Ngành nông nghiệp cần thay đổi để thích ứng với biến đổi khí hậu
Ngành nông nghiệp cần thay đổi để thích ứng với biến đổi khí hậu
Trong năm 2021, thiên tai không dồn dập, khốc liệt như năm 2020 nhưng cũng đã xảy ra 18/22 loại hình thiên tai với 9 cơn bão, 3 áp thấp nhiệt đới trên biển Đông; 326 trận dông, lốc, mưa lớn; 139 trận động đất; 170 trận lũ, lũ quét, sạt lở đất.
Đồng thời, dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp và kéo dài từ cuối năm 2019, nhiều địa phương phải thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16. Dịch bệnh đã tác động đến hầu hết các hoạt động kinh tế xã hội, trong đó ảnh hưởng lớn đến công tác phòng, chống thiên tai.
Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp rất dễ bị tổn thương trước thiên tai. Hàng năm thiên tai đều gây ảnh hưởng, thiệt hại lớn trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên thiệt hại đó cũng một phần đến từ việc lập kế hoạch chưa tốt, chưa có phương án phòng chống, thích ứng với thiên tai.
Thiên tai ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp. Ảnh Minh Họa
Cũng theo báo cáo của các địa phương, thiên tai năm 2021 đã làm 108 người chết, mất tích, trên 306 nhà bị sập đổ; gần 9.000 nhà bị hư hỏng, tốc mái. Tổng thiệt hại kinh tế ước tính trên 5.200 tỷ đồng, trong đó lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn bị thiệt hại nặng nề.
Cụ thể, diện tích sản xuất lúa bị ảnh hưởng là trên 94.000 ha, trong đó khoảng 2.648 ha bị thiệt hại trên 70%. Diện tích cây rau màu khác bị ảnh hưởng khoảng là 40.000 ha, trong đó diện tích bị thiệt hại trên 70% khoảng 7.800 ha. Diện tích cây công nghiệp, cây ăn quả bị ảnh hưởng khoảng là 12.500 ha, trong đó có khoảng 200 ha bị thiệt hại trên 70%.
Thiên tai đã làm thiệt hại trên 1.280 ha rừng. Hơn 94.000 tàu thuyền đánh bắt cá trên biển thường xuyên bị ảnh hưởng bởi gió bão, gió mạnh. Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản bị ảnh hưởng và thiệt hại là 3.670ha, trong đó trên 1.300 ha bị thiệt hại hoàn toàn; 130 tàu thuyền bị hư hại.
Cũng do ảnh hưởng của thiên tai làm hơn 6.962 con gia súc và 368.000 con gia cầm bị chết, cuốn trôi. Khoảng 10,4 km đê cấp IV trở xuống bị sự cố; 11,4km kè bị hư hỏng; 67 km bờ sông, bờ biển bị thiệt hại; 271 km kênh mương bị sạt, trôi, bồi lấp; 12 trạm bơm, 101 cống và 75 công trình thủy lợi khác bị hư hỏng; 174 hồ chứa nhỏ bị thiệt hại; 6 công trình cấp nước bị hư hại.
Trước tình hình nền kinh tế nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng bị ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai, trong năm 2021, Tổng cục Phòng, chống thiên tai đã phối hợp cùng các đơn vị và các địa phương rà soát, thống kê đầy đủ thiệt hại, hỗ trợ kịp thời cho người dân theo quy định tại Nghị định số 02 của Chính phủ.
Ngoài ra, các đơn vị cũng đã hỗ trợ 97.000 liều vacxin phòng Covid-19, 87.000 lít và 113 tấn hóa chất phòng, chống dịch với tổng giá trị 23,387 tỷ đồng cho 8 tỉnh (Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình, TT.Huế, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Gia Lai).
Đồng thời hỗ trợ 110 tấn giống lúa cho tỉnh Phú Yên và đang lấy ý kiến Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư về hỗ trợ 100 tấn giống lúa, 30 tấn giống Ngô cho Quảng Trị trước khi trình Thủ tướng Chính phủ.
Cùng với đó, hướng dẫn người dân khôi phục sản xuất, vệ sinh môi trường, chuẩn bị ao đầm, chuồng trại, khôi phục sản xuất. Khắc phục khẩn cấp các công trình đê điều, chống sạt lở bị thiệt hại do bão, mưa lũ. Khôi phục công trình thủy lợi nội đồng bị hư hỏng, bảo đảm việc phân phối, tưới nước mặt ruộng. Tổ chức nạo vét khẩn cấp các cửa lấy nước, hệ thống kênh mương bị bồi lấp.
Về lâu dài, để có thể sản xuất nông nghiệp thích ứng với thiên tai, giảm thiểu thiệt hại hàng năm do thiên tai gây ra, Ban Chỉ đạo quốc gia về Phòng, chống thiên tai cũng như các Bộ ngành, địa phương cần nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu sản xuất, giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao phù hợp với điều kiện tự nhiên và đặc điểm thiên tai từng vùng, miền, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Theo đó, đầu tư củng cố, nâng cấp, hoàn thiện hệ thống đê điều, hồ đập bảo đảm chủ động phòng, chống lũ, bão theo mức thiết kế. Bổ sung, nâng cấp hệ thống trữ nước, tiêu thoát nước, phòng chống ngập úng; công trình kiểm soát nguồn nước phòng chống hạn hán, xâm nhập mặn. Xây dựng, củng cố công trình phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển.
Tiếp tục xây dựng, nâng cấp khu neo đậu tàu, thuyền tránh trú bão theo quy hoạch được phê duyệt, gắn kết với dịch vụ hậu cần, thông tin nghề cá, bao gồm cả các khu vực hải đảo. Xây dựng quy hoạch phòng chống thiên tai và thủy lợi gắn với quy hoạch sử dụng đất và phù hợp với phát triển kinh tế, xã hội, diễn biến thiên tai, sử dụng nước thượng nguồn, biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Nguồn: Xuân Hiền (T/h) – Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ
Phát triển thương mại gắn với đa dạng sinh học có thể hỗ trợ phục hồi COVID-19 như thế nào?
Không cảnh rừng nhiệt đới đang bị xóa bỏ để trồng dầu cọ và cao su / © whitcomberd
Một kêu gọi hành động mới nhằm giúp các quốc gia biến BioTrade trở thành đòn bẩy giúp phục hồi và thích ứng trước đại dịch.
Đầu tiên, Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu dành riêng cho đa dạng sinh học được tổ chức vào ngày 30 tháng 9, lãnh đạo các quốc gia khác nhau cho biết đại dịch COVID-19 là cơ hội để các quốc gia đặt các kế hoạch hành động đầy tham vọng vào trọng tâm của các chiến lược phục hồi kinh tế hậu Corona.
Một trong những công cụ được các quốc gia sử dụng là Thương mại sinh học (BioTrade) – khái niệm về thu hái, sản xuất, chuyển đổi và thương mại hóa hàng hóa và dịch vụ có nguồn gốc từ đa dạng sinh học theo các Nguyên tắc và Tiêu chí của BioTrade , một bộ hướng dẫn nhấn mạnh tính bền vững về môi trường, xã hội và kinh tế.
