức năng của phía bạn để đảm bảo quy trình thông quan, đặc biệt đối với hàng nông sản đang vào chính vụ.
Đến thời điểm hiện nay, có 13/78 cửa khẩu hoạt động. Tuy nhiên từ 26/2 đến nay, hàng nông sản chỉ xuất khẩu qua cửa khẩu Lạng Sơn. Các cửa khẩu ở địa phương khác đã tạm dừng.
“Cùng với các biện pháp chúng tôi triển khai tích cực, trong đó cả việc tạm dừng tiếp nhận phương tiện chở hoa quả tươi lên cửa khẩu, tuy nhiên hàng ngày xe chở hàng vẫn lên Lạng Sơn bằng nhiều hình thức khác nhau”, bà Đoàn Thu Hà nói.
Bà Hà cho biết, việc thiết lập “vùng xanh” để đảm bảo an toàn phòng chống dịch, đã được tỉnh thiết lập và triển khai ở khu biên giới. Tuy nhiên, tiêu chí, điều kiện về y tế với người cũng như phương tiện hàng hóa của chúng ta và phía bạn còn quy định khác nhau, chưa thống nhất, gây khó khăn, ảnh hưởng đến hiệu suất thông quan.
Ngoài ra, tỉnh cũng đã thực hiện phương thức hạn chế tiếp xúc, tuy nhiên năng lực thông quan chưa được cải thiện trong khi hàng hóa vẫn tiếp tục lên cửa khẩu, tình trạng ùn tắc vẫn sẽ tiếp diễn trong thời gian tới.
Bà Hà lo lắng, nông sản đang vào chính vụ trong khi tiêu thụ nội địa chưa được nhiều, cơ bản vẫn chuyển lên cửa khẩu, cho nên hiện tượng ùn ứ hàng hóa tại cửa khẩu sẽ vẫn tiếp diễn.
“Chúng tôi dự kiến từ 15/3 đến 20/4, lượng xe hoa quả nông sản qua cửa khẩu Lạng Sơn lên tới 2.000 xe, bởi xung quanh địa bàn cửa khẩu đã có 500 xe lên và chờ hết thời gian tạm dừng tiếp nhận nông sản để vào các cửa khẩu Lạng Sơn. Lượng xe vẫn có tiếp tục tăng trong thời gian tới khi nông sản đang vào chính vụ”, bà Hà chia sẻ.
Do đó, bà Hà mong muốn, các Bộ Công Thương, NN-PTNT, các cơ quan, các địa phương thúc đẩy các kênh tiêu thụ nội địa đặc biệt trong thời gian hiện nay. Đồng thời, đẩy mạnh chế biến cũng như mở lại, khôi phục lại một số hoạt động xuất khẩu nông sản để giảm tải áp lực xuất khẩu tại các cửa khẩu Lạng Sơn hiện nay, tránh thiệt hại kinh tế cho người dân, doanh nghiệp.
Ông Phan Văn Chinh, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho hay, tình trạng ùn ứ hàng hoá tại cửa khẩu trước đây đã có, tuy nhiên tình hình lần này có điểm khác so với trước, đó là Trung Quốc thực hiện chính sách “zero Covid”. Việc kiểm tra chặt chẽ dịch bệnh theo chính sách này khiến thông quan bị hạn chế rất nhiều.
Từ khi xảy ra vấn đề này, liên bộ ngành đã đưa ra nhiều giải pháp để tháo gỡ, như: Thủ tướng đã có điện đàm với phía bạn, Bộ Công Thương, Bộ NN-PTNT cũng liên tục có điện đàm, các địa phương sát biên giới cũng tăng cường giao thiệp.
“Có thể thấy việc thông quan chưa triệt để nhưng những nỗ lực này cũng đã có hiệu quả. Cụ thể, từ ngày 25/1 đến nay, với những nỗ lực ngoại giao và việc điều tiết trong nước đã có 15.000 xe thông quan. Trước đây chỉ 7/13 cửa khẩu mở và thông quan hạn chế nhưng đến nay đã mở 13 cửa khẩu”, ông Chinh thông tin.
Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/tinh-trang-un-u-nong-san-tai-cua-khau-tiep-tuc-tai-dien
Mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản
Mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản
Trong bối cảnh hiện tại, để mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, ngành Nông nghiệp đã chủ động phối hợp với các địa phương xây dựng vùng sản xuất chuyên canh tập trung gắn với cấp mã số; tăng cường kiểm tra dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, dư lượng kháng sinh… Việc này không chỉ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường xuất khẩu mà còn góp phần nâng cao vị thế của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai đang gặp không ít khó khăn, thách thức.
Việc kiểm soát chất lượng nông sản góp phần nâng cao giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường xuất khẩu. Trong ảnh: Sản xuất thủy sản xuất khẩu tại thành phố Cần Thơ
Đòi hỏi cấp thiết từ thực tế
Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN&PTNT) Nguyễn Quốc Toản cho biết: Tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản tháng 2-2022 của Việt Nam đạt khoảng 8 tỷ USD, tăng 20,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Mỹ là thị trường nhập khẩu lớn nhất với giá trị lên tới hơn 2,4 tỷ USD. Kết quả trên cho thấy, thị trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã có sự thay đổi (nhiều năm qua, Trung Quốc luôn là thị trường lớn nhất). Do đó, để nông sản Việt Nam có thể chiếm lĩnh những thị trường “khó tính” cần tăng cường quản lý, kiểm soát chất lượng sản phẩm, bảo đảm việc xuất khẩu an toàn và bền vững.
Theo bà Nguyễn Thị Na, thành viên Hợp tác xã Đại Thành (huyện Quốc Oai), từ việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong quy trình sản xuất, nhãn chín muộn của Quốc Oai bảo đảm đủ điều kiện xuất khẩu sang các thị trường lớn như: Mỹ, Ba Lan, Australia… Các công ty: Công ty cổ phần Thương mại xuất nhập khẩu Green Path Việt Nam, Công ty thực phẩm sạch Biggreen Việt Nam… đã ký kết hợp đồng thu mua với sản lượng hơn 100 tấn nhãn chín muộn/năm. Giá trị kinh tế mang lại gấp 2-3 lần so với bán ở thị trường trong nước.
Hiệu quả mang lại từ việc kiểm soát quy trình sản xuất, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, truy xuất nguồn gốc sản phẩm đã rõ. Tuy nhiên, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Tạ Văn Tường cho biết, việc xây dựng các vùng sản xuất an toàn để mở rộng thị trường xuất khẩu vẫn còn một số hạn chế, bất cập như: Nông dân chưa quen với ghi chép nhật ký sản xuất, gây khó khăn cho việc truy xuất nguồn gốc, trong khi việc kiểm tra, giám sát các vùng nguyên liệu, cơ sở chế biến, đóng gói sản phẩm chưa được chú trọng…
Về vấn đề này, theo Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT) Hoàng Trung, để kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tại một số vùng trồng cây ăn quả, năm 2021, Cục Bảo vệ thực vật đã lấy 62 mẫu nhãn quả tại tỉnh Hưng Yên, kết quả phân tích có 5 mẫu vượt dư lượng thuốc bảo vệ thực vật cho phép và qua phân tích 40 mẫu bưởi ở tỉnh Phú Thọ, phát hiện dư lượng 10 loại thuốc bảo vệ thực vật trong tất cả các mẫu. Như vậy, vẫn còn tình trạng nông dân chưa tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về trồng trọt an toàn.
Đóng gói trái thanh long xuất khẩu tại tỉnh Tiền Giang. Ảnh: Minh Trí
Kiểm soát theo chuỗi sản xuất
Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy, việc kiểm soát an toàn thực phẩm đối với nông sản xuất khẩu cần phải được thực hiện đồng bộ ở tất cả các khâu theo chuỗi sản xuất.
Ở góc độ doanh nghiệp, theo Chủ tịch Hội đồng quản trị, Công ty cổ phần Ameii Việt Nam (quận Hoàng Mai) Nguyễn Khắc Tiến, để có vùng nguyên liệu nông sản ổn định, kiểm soát được chất lượng thì việc tổ chức liên kết, hợp tác để có đủ diện tích triển khai những cánh đồng mẫu lớn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là cơ sở để doanh nghiệp kiểm soát từ vật tư nông nghiệp đến sơ chế, đóng gói… bảo đảm đáp ứng yêu cầu của các đơn hàng xuất khẩu.