Các thành viên của Ban chỉ đạo về BioTrade của UNCTAD đã đưa ra lời kêu gọi hành động hướng tới các quốc gia nhằm xúc tiến BioTrade để phục hồi kinh tế tốt hơn sau đại dịch, bởi việc bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học có thể tạo ra việc làm và tăng trưởng kinh tế đồng thời bảo vệ môi trường toàn cầu.
“Liên kết thương mại, đa dạng sinh học và phát triển bền vững là một con đường bắt buộc hướng tới nâng cao khả năng phục hồi và thích ứng của cộng đồng, khu vực tư nhân và cuối cùng là cấp quốc gia trong các nỗ lực phục hồi sau COVID-19”, Lorena Jaramillo, quan chức kinh tế của UNCTAD cho biết.
BioTrade để phục hồi và thích ứng
Sáng kiến Thương mại Sinh học của UNCTAD là một trong những biện pháp thúc đẩy thương mại hợp pháp, bền vững và truy xuất nguồn gốc đối với hàng hóa và dịch vụ dựa trên đa dạng sinh học phù hợp với các mục tiêu của Công ước về Đa dạng sinh học (CBD) và Công ước về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES).
Các đối tác của BioTrade và các tác nhân khác đã kêu gọi các quốc gia thúc đẩy mối quan hệ cân bằng giữa các chính sách phục hồi kinh tế sau COVID-19 và các khía cạnh khác nhau của phát triển bền vững.
“Chúng tôi kêu gọi điều này được thực hiện thông qua bảo tồn, tái sinh, sử dụng bền vững đa dạng sinh học và xây dựng các lợi ích kinh tế xã hội và sinh kế, đặc biệt là ở các cộng đồng nông thôn” trích dẫn một phần tuyên bố chung của họ.
Theo các bên ký kết, điều này sẽ góp phần xây dựng một tương lai tốt đẹp, lành mạnh và bền vững hơn cho tất cả mọi người: quốc gia, doanh nghiệp, cộng đồng và người dân.
Các bên nhấn mạnh rằng việc sử dụng bền vững đa dạng sinh học và buôn bán các sản phẩm và dịch vụ có nguồn gốc từ đó có mối liên hệ chặt chẽ với việc xây dựng sinh kế bền vững.
“Đa dạng sinh học là nguồn an ninh lương thực chính và thu nhập hộ gia đình, đảm bảo sinh kế của người bản địa và cộng đồng nông thôn. Đây cũng là trung tâm của các công ty dựa trên đa dạng sinh học”.
Tránh các đại dịch trong tương lai, tăng cường hành động
Tuyên bố lưu ý rằng “thương mại các sản phẩm và dịch vụ có nguồn gốc thân thiện với đa dạng sinh học là một yếu tố cần thiết để giảm nguy cơ xuất hiện và lây lan của bệnh cúm động vật và do đó là nguy cơ đại dịch trong tương lai ở thế giới hậu COVID-19”.
Tuyên bố kêu gọi các quốc gia tăng cường các hành động để đạt được các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc , các mục tiêu của khuôn khổ đa dạng sinh học toàn cầu sau năm 2020 và Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu.
Các quốc gia nên thúc đẩy thương mại bền vững các sản phẩm và dịch vụ dựa trên đa dạng sinh học theo các chương trình chia sẻ lợi ích công bằng và bình đẳng, theo tuyên bố.
Các thành viên nêu rõ rằng các biện pháp khuyến khích kinh tế đối với bảo tồn, phục hồi và sử dụng bền vững đa dạng sinh học, chẳng hạn như BioTrade, có vai trò quan trọng trong giai đoạn phục hồi sau COVID-19.
Các sáng kiến như vậy có thể trực tiếp góp phần hạn chế và ngăn chặn mất đa dạng sinh học, phá rừng và chuyển đổi môi trường sống, các hoạt động gây ô nhiễm và buôn bán trái phép động vật hoang dã, họ nói.
Các thành viên tái khẳng định rằng các Nguyên tắc và Tiêu chí Thương mại Sinh học năm 2020 của UNCTAD cũng như các công cụ và tiêu chuẩn liên quan có thể giúp các quốc gia phát triển các ngành và doanh nghiệp bền vững dựa trên đa dạng sinh học, đồng thời chuyển hướng sang phát triển kinh tế địa phương thông qua thương mại bền vững.
Nguồn: UNCTAD
Giá tiêu xuất khẩu năm 2022 được dự báo sẽ tiếp tục giữ ở mức cao
Giá tiêu xuất khẩu năm 2022 được dự báo sẽ tiếp tục giữ ở mức cao
Theo thông tin từ Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), trong năm 2021, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam ước đạt 261 nghìn tấn, trị giá 938 triệu USD, giảm 8,5% về lượng, nhưng tăng 42% về trị giá so với năm 2020. Tính chung cả năm 2021, giá xuất khẩu bình quân hạt tiêu của Việt Nam ước đạt 3.593 USD/tấn, tăng 55,2% so với cùng kỳ năm 2020.
Tín hiệu vui mừng cho người trồng tiêu
Theo đó, trong năm 2021 vừa qua, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam có sự chuyển dịch về cơ cấu thị trường. Tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng sang các thị trường Hoa Kỳ, EU, Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất, Pakistan tăng, trong khi tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, ASEAN giảm.
Đặc biệt, trong 11 tháng năm 2021, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam sang nhiều thị trường tăng cả về lượng và trị giá, gồm: Hoa Kỳ, Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất, Đức, Pakistan, Hà Lan, Hàn Quốc, Anh. Đáng chú ý, lượng hạt tiêu xuất khẩu sang thị trường Hà Lan tăng tới 52,7%, đạt 3,17 nghìn tấn.
Bên cạnh đó, nhiều thị trường tăng mua hạt tiêu trắng của nước ta như Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ, Tây Ban Nha. Đưa tổng sản lượng xuất khẩu hạt tiêu trắng 11 tháng năm 2021 đạt 21,2 nghìn tấn, trị giá 106,23 triệu USD, tăng 2,3% về lượng và tăng 58,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020.
Xuất khẩu hạt tiêu năm 2021 ước đạt 938 triệu USD
Số liệu thống kê từ Cơ quan Hải quan Trung Quốc cho biết, kim ngạch nhập khẩu hạt tiêu của nước này trong tháng 10/2021 đạt 4,79 triệu USD, giảm 1,3% so với tháng 10/2020. Mặc dù Trung Quốc giảm mua tiêu từ Indonesia và Malaysia giảm, nhưng tăng mua từ Việt Nam, Brazil và Ấn Độ.
Được biết, trong 10 tháng năm 2021, Trung Quốc chi 14,54 triệu USD thu mua hạt tiêu từ Việt Nam, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2020. Thị phần hạt tiêu của Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Trung Quốc tăng từ 25,85% trong 10 tháng năm 2020, lên 31,76% trong 10 tháng năm 2021.
Tín hiệu đáng mừng đối với ngành tiêu, đó là những năm gần đây cơ cấu chủng loại hạt tiêu xuất khẩu có sự thay đổi khá lớn.