Mặt khác, để tránh tình trạng doanh nghiệp vi phạm các chỉ tiêu an toàn thực phẩm khi kiểm dịch, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật Hoàng Trung cho rằng: Các doanh nghiệp cần hiểu rõ về thị trường xuất khẩu để đáp ứng các yêu cầu về an toàn thực phẩm; đồng thời giám sát vùng sản xuất, thực hiện lấy mẫu kiểm nghiệm an toàn thực phẩm tại các phòng thử nghiệm được chỉ định hoặc phòng thử nghiệm được thị trường xuất khẩu chấp thuận trước khi đóng gói…
Để kiểm soát chất lượng các mặt hàng nông sản đặc trưng của Hà Nội, Giám đốc Sở NN& PTNT Hà Nội Chu Phú Mỹ thông tin: Thời gian tới, ngành Nông nghiệp tiếp tục phối hợp với các địa phương quy hoạch vùng sản xuất an toàn; thường xuyên kiểm tra mẫu đất, mẫu nước; hướng dẫn nông dân từ ghi chép nhật ký sản xuất đến sơ chế, chế biến… bảo đảm an toàn thực phẩm. Mặt khác, xử lý nghiêm những hành vi sử dụng phân bón, hóa chất không đúng quy định.
Về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Quốc Doanh cho rằng: Nhằm thúc đẩy xuất khẩu chính ngạch và mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam, các cơ quan chuyên môn cần phối hợp chặt chẽ với địa phương trong việc quy hoạch, xây dựng các vùng sản xuất đủ tiêu chuẩn xuất khẩu; đồng thời tập trung kiểm tra, giám sát về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên các vùng sản xuất phục vụ xuất khẩu và quản lý chặt chẽ việc cấp mã số vùng trồng…
“Thời gian tới, Bộ NN&PTNT sẽ tăng cường cập nhật, thông báo kịp thời quy định an toàn thực phẩm của các thị trường cho doanh nghiệp, chính quyền địa phương, người nông dân để áp dụng quy trình sản xuất phù hợp và kiểm soát các chỉ tiêu an toàn thực phẩm trước khi xuất khẩu”, ông Lê Quốc Doanh thông tin thêm.
Việc kiểm soát chất lượng nông sản không chỉ mở “cánh cửa” xuất khẩu chính ngạch mà còn để mở rộng thị trường cho sản phẩm nông nghiệp Việt Nam, đặc biệt là ở những thị trường mang lại giá trị cao, khó tính…, qua đó nâng cao giá trị sản phẩm cho người nông dân và hướng tới một nền sản xuất nông nghiệp an toàn, hiện đại, bền vững.
Nguồn: Hà Nội Mới: http://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/nong-nghiep/1026315/mo-rong-thi-truong-xuat-khau-nong-san
18 nhóm thực phẩm cần phải đăng ký trước khi sang Trung Quốc
18 nhóm thực phẩm cần phải đăng ký trước khi sang Trung Quốc
Theo Lệnh 248, doanh nghiệp sản xuất nước ngoài phải đăng ký khi xuất khẩu 18 nhóm thực phẩm vào thị trường Trung Quốc.
Cụ thể, nhóm thực phẩm là là thịt và các sản phẩm từ thịt, vỏ ruột, sản phẩm thủy sản, sản phẩm từ sữa, yến sào và sản phẩm từ tổ yến, sản phẩm từ ong, trứng và các sản phẩm từ trứng, chất béo và dầu thực phẩm, thực phẩm chế biến hỗn hợp từ bột mỳ, thực phẩm từ ngũ cốc.
Sản phẩm công nghiệp xay xát ngũ cốc và mạch nha, rau củ tươi và khô (rau tách nước, sấy), đậu khô, gia vị, các loại hạt (quả hạch) và hạt giống, trái cây sấy khô, hạt cà phê và hạt ca cao chưa rang, thực phẩm dinh dưỡng đặc biệt, thực phẩm chức năng.