Các doanh nghiệp đã giảm xuất khẩu hạt tiêu thô, thay vào đó là đẩy mạnh bán các chủng loại đã qua sơ chế hoặc chế biến chuyên sâu; đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm nhằm phục vụ cho ngành sản xuất mỹ phẩm…
Bước sang năm 2022 này, Cục Xuất nhập khẩu dự báo, giá tiêu xuất khẩu sẽ tiếp tục giữ ở mức cao. Ngành hạt tiêu tiếp tục khai thác các thị trường xuất khẩu truyền thống như Hoa Kỳ, EU, Các tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất.
Tại Hoa Kỳ, thị trường xuất khẩu hạt tiêu lớn nhất của Việt Nam, tình hình kinh tế có tín hiệu phục hồi sẽ kéo theo nhu cầu tiêu thụ hạt tiêu tăng.
Trong khi đó, hạt tiêu của Việt Nam đã tạo được chỗ đứng khá vững chắc tại thị trường Hoa Kỳ. Lợi thế cạnh tranh mặt hàng hạt tiêu của Việt Nam so với các thị trường xuất khẩu khác khá lớn.
Không ngừng nâng cao chất lượng, giữ vững thương hiệu, mở rộng thị trường
Nhận định về cơ cấu chuyển dịch của hạt tiêu Việt Nam, Cục Xuất nhập khẩu cho rằng, năm 2021, hạt tiêu của Việt Nam có sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu. Dẫn số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong nửa đầu năm 2021, xuất khẩu hạt tiêu đen và hạt tiêu trắng giảm về lượng, nhưng tăng mạnh về trị giá, trong khi xuất khẩu hạt tiêu đen xay và hạt tiêu trắng xay tăng mạnh cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2020.
Việc thay đổi tư duy, trồng tiêu theo hướng hữu cơ, chủ động tìm đầu ra cho sản phẩm đã giúp hạt tiêu của Việt Nam chinh phục được thị trường trong và ngoài nước với giá thành cao hơn.
Tuy nhiên, cơ quan này cũng dự báo, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam sẽ đối mặt với khó khăn trong những tháng cuối năm. Xuất khẩu hạt tiêu sang các thị trường chính có xu hướng chậm lại hoặc giảm mạnh. Hiện, lượng hạt tiêu còn lại trong dân không nhiều, trong khi doanh nghiệp xuất khẩu cũng không mấy “mặn mà” do giá cước phí vận chuyển tăng “phi mã” và các biện pháp phòng chống dịch bệnh tại nhiều địa phương rất nghiêm ngặt.
“Xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam trong 1-2 tháng tới có nhiều hạn chế do ảnh hưởng của dịch COVID-19, trong khi tình trạng ùn ứ tại các cảng biển phía nam cùng giá cước tàu biển vẫn duy trì ở mức cao sẽ là trở ngại đối với xuất khẩu hạt tiêu. Giá hạt tiêu cũng được nhận định khó có thể tăng mạnh do nguồn cung cải thiện khi Indonesia, Malaysia và Brazil bước vào vụ thu hoạch trong tháng 8 và tháng 9”, đại diện Cục Xuất nhập khẩu nhận định.
Do đó, để có ưu thế cạnh tranh trên thị trường gia vị và hương liệu trên thế giới, sau khi Việt Nam kiểm soát được dịch bệnh, các địa phương và doanh nghiệp cần có kế hoạch khôi phục sản xuất, ứng dụng các công nghệ tiên tiến phục vụ chế biến, phát triển đa dạng loại hình sản phẩm, tận dụng ưu đãi từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã tham gia gần đây để thúc đẩy xuất khẩu.
Bộ NNPTNT kiểm tra tình hình trồng tiêu ở tỉnh Đắk Nông.
Về phía các Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài, ông Bùi Trung Thướng, Tham tán Thương mại Việt Nam tại Ấn Độ cho biết, sản lượng gia vị của Ấn Độ đạt khoảng 3 triệu tấn mỗi năm. Gia vị cũng là sản phẩm xuất khẩu tỷ đô của nước này. Ấn Độ cũng nhập khẩu nhiều gia vị, trong đó có hồ tiêu. Ấn Độ nhập khẩu hạt tiêu từ Việt Nam khoảng 25-30 triệu USD/năm.
Do đó, để gia vị, hương liệu của Việt Nam xuất khẩu thành công sang Ấn Độ, ông Bùi Trung Thướng khuyến nghị, các doanh nghiệp cần áp dụng khoa học công nghệ hoặc nghiên cứu phát triển sản phẩm, ví dụ nhiều loại nguyên liệu gia vị trộn thành 1 loại gia vị với hương vị đặc trưng. Đồng thời, doanh nghiệp cũng cần tìm hiểu hương vị của các nước để làm ra sản phẩm đáp ứng được thị hiếu của thị trường này, tạo sự cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các nước khác…
Phụ trách Thương vụ Việt Nam tại Saudi Arabia lưu ý thêm cho các doanh nghiệp, vật liệu đóng gói chính cho các loại thảo mộc, gia vị và gia vị ở Saudi Arabia nên là thủy tinh, bao bì linh hoạt, giấy và bìa, nhựa cứng và các loại khác. Các thùng đóng gói có nhiều loại khác nhau như lọ, chai, túi, gói, bồn, hộp, túi và ống.
Đối với thị trường châu Âu, ông Phạm Văn Hiển, Giám đốc Công ty LTP Import Export B.V Hà Lan chia sẻ, để gia vị Việt thâm nhập vào thị trường châu Âu, các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ thị trường khối này. Nếu các công ty chưa có phòng nghiên cứu thị trường thì có thể tham gia hội chợ như Anuga của Đức để quảng bá sản phẩm, tham khảo thông tin trên trang website của các hiệp hội, ngành nghề châu Âu.
Nguồn: Xuân Hiền – Tạp chí Nông nghiệp Hữu cơ
Tháo gỡ vướng mắc trong cấp phép, kiểm tra chất lượng lĩnh vực nông nghiệp
Tháo gỡ vướng mắc trong cấp phép, kiểm tra chất lượng lĩnh vực nông nghiệp
Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết về việc tháo gỡ vướng mắc liên quan đến cấp giấy phép, giấy chứng nhận, kiểm tra chất lượng trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn do phải thực hiện quy định về phòng, chống dịch Covid-19.
Tháo gỡ vướng mắc liên quan đến cấp giấy phép, giấy chứng nhận, kiểm tra chất lượng trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Ảnh minh họa.
Nghị quyết 165/NQ-CP ngày 30/12/2021 của Chính phủ nêu rõ, cho phép áp dụng biện pháp sau đây để tháo gỡ vướng mắc trong thực hiện kiểm tra, đánh giá, giám sát, thẩm định, lấy mẫu, phân tích… (sau đây gọi chung là đánh giá) trực tiếp tại hiện trường để cấp giấy phép, giấy chứng nhận, quyết định, văn bản chấp thuận (sau đây gọi chung là giấy phép) hoặc đánh giá định kỳ, kiểm tra chất lượng trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn do phải áp dụng quy định về phòng, chống dịch Covid-19.
Một là, áp dụng hình thức đánh giá trực tuyến trong trường hợp cơ sở sản xuất, kinh doanh, tổ chức đánh giá sự phù hợp, cơ quan cấp phép đáp ứng yêu cầu về nguồn lực, phương tiện kỹ thuật thực hiện (máy tính, đường truyền internet, ứng dụng phần mềm, máy ghi âm, ghi hình…);
Hoặc kéo dài thời hạn giấy phép 6 tháng (đối với giấy phép có thời hạn), tạm hoãn tối đa 6 tháng hoạt động đánh giá giám sát định kỳ; hoặc thực hiện cấp phép tạm thời tối đa 6 tháng, kiểm tra chất lượng nhập khẩu trên cơ sở xem xét hồ sơ đầy đủ, hợp lệ mà không phải tổ chức đánh giá trực tiếp tại hiện trường.
Hai là, cơ sở sản xuất, kinh doanh; tổ chức đánh giá sự phù hợp chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác của thông tin, tài liệu, hình ảnh, hồ sơ cung cấp cho cơ quan cấp phép.
Việc đánh giá trực tiếp tại hiện trường sẽ được thực hiện sau khi các địa phương kiểm soát được dịch bệnh theo quy định về phòng, chống dịch Covid-19; thực hiện thu hồi ngay giấy phép đối với trường hợp tổ chức, cá nhân vi phạm quy định pháp luật và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật.
Ba là, căn cứ điều kiện thực tế và đặc thù quản lý của từng lĩnh vực, Bộ NN-PTNT hướng dẫn các biện pháp nêu trên đảm bảo hoạt động sản xuất, kinh doanh của tổ chức, cá nhân không bị đình trệ, gián đoạn, đồng thời bảo đảm công tác quản lý nhà nước; phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan thanh tra, kiểm tra, phát hiện và kịp thời xử lý vi phạm, bảo đảm hiệu quả công tác quản lý nhà nước.
Nguồn: Mai Chiến – Tạp chí Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam
Nông sản chờ thị trường nội địa
Nông sản chờ thị trường nội địa
Mặc dù, ngành nông nghiệp có những tăng trưởng ấn tượng trong năm 2021, nhưng do ảnh hưởng của dịch Covid-19 đã tác động không nhỏ đến xuất nhập khẩu nông sản.
Trung Quốc vẫn là thị trường quan trọng
Ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN-PTNT) chia sẻ, hiện nhiều nông sản đang vào vụ, có nhu cầu tiêu thụ lớn. Song, các chính sách giám sát Covid-19 của Trung Quốc ngày càng tăng cường, duy trì chế độ “Zero Covid”, trong khi Việt Nam lại chủ trương sống chung với dịch.
“Những vấn đề ở biên giới đặt ra yêu cầu về việc chế biến nông, lâm, thủy sản của Việt Nam phải thay đổi, nhất là khi Tết Nguyên đán đang đến gần”, ông Hòa nói.
Người dân Thủ đô “giải cứu” mít cho chủ xe, do không xuất hàng sang phía nước bạn được.
Theo ông Hòa, một số mặt hàng như thủy sản, rau quả bảo quản lạnh sẽ được Trung Quốc giám sát chặt chẽ. Đây là một trong những nguyên nhân chính khiến năng lực thông quan tại cửa khẩu giảm khoảng một nửa thời gian qua.
Nhằm giải quyết các vấn đề ùn tắc nông sản, ngành nông nghiệp đã tổ chức nhiều đoàn thanh tra, kiểm tra, giám sát tình hình lưu thông, xuất nhập khẩu nông sản cả ở cửa khẩu, lẫn các địa phương.
Dù nhiều Bộ, ban, ngành vào cuộc quyết liệt, nhiều địa phương chưa kịp điều tiết hàng hóa. Tình trạng này dẫn đến việc nhiều xe chở nông sản lên biên giới đã quay đầu trở lại các đô thị lớn như Hà Nội.
“Chúng ta cần định hướng tập trung tiêu thụ tốt các sản phẩm đang vào mùa vụ. Những doanh nghiệp có khả năng chế biến sâu, hoặc có công nghệ bảo quản cần tham gia vào quá trình này, tránh tình trạng để giá nông sản giảm sâu”, ông Hòa nhấn mạnh.
Ông Hòa cho biết thêm, bất chấp những khó khăn về thông quan, điểm sáng của nông sản là giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc vẫn đạt khoảng 1,7 tỷ USD; chứng tỏ Trung Quốc vẫn là một thị trường quan trọng đối với Việt Nam.
Từ ngày 1/1/2022, Trung Quốc áp dụng Lệnh 248, Lệnh 249, và chủ trương quản lý chặt kinh tế biên mậu, và thúc đẩy việc xuất nhập khẩu chính ngạch. Ông Hòa nhận định, đây là vấn đề mà các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng Việt Nam cần lưu ý, bên cạnh cải tiến, nâng cao quy trình sản xuất để đảm bảo chất lượng sản phẩm, đảm bảo khả năng có thể tham gia vào các chuỗi siêu thị lớn của Trung Quốc.
Chuyển sang tiêu thụ nội địa
Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Lạng Sơn Đinh Thị Thu cho hay, lượng xuất khẩu tại các cửa khẩu của tỉnh hiện nay chỉ vào khoảng dưới 100 xe/ngày/cửa khẩu và đa số là sản phẩm khô chứ rất ít hoa quả tươi.
Theo bà Thu, tổng lượng xe ùn tắc tại Lạng Sơn hiện nay vào khoảng 2.900 xe, đang giảm dần, nhưng nguyên nhân chính là do nhiều xe quay đầu về tiêu thụ nội địa; đặc biệt là sau khi Bằng Tường thông báo ngừng nhập khẩu thanh long từ 0h 29/12 – 24h 26/1/2022.
Hiện nay, tại cửa khẩu biên giới Lạng Sơn vẫn còn ùn tắc hơn 2.000 xe.
Thời gian qua, Lạng Sơn đã có nhiều chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp, lái xe đường dài đang bị ùn tắc tại cửa khẩu như giảm phí dịch vụ, điều trị miễn phí nếu tài xế mắc Covid-19. Bên cạnh đó, tỉnh cũng thường xuyên củng cố, tăng cường quan hệ, thông tin với các địa phương phía Trung Quốc để hỗ trợ thông quan nông sản.
Theo bà Đinh Thị Thu, trong thời gian tới việc xuất khẩu nông sản dự kiến sẽ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là dịp Tết Nhâm Dần đang đến gần.
“Phía Trung Quốc sẽ tạm dừng nhập khẩu hàng hóa trên container lạnh trong 28 ngày của dịp Tết Nhâm Dần, trong đó 14 ngày trước Tết và 14 ngày sau Tết”, bà Thu cho biết thêm.
Trước tình hình đó, bà Thu kiến nghị các đơn vị cấp trên cần tổ chức thêm các cuộc hội đàm cấp cao để thông quan nốt 2.900 xe đang còn ùn tắc trước Tết Nguyên đán.
Bên cạnh đó, đại diện ngành nông nghiệp Lạng Sơn cũng đề nghị các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng có phương án đẩy mạnh chế biến, tiêu thụ nội địa trong tình hình xuất khẩu đang gặp khó khăn hiện nay.