Đối với sản phẩm không thuộc nhóm 18 loại trên, doanh nghiệp phải tự nộp hồ sơ đăng ký hoặc ủy thác đại lý thực hiện đăng ký.
Việc thực hiện đăng ký được thực hiện thông qua “Ứng dụng quản lý đăng ký doanh nghiệp sản xuất thực phẩm nước ngoài” trên cổng thông tin điện tử một cửa thương mại quốc tế của Tổng cục Hải quan Trung Quốc.
Thông tin mới nhất từ Văn phòng SPS Việt Nam cho biết, đến ngày 1/3/2022, Tổng cục Hải quan Trung Quốc đã cấp 1.776 mã sản phẩm nông sản, thực phẩm cho các doanh nghiệp Việt Nam để xuất khẩu sang thị trường này.
Nguồn: Lãng Hồng – Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam
Trồng rau an toàn ứng dụng công nghệ cao cho năng suất vượt trội
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội đang nỗ lực hỗ trợ bà con mở rộng diện tích trồng rau an toàn ứng dụng công nghệ cao để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Dù là Thủ đô nhưng Hà Nội có diện tích trồng rau lên đến 13.000 ha, trong đó có hơn 5.000ha được chứng nhận sản xuất an toàn.
Đặc biệt, Hà Nội đã cho thấy sự thích ứng linh hoạt với sự phát triển của thời đại bằng cách rất nhanh chóng ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất. Hiện Thủ đô đã hình thành được 101 vùng sản xuất rau an toàn tập trung, quy mô từ 20ha trở lên. Tại các vùng trồng rau đã có 127 ha ứng dụng kỹ thuật nhà lưới, 47ha ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm, 7 nhà sơ chế rau với tổng diện tích 750 m2.
Rất nhiều các tiến bộ khoa học kĩ thuật đã được bà con ứng dụng vào sản xuất như: che phủ ni lông, nhà lưới, nhà màng và nông dân được hướng dẫn kĩ thuật để sản xuất rau an toàn, từ việc sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật sao cho hợp lý đến đánh giá sâu bệnh hại…
Cũng chính nhờ sản xuất rau an toàn, một bộ phận lớn nông dân đã thay đổi thói quen canh tác, giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, bao bì được thu gom, tiêu hủy bảo đảm vệ sinh môi trường.
Hà Nội đang nỗ lực mở rộng diện tích trồng rau an toàn ứng dụng công nghệ cao
Đặc biệt nhờ ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất rau an toàn, thu nhập của bà con đã tăng đáng kể. Giá trị sản xuất trung bình đạt từ 300-500 triệu đồng/ha/năm, đặc biệt có mô hình đạt hơn 1 tỷ đồng/ha, giá trị sản xuất rau an toàn cao hơn rau thường từ 10-20%.
Trước sự hiệu quả do mô hình trồng rau an toàn ứng dụng công nghệ cao, Sở NN&PTNT Hà Nội cho biết Sở đang nỗ lực để mở rộng diện tích mô hình này trong thời gian tới.
Về mặt tuyên truyền để thay đổi nhận thức của nông dân, Sở sẽ có những chương trình phổ biến để nâng cao nhận thức cho người dân về sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Ngoài ra, Sở sẽ tập trung nguồn kinh phí khuyến nông để hỗ trợ phát triển các mô hình sản xuất rau an toàn và xây dựng mô hình tiến bộ kỹ thuật mới.
Không chỉ tuyên truyền, hỗ trợ về vốn và kĩ thuật, Sở NN&PTNT Hà Nội còn kết nối và khuyến khích doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác liên kết xây dựng các chuỗi sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm, đầu tư xây dựng cơ sở chế biến rau tại địa phương, tạo hiệu quả kinh tế cao. Đây chính là nền tảng để rau an toàn ngày càng có chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Hà Dũng (t/h) – Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam
EU tài trợ 1,5 triệu euro cho dự án thúc đẩy nông sản Việt đạt chứng nhận sinh thái, công bằng
EU đã quyết định tài trợ 1,5 triệu euro cho dự án Eco-Fair với mục tiêu thúc đẩy xây dựng ngành nông sản Việt Nam bền vững hơn.