Doanh nghiệp sẵn sàng “ứng cứu” nông sản
Ông Đinh Cao Khuê, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thực phẩm Xuất khẩu Đồng Giao (Doveco) thông tin, hiện nay Công ty đang tiêu thụ số lượng lớn sản phẩm nông sản bị ách tắc tại biên giới.
Cụ thể, mỗi ngày Công ty tiêu thụ khoảng 100 – 150 tấn sản phẩm nông sản các loại, đặc biệt là sản phẩm xoài. Thời gian qua, Công ty cũng đã kếp hợp với Đồng Tháp, Tiền Giang để có nguồn cung phục vụ chế biến nông sản.
“Hiện nay chúng tôi vẫn chế biến xoài với số lượng lớn. Nếu các đơn vị có sản phẩm xoài, dứa, chanh leo hay chuối gặp khó khăn trên cửa khẩu, Công ty sẵn sàng hỗ trợ tiêu thụ”, ông Đinh Cao Khuê cho biết.
Bà Nguyễn Phương Hồng, Giám đốc kế hoạch chuỗi cung ứng tập đoàn Nafoods Group cho biết, công ty có nhiều nhà máy sản xuất, chế biến ở khắp cả nước, với công suất thiết kế 100.000 tấn, tương đương 300.000 tấn nguyên liệu/năm.
Các sản phẩm chính của Nafoods là chanh leo, dứa, xoài, mãng cầu, hạt điều… Thời gian từ giờ đến tết, Nafoods có thể hỗ trợ cho chanh leo và thanh long. Với các sản phẩm tại cửa khẩu phía Bắc sẽ chuyển về Nghệ An, còn phía Nam sẽ đưa về Long An. Sản lượng khoảng 1.000 tấn.
Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam bộc bạch, trong điều kiện Trung Quốc hạn chế nhập nông sản, trong đó có những trái cây chủ lực của Việt Nam như thanh long, mít, dưa hấu thì nhiều doanh nghiệp trong nước đã lên tiếng sẵn sàng chế biến, thu mua xe nông sản quay đầu về từ biên giới.
“Qua đây, chúng ta cần nhìn nhận rõ vấn đề là tiềm năng của thị trường nội địa rất lớn. Chúng ta cần tích cực thay đổi tư duy, Chính phủ cũng đã có chủ trương đa thị trường, đa lợi ích”, Thứ trưởng Nam nói.
Nguồn: Mai Chiến – Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam
Bài học từ đại dịch COVID-19: Làm sao để hệ thống nông sản chống chịu tốt hơn trước các cú sốc
Bài học từ đại dịch COVID-19: Làm sao để hệ thống nông sản chống chịu tốt hơn trước các cú sốc
Báo cáo Hiện trạng Nông nghiệp và Thực phẩm Toàn cầu (SOFA) 2021 của Tổ chức Nông Lương Liên hiệp quốc (FAO) mới công bố co thấy sự mong manh của các hệ thống nông sản trên thế giới và đưa ra các giải pháp về cách đối phó với những cú sốc bất ngờ.
Các quốc gia cần phải làm cho hệ thống nông sản kiên cường hơn trước những cú sốc bất ngờ như đã trải qua trong đại dịch COVID-19. Những cú sốc này là tác nhân chính dẫn đến sự gia tăng nạn đói mới nhất trên toàn cầu. Theo báo cáo SOFA 2021, nếu không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng thì những cú sốc khó lường sẽ tiếp tục phá hoại các hệ thống nông sản.
Báo cáo Hiện trạng Nông nghiệp và Thực phẩm Thế giới năm nay có tựa đề “Làm cho các hệ thống nông sản có khả năng chống chịu tốt hơn trước những cú sốc và căng thẳng”. Báo cáo tập trung đánh giá về khả năng của các hệ thống nông sản quốc gia trong việc ứng phó hoặc phục hồi dễ dàng trước các cú sốc và tác nhân gây căng thẳng. Báo cáo cũng cung cấp hướng dẫn cho các Chính phủ về cách cải thiện khả năng phục hồi.
Ngày nay, có khoảng 3 tỷ người trên thế giới không đủ khả năng chi trả cho một chế độ ăn uống lành mạnh. Báo cáo SOFA 2021 ước tính rằng sẽ có thêm 1 tỷ người nữa gia nhập hàng ngũ này nếu một cú sốc khác làm giảm đi 1/3 thu nhập của họ. Hơn nữa, chi phí thực phẩm có thể tăng lên tới 845 triệu người nếu xảy ra đứt gãy các liên kết giao thông quan trọng. SOFA định nghĩa các cú sốc là “sự sai lệch ngắn hạn so với các xu hướng dài hạn có tác động tiêu cực đáng kể đến hệ thống, tình trạng sức khỏe, tài sản, sinh kế, sự an toàn và khả năng chống chọi của con người đối với các cú sốc trong tương lai.” Các ví dụ bao gồm các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt và các đợt dịch bệnh và sâu bệnh hại thực vật và động vật.
Ngay cả trước khi COVID-19 bùng nổ, thế giới vẫn chưa đi đúng hướng để đạt được cam kết chấm dứt nạn đói và suy dinh dưỡng vào năm 2030. Và trong khi chuỗi cung ứng và sản xuất lương thực từ trước đến nay vốn dễ bị ảnh hưởng bởi khí hậu cực đoan, xung đột vũ trang hoặc tăng giá lương thực toàn cầu, tần suất và mức độ nghiêm trọng của những cú sốc như vậy đang gia tăng.
Hành động cụ thể
Hệ thống nông sản thế giới – mạng lưới phức tạp các hoạt động liên quan đến sản xuất lương thực và các sản phẩm nông nghiệp phi lương thực, cũng như bảo quản, chế biến, vận chuyển, phân phối và tiêu thụ, sản xuất ra 11 tỉ tấn lương thực mỗi năm và tạo việc làm cho hàng tỉ người, trực tiếp hay gián tiếp. Sự cấp bách phải tăng cường khả năng chịu đựng của hệ thống nông sản là không thể trì hoãn.
Báo cáo cũng đưa ra các chỉ số cấp quốc gia về khả năng phục hồi của hệ thống nông sản tại hơn 100 quốc gia trên thế giới, bằng cách phân tích các yếu tố như mạng lưới giao thông, dòng chảy thương mại và sự sẵn có của các chế độ ăn uống lành mạnh và đa dạng. Mặc dù các quốc gia thu nhập thấp nhìn chung phải đối mặt với những thách thức lớn hơn nhiều, nhưng báo cáo cho thấy các quốc gia thu nhập trung bình cũng đang gặp rủi ro. Đối với gần một nửa số quốc gia được các chuyên gia FAO phân tích, việc đóng các mạng lưới liên kết giao thông quan trọng sẽ làm tăng thời gian vận chuyển địa phương lên 20% hoặc hơn, do đó làm tăng chi phí và giá thực phẩm cho người tiêu dùng.
Do đó, FAO khuyến nghị các Chính phủ nên coi khả năng phục hồi trong các hệ thống nông sản là một phần chiến lược trong phản ứng đối với những thách thức đang diễn ra và trong tương lai.
Chìa khóa ở đây là đa dạng hóa – nguồn đầu vào, sản xuất, thị trường và chuỗi cung ứng, cũng như các tác nhân – vì sự đa dạng tạo ra nhiều con đường để vượt qua các cú sốc. Hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nông sản vừa và nhỏ, hợp tác xã,… sẽ giúp duy trì sự đa dạng trong chuỗi giá trị nông sản trong nước.
Một yếu tố quan trọng khác là khả năng kết nối. Các mạng lưới nông sản được kết nối tốt sẽ khắc phục sự gián đoạn nhanh hơn bằng cách thay đổi các nguồn cung cấp và các kênh vận chuyển, tiếp thị, đầu vào và lao động.
Cuối cùng, nâng cao năng lực chống chịu của các hộ gia đình dễ bị tổn thương là rất quan trọng để đảm bảo một thế giới không còn nạn đói. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc cải thiện khả năng tiếp cận tài sản, đến các nguồn thu nhập đa dạng và các chương trình bảo trợ xã hội trong trường hợp xảy ra các cú sốc./.
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Chi có hai chữ “Đầu Ra” cho hàng hóa nông sản thực phẩm
CHỈ CÓ HAI CHỮ “ĐẦU RA” CHO HÀNG HÓA NÔNG SẢN THỰC PHẨM
Nền sản xuất hàng hóa nhất là hàng nông sản thực phẩm của VN so với hàng chục năm trước đây đã có nhiều tiến bộ, sản phẩm dồi dào hơn, chất lượng hơn và an toàn hơn. Hàng hóa Việt đã đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu và có thể cạnh tranh ngay ở thị trường nội địa. Có thể nói nếu giải quyết tốt đầu ra cho quỹ hàng hóa này thì vừa đảm bảo tiêu dùng cho thị trường nội địa một cách ổn định, đồng thời có thể cạnh tranh với các sản phẩm nhập ngoại đang tiếp tục thâm nhập càng nhiều vào thị trường VN.
Tuy nhiên có một nghịch lý hiện nay là nông dân, doanh nghiệp nông nghiệp sản xuất nuôi trồng đánh bắt càng nhiều thì tiêu thụ lại càng khó khăn hơn bởi nhiều nguyên nhân. Điều mà Bộ Nông nghiệp đã nhận định “Sản phẩm nông nghiệp VN có 2 điểm yếu là thị trường tiêu thụ và chế biến” . Bảy tháng đầu năm nay, do tình hình phải giãn cách XH theo chỉ thị 16 của Chính phủ, mặt khác, sức mua tiêu dùng cũng đã giảm đi rõ rệt, 70% nhà máy chế biến nông sản thực phẩm tạm thời ngừng hoạt động, việc vận chuyển giữa các vùng miền còn gặp những khó khăn khi những “luồng xanh” chưa thật đảm bảo.
Theo thống kê sơ bộ từ nay đến cuối năm 2021, Đồng bằng Sông Cửu long và toàn miền Nam sẽ có 5,7 triệu tấn nông sản thực phẩm đến mùa thu hoạch và tiêu thụ. Chính vì vậy, việc giải quyết đầu ra cho quỹ hàng hóa khổng lồ này là một vấn đề hết sức cấp bách. Chúng ta có thể điểm qua một số tin về giá cả những hàng hóa ở thị trường phía Nam đang bị sụt giá trị chưa từng có: Gà công nghiệp với hàng chục triệu con giá chỉ còn 5.000 – 7000đ /kg. Một số gà giống hàng chục triệu con khả năng phải tiêu hủy bởi chưa có ai đến thu mua và giá
thức ăn gia súc đã tăng 6 – 8 lần rồi. Thủy hải sản đánh bắt và nuôi trồng bị giảm giá từ 10 – 30%, một số đã phải chuyển sang làm thức ăn cho gia súc vì giá quá rẻ. Các loại hoa quả như thanh long, nhãn, dứa, v.v. cũng bị rớt giá rất mạnh. Thanh long có lúc chỉ còn 5000đ/kg ở Bình Thuận với sản lượng sắp thu hoạch hàng chục nghìn tấn. Chúng ta không thể kể hết danh mục những mặt hàng bị giảm giá và tồn đọng ở vùng sản xuất nông sản thực phẩm lớn nhất cả nước này. Trong điều kiện giá hàng hóa bị sụt giảm mạnh như vậy, một mặt người nông dân bị thua lỗ , gặp nhiều khó khăn nhưng mặt khác những người tiêu dùng ở các thành phố lớn, nhất là những nơi có dịch, giá các sản phẩm ở chợ và siêu thị lại cao một cách vô lý. Một phóng viên đã tính giá bán 1kg gà chỉ bằng một mớ rau muống. Giá bán thịt gà ở thành phố cao gấp hàng chục lần so với giá thu mua của nông dân. Tình hình xảy ra ở trên có rất nhiều nguyên nhân, thứ nhất, đó là chuỗi cung ứng hàng hóa bị đứt gãy mà nguyên nhân chính là khâu vận chuyển. Thứ hai, lưu thông hàng hóa của chúng ta không có khi dự trữ chiến lược. Hàng hóa làm ra thì được để ở các kho tạm hoặc che bạt ở ngoài đồng, từ đó dẫn tới hao hụt , hư hỏng và nhất là bị thương lại bắt bí, ép giá, ép cấp. Thứ ba, hàng hóa của chúng ta những lúc thu hoạch rộ thì không đủ các nhà máy chế biến để tạo thêm giá trị gia tăng cho sản phẩm, đồng thời giảm tồn kho, dư thừa ở khâu sản xuất. Hiện nay các nhà máy của VN chỉ đáp ứng được 20% nhu cầu chế biến này, số còn lại toàn ăn tươi và xuất khẩu không qua chế biến.
Thứ tư, lại nhắc đến hệ thống phân phối, đó là câu chuyện “thường ngày ở huyện”. Trên thực tế, hàng nông sản thực phẩm 85% tiêu thụ ở các chợ lẻ, 15% ở các siêu thị, cửa hàng tiện lợi. Trong khi đó cơ sở vật chất của chợ, nơi tiêu thụ phần lớn quỹ hàng hóa này còn rất yếu kém. Chính vì vậy, kênh truyền thống không kham nổi và cũng không có điều kiện bảo quản để tổ chức bán ra cho người tiêu dùng. Còn siêu thị vừa đảm nhiệm lượng tiêu thụ khiêm tốn, vừa kinh doanh chủ yếu theo kiểu “ăn đong”, không có dự trữ. Mặt khác, cánh cửa đón những mặt hàng nông sản thực phẩm còn nửa đóng nửa mở, có những lúc có những siêu thị còn chèn ép vô lý nhà cung ứng. Câu chuyện này là một sự thực khách quan mà báo chí các chuyên gia đã lên tiếng nhiều năm nay mà chưa được Bộ Công thương, Sở Công thương các tỉnh thành phố đứng ra làm Trọng tài chia sẻ, có lẽ đơn vị nào đó chưa thấm nhuần sự chỉ đạo của Nguyên Thủ tưởng Chính phủ “Kinh doanh ai cũng muốn có lợi nhuận, song hưởng quá mức là vô lý”.