Được biết, dự án Eco-Fair ra đời với sứ mệnh thay đổi hành vi của các tổ chức và cá nhân nhằm đưa ra những biện pháp tích cực về xã hội và cải thiện môi trường.
Theo TS Nguyễn Bảo Thoa, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và phát triển ngành nghề nông thôn (VIRI), Giám đốc dự án Eco-Fair, hiện dự án đã đào tạo hơn 1.000 doanh nghiệp, tiếp cận hơn 1 triệu người tiêu dùng, quảng bá về tiêu dùng bền vững, trong đó đã có 200 doanh nghiệp được đánh giá nhanh về việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên và sản xuất sạch hơn. Khi các doanh nghiệp được chứng nhận bền vững sẽ được kết nối với khách hàng có yêu cầu mua hàng bền vững trên toàn thế giới. Kỳ vọng doanh số cho các mặt hàng như gạo, điều, rau củ quả chế biến… sẽ tăng lên khoảng 30%.
Đặc biệt, dự án Eco-Fair đang mang đến cho Việt Nam một cơ hội rất tốt để hình thành ngành nông sản bền vững hơn, thông qua việc thu hút các bên liên quan trong chuỗi giá trị gồm khu vực tư nhân, các nhóm người tiêu dùng và nhà hoạch định chính sách để đạt được mục tiêu chuyển sang sản xuất và tiêu dùng bền vững hơn.
Chính vì thế, với nguồn tài trợ của EU cho dự án Eco-Fair, các doanh nghiệp của Việt Nam thuộc các tiểu ngành như gạo, điều, rau củ chế biến, hoa quả chế biến, sản phẩm thủy sản chế biến, sản phẩm chế biến từ thịt gia cầm… có thể tham gia khóa học trực tuyến về sản xuất bền vững.
Dự án sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện sản xuất nông sản đạt chuẩn sinh thái, công bằng, qua đó góp phần vào chiến lược phát triển bền vững của doanh nghiệp. Cũng nhờ sự tư vấn của dự án, các doanh nghiệp sẽ nâng cao được hiệu quả của việc sử dụng tài nguyên và sản xuất sạch hơn, đổi mới sản phẩm bền vững, các chứng nhận sinh thái, công bằng, thiết kế bao bì, kết nối thị trường, tiếp cận tài chính xanh.
Hiện Việt Nam đã có một số doanh nghiệp, HTX hướng tới sản xuất sinh thái, thân thiên với môi trường. Có thể kể đến Hợp tác xã Điều hữu cơ True.coop (Ninh Thuận) được thành lập từ năm 2017 bởi ông Trương Thanh Viện. Đến nay, True.coop đã có 5.000ha vùng nguyên liệu điều đạt chuẩn hữu cơ theo tiêu chuẩn đánh giá của Tổ chức Organic USDA, EU va 1 triệu cây điều giống ươm được kiểm duyệt nguồn gốc, xuất xứ.
Hay doanh nghiệp xã hội Minh Phú thực hiện các dự án chứng nhận vùng nuôi tôm sinh thái, hữu cơ trong rừng đước tại huyện Ngọc Hiển (Cà Mau) vừa bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn, phát triển nghề nuôi tôm rừng truyền thống vừa thúc đẩy phát triển các giá trị văn hóa của nghề nuôi tôm; xây dựng hình ảnh thương hiệu và nâng cao giá trị tôm sinh thái, hữu cơ như đặc sản của địa phương. Hiện Minh Phú có 9.722ha nuôi tôm sinh thái hữu cơ với 2.010 hộ tham gia và đã xuất khẩu tôm hữu cơ đến nhiều thị trường khó tính như Mỹ, EU, Canada…
Nguồn: Hà Dũng (t/h)
Tăng cường sức khoẻ cho vật nuôi khi thời tiết giá rét
Tăng cường sức khoẻ cho vật nuôi khi thời tiết giá rét
Để tăng cường sức khoẻ cho vật nuôi, giúp vật nuôi sinh trưởng và phát triển tốt trong điều kiện thời tiết rét đậm, rét hại kéo dài, bà Nguyễn Thị Liên Hương, Phó Trưởng phòng Khuyến nông Chăn nuôi và Thú y (Trung tâm KNQG) chia sẻ, người chăn nuôi cần quan tâm một số vấn đề sau:
Một là, về chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng: Chuồng nuôi phải phù hợp với đối tượng, lứa tuổi vật nuôi, đảm bảo ấm nhưng vẫn phải đủ thông thoáng, sạch sẽ, mật độ nuôi hợp lý, đặc biệt chú ý chuồng úm gia súc, gia cầm non. Dùng bóng/chụp sưởi điện là tốt nhất; khi đốt sưởi bằng củi, trấu, mùn cưa, cần có ống dẫn khói lên cao, ra khỏi chuồng nuôi, không để khói vào chuồng nuôi sẽ ảnh hưởng sức khoẻ vật nuôi.