Tất cả những vướng mắc ở trên là nguyên nhân sâu xa là chủ yếu dẫn tới tình hình giải quyết đầu ra cho hàng hóa nông sản thực phẩm ở nước ta còn nhiều trở ngại khó khăn. Đây là bài toán mà các cấp các ngành cần phải tập trung giải quyết sớm nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển và tổ chức lưu thông hàng hóa một cách nhanh chóng và hiệu quả, phục vụ cho tiêu dùng. Những tổ chức cá nhân có liên quan đến việc tổ chức sản xuất phân phối bán ra hàng hóa nông sản thực phẩm phải coi những sản phẩm được làm ra từ mồ hôi nước mắt của người nông dân là sản phẩm của chính gia đình mình để góp phần tiêu thụ hàng hóa có hiệu quả. Kiên quyết chống các biểu hiện vì lợi ích cục bộ của các địa phương, các doanh nghiệp vì lợi nhuận mà bất chấp tất cả,v.v. Bài toán lợi ích trong chuỗi giá trị sản xuất phân phối tiêu dùng phải được giải quyết một cách hài hòa. Chúng ta tin tưởng rằng, với những tư duy mới, sự chỉ đạo mới của Chính phủ, các bộ ngành và các địa phương trong thời gian ngắn nhất sẽ khắc phục được việc giải quyết đầu ra cho hàng hóa nông sản thực phẩm ở thị trường VN, một vấn đề nhiều trăn trở trong những năm qua mà chưa được khắc phục một cách cơ bản.
Vũ Vinh Phú
Chuyên gia kinh tế
Theo Hiệp định EVFTA, Việt Nam thành công xuất khẩu lô cà phê đầu tiên sang châu Âu
Theo Hiệp định EVFTA, Việt Nam thành công xuất khẩu lô cà phê đầu tiên sang châu Âu
Ngày 16/9 vừa qua, tại Gia Lai, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Lê Quốc Doanh, đã tham dự lễ xuất khẩu cà phê đầu tiên của Việt Nam đã chính thức xuất khẩu sang thị trường EU theo Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA).
Hiệp định EVFTA có hiệu lực từ 1/8/2020, toàn bộ các sản phẩm cà phê bao gồm chưa rang, đã rang, các loại cà phê chế biến đều được xóa bỏ thuế về 0%. Đồng thời, EU cam kết bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho cà phê Việt Nam. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho ngành cà phê Việt Nam tại thị trường EU.
Trong đợt xuất khẩu đầu tiên này, Công ty TNHH Vĩnh Hiệp đã xuất khẩu 14 container với số lượng 296 tấn sang Cảng đến Hamburg, Antwerp của Đức và Bỉ.
Tại buổi Lễ xuất khẩu cà phê đi châu Âu theo Hiệp định EVFTA do Bộ NN & PTNT, UBND tỉnh Gia Lai và Công ty TNHH Vĩnh Hiệp (thành phố Pleiku, Gia Lai) tổ chức, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh cho biết, từ nhiều năm nay Việt Nam luôn là quốc gia xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 thế giới và đứng đầu thế giới về xuất khẩu cà phê Robusta, ngành hàng cà phê còn là một trong 13 nông sản chủ lực quốc gia, cà phê Việt Nam có mặt ở hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, EU là thị trường tiêu thụ cà phê nhiều nhất của Việt Nam, chiếm 40% trong tổng lượng và 38% về tổng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp 3% GDP cả nước. Với lợi thế cạnh tranh cao, đặc biệt là khu vực Tây Nguyên, nơi tập trung nhiều đồng bào dân tộc thiểu số và người nghèo. Tạo việc làm và thu nhập ổn định cho trên 600.000 hộ nông dân, góp phần phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo ở Tây Nguyên và các vùng trồng cà phê khác của Việt Nam.
Thứ trưởng Lê Quốc Doanh nhấn mạnh, triển khai Hiệp định EVFTA cho thấy những kết quả tích cực. Tháng 8/2020, giá trị xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam vào thị trường EU ước đạt gần 76 triệu USD, tăng 34,7% so với tháng 7/2020. Trong thời gian tới, ngành cà phê Việt Nam sẽ đảm bảo đáp ứng được yêu cầu của thị trường EU, đặc biệt các tiêu chuẩn về chất lượng và phát triển bền vững, đưa Việt Nam là điểm tham chiếu cho cà phê Robusta toàn cầu.
Để tiếp tục triển khai Hiệp định EVFTA có hiệu quả, đặc biệt trong ngành hàng cà phê, Bộ NN&PTNT đề nghị các địa phương tiếp tục hướng dẫn người dân sản xuất cà phê được chứng nhận do các nhà nhập khẩu châu Âu yêu cầu, có truy xuất nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.
Cùng đó, đẩy nhanh áp dụng các tiến bộ về khoa học, kỹ thuật trong trồng, chăm sóc, thu hoạch, sở chế bảo quản các sản phẩm cà phê; chuyển đổi bộ giống cà phê theo hướng nâng cao chất lượng, tăng thị phần cà phê đặc sản, tiếp tục đăng ký chỉ dẫn địa lý, xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm của địa phương mình.
Ngoài ra, Hiệp hội Cà phê ca cao Việt Nam cần nắm bắt, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của cộng đồng doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa; cung cấp thông tin kịp thời cho các thành viên về cơ chế, chính sách ưu đãi, hàng rào về kỹ thuật, thông tin thị trường để các doanh nghiệp sớm nắm bắt và có điều chỉnh kịp thời.
Các doanh nghiệp chủ động chủ động tìm hiểu thông tin về Hiệp định EVFTA để nắm vững cam kết của Việt Nam và cam kết của EU, đặc biệt là các thông tin về các ưu đãi thuế quan theo Hiệp định này đối với các sản phẩm cà phê. Bên cạnh đó, đổi mới công nghệ, mẫu mã sản phẩm đặc biệt là công nghệ chế biến sâu để đa dạng hóa sản phẩm cà phê xuất khẩu sang châu Âu. Doanh nghiệp cũng phải đảm bảo nguồn gốc xuất xứ, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, tuân thủ các quy định về sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm cà phê.
Cũng tại buổi lễ, đại diện thành viên EU tại Việt Nam đánh giá cao lợi thế của ngành cà phê Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường châu Âu. Nếu Việt Nam tổ chức thực hiện được chứng nhận đảm bảo nguồn gốc xuất xứ thì xem như đã làm được 50% yêu cầu trong quy trình xuất khẩu sang EU.
Tại buổi lễ, các đại biểu tham dự đã tiến hành đi thăm dây chuyền chế biến cà phê của Công ty TNHH Vĩnh Hiệp, chứng kiến hoạt động xếp hàng vào container.