Thức ăn đầy đủ, đảm bảo chất lượng và số lượng. Đặc biệt gia súc ăn cỏ (trâu, bò, dê, ngựa). Thông thường, lượng thức ăn thô, xanh cần cho 1 gia súc bằng khoảng 10%, lượng thức ăn tinh bằng 1% khối lượng cơ thể, những gia súc chưa quen ăn thức ăn tinh thì cần cho gia súc ăn ít một, tăng dần đến 1% (trong khoảng 5-7 ngày).
Khi nhiệt độ xuống thấp hơn 1°C thì nhu cầu năng lượng tăng thêm 1 – 2%, tuỳ đối tượng vật nuôi, điều kiện thời tiết, có thể điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.
Đặc biệt, những ngày mưa và rét hoặc nhiệt độ dưới 12°C không nên chăn, thả gia súc, gia cầm (nhưng chuồng nuôi đảm bảo đủ diện tích cho vật nuôi vận động).
Hai là, công tác vệ sinh phòng bệnh: Tăng cường chăn nuôi an toàn sinh học, thực hiện nghiêm ngặt công tác cách ly, ngăn chặn các loại mầm từ bên ngoài xâm nhập vào cơ sở chăn nuôi và ngược lại. Cách ly và kiểm soát vật nuôi mới nhập về (Mua con giống từ cơ sở an toàn dịch bệnh, cách ly ít nhất 14 ngày).
Hạn chế khách tham quan, người vào khu chăn nuôi cần có quần áo, bảo hộ lao động đảm bảo vệ sinh dùng riêng trong khu chăn nuôi, đi từ khu sạch sang khu bẩn, hạn chế đi lại giữa các khu.
Kiểm soát phương tiện vận chuyển, trang thiết bị, dụng cụ chăn nuôi. Kiểm soát thức ăn, nước uống. Kiểm soát động vật khác, côn trùng: Ngăn các động vật khác (chó, mèo, chuột, chim, côn trùng…) vào chuồng nuôi.
Vệ sinh làm sạch chuồng nuôi, phương tiện vận chuyển, dụng cụ chăn nuôi là biện pháp rất hiệu quả trong việc thực hiện chăn nuôi an toàn, việc vệ sinh làm sạch giúp loại bỏ trên 80% mầm bệnh tại trại chăn nuôi.
Ngoài ra, khủ trùng là một trong 3 nguyên tắc quan trọng trong chăn nuôi an toàn sinh học, tuy nhiên hiệu quả của việc khử trùng tùy thuộc vào chất lượng của việc vệ sinh làm sạch trước đó. Mục đích khử trùng nhằm loại bỏ những mầm bệnh còn sót lại sau khi đã vệ sinh làm sạch chuồng trai, dụng cụ và thiết bị phục vụ chăn nuôi.
Ba là, Chủ động dùng vắc xin phòng bệnh theo lịch trình hoặc hướng dẫn của cơ quan thú y. Bổ sung vitamin, men tiêu hóa và các thuốc trợ sức, trợ lực định kỳ hoặc khi có yếu tố bất lợi để tăng sức kháng bệnh cho vật nuôi.
Thường xuyên quan sát đàn vật nuôi để sớm phát hiện, thải loại những vật nuôi ốm, yếu ra khỏi đàn và xử lý, điều trị nếu cần thiết…
Nguồn: An Lãng – Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