Ông Thái Như Hiệp, Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám đốc Công ty TNHH Vĩnh Hiệp cho biết, Công ty TNHH Vĩnh Hiệp là doanh nghiệp sản xuất-xuất khẩu cà phê của Việt Nam vinh dự xuất lô sản phẩm cà phê đầu tiên đi châu Âu. Để vào được thị trường châu Âu theo Hiệp định EVFTA, sản phẩm cà phê phải đảm bảo không có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, đảm bảo tất cả các quy định hết sức khắt khe của thị trường khó tính này. Khi sản phẩm cà phê được vào thị trường các nước EU, các hàng rào thuế quan đã được dỡ bỏ, theo đó thuế trở về bằng 0%, giá trị đem lại cho nông dân, doanh nghiệp và nhà nhập khẩu được bền vững.
Tuy nhiên, sản phẩm cà phê bắt buộc phải có truy xuất nguồn gốc, chất lượng cao, có chỉ dẫn địa lý, thực thi các quy trình của Hiệp định EVFTA đã được kiểm soát từ nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu. Hằng năm, Công ty TNHH Vĩnh Hiệp xuất khẩu khoảng 50-70 tấn cà phê các loại cho thị trường thế giới, trong đó, xuất sang thị trường châu Âu chiếm 60%. Doanh thu kim ngạch xuất khẩu đạt 150 triệu USD. Niên vụ 2019-2020, Công ty TNHH Vĩnh Hiệp đã xuất sang thị trường Châu Âu khoảng 34.000 tấn cà phê, gồm các sản phẩm như cà phê rang xay, cà phê hòa tan, cà phê tinh và cà phê sạch.
Hiện sản phẩm cà phê của Công ty TNHH Vĩnh Hiệp đã đạt toàn bộ các chứng chỉ Quốc tế cho 25.000 ha cà phê của đơn vị. Từ các chứng chỉ của Hoa Kỳ, Nhật Bản, châu Âu, Hàn Quốc, kể cả chứng chỉ của các tổ chức bền vững; trong đó, có Hà Lan về FOSI, DELFORES. Đặc biệt, Công ty TNHH Vĩnh Hiệp là doanh nghiệp cà phê đầu tiên của Việt Nam đạt được chứng nhận USDA của Hoa Kỳ.
Theo Bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn
“Đường cao tốc” đưa nông sản Việt đến châu Âu
Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nhận định, EVFTA là “đường cao tốc” để nông sản Việt đi vào thị trường rộng lớn của 27 quốc gia châu Âu.
Phát biểu tại Hội thảo “Doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nông sản – Hành động tiếp cận EVFTA” do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức ngày 30/7, ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhận định, là văn bản điều chỉnh quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) đề cập đến các văn đề về trao đổi hàng hóa, xuất xứ, quy cách phẩm chất, biểu thuế đối với từng mặt hàng….
“Trong đó với lĩnh vực nông nghiệp ngoài các nội dung lồng ghép về các quy định chung còn được dành riêng chương 6 cho nội dung về các biện pháp an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật chắc chắn cần có sự nghiên cứu trao đổi, đánh giá và tìm ra các giải pháp khắc phục những khó khăn, vướng mắc có thể gặp phải của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp”, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nhấn mạnh.
Vì vậy, ông Hoàng Quang Phòng đánh giá cao ý tưởng tổ chức hội thảo dành riêng cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, giúp doanh nghiệp tiếp cận thông tin và trao đổi sâu hơn về các khía cạnh mang tính kỹ thuật tác động đến các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.
Phó Chủ tịch VCCI kỳ vọng những thông tin mang lại sẽ giúp các doanh nghiệp chủ động và tận dụng được các mặt tích cực và Hiệp định mang lại, tránh được các rủi ro có thể có trong quá trình hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế quan trọng này.
Trên thực tế, EVFTA đi vào thực thi, các rào cản thuế quan và phi thuế quan sẽ dần được xóa bỏ giữa các nước thành viên. Tuy nhiên, trên thực tế, các rào cản phi thuế quan lại không bị chối bỏ hoàn toàn, ngược lại, có xu hướng được sử dụng ở nhiều hình thức tinh vi hơn khi mức thuế quan tiến về 0% theo cam kết của EVFTA, trong đó gồm các biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS) và rào cản kỹ thuật đối với mặt hàng rau quả xuất khẩu (XK) sang 27 nước thuộc EU.
Trao đổi với các doanh nghiệp, TS Lê Thanh Hoà, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và PTTTNS, Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam cho biết, SPS là những nội dung liên quan an toàn thực phẩm, kiểm dịch động thực vật, rào cản sẽ ngày càng phức tạp với các FTA mới được ký kết, đặc biệt là với EVFTA.
Theo đó, các mặt hàng rau quả phải đáp ứng tất cả quy định chung về thực phẩm theo Luật Thực phẩm tổng hợp của EU (EU General Food Law), luật này cũng có các yêu cầu về truy nguyên nguồn gốc. Các loại thực vật và các sản phẩm thực vật, kể cả rau quả có xuất xứ từ những khu vực không xác định được, bị nhiễm sinh vật gây hại sẽ không được phép nhập khẩu vào EU.
Cùng với đó, quy định về quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm của EU còn đưa ra 7 nguyên tắc cần phải thực hiện nhằm ngăn chặn các mối nguy hại trong quá trình sản xuất ra thành phẩm.
Đối với rau quả tươi, EU thường yêu cầu người XK phải có giấy chứng nhận về thực hành sản xuất nông nghiệp tốt toàn cầu (GlobalGAP) hay các chứng nhận an toàn thực phẩm khác. Ngoài đảm bảo chất lượng và an toàn thực phẩm, GlobalGAP còn liên quan tới đảm bảo tiêu chuẩn về môi trường và xã hội thông qua giảm lượng hóa chất sử dụng, có trách nhiệm về sức khỏe và an toàn lao động. GlobalGAP được phát triển từ EurepGAP. Phạm vi EurepGAP gồm: sản xuất quả, rau, khoai tây, salad, hoa cắt cành và gia súc chăn nuôi.
Quy định chung về kiểm soát, kiểm tra sản phẩm: Tất cả sản phẩm nhập khẩu vào EU đều bị kiểm tra xem sản phẩm có phù hợp theo các quy định trong luật về thực phẩm có liên quan của EU.
Trong chính sách an toàn thực phẩm, EU cũng đưa ra tiêu chí về nhiễm vi khuẩn trong thực phẩm (thực phẩm có mang vi sinh vật, độc tố, chất chuyển hóa của nó), quy định về dư lượng tối đa chất gây ô nhiễm trong sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm cụ thể.
Các lô hàng nhập khẩu vào EU phải có giấy chứng nhận vệ sinh và an toàn thực vật để thể hiện tình trạng sản phẩm, biện pháp kiểm tra và chữ ký xác nhận của cơ quan bảo vệ thực vật quốc gia trước khi gửi hàng.
Đồng quan điểm, ông Phạm Đồng Quảng, Nguyên Phó Vụ Trưởng Vụ khoa học Bộ Nông nghiệp cũng đã chỉ ra 5 thách thức đối với nông sản Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Liên minh Châu Âu (EU). Cụ thể, thứ nhất, là các quy đinh về xuất xứ hàng hóa. Nếu không bảo đảm các quy tắc xuất xứ, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU chỉ được hưởng ưu đãi thuế quan tối huệ quốc (MFN) hoặc ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP), chứ không được áp thuế xuất 0% trong EVFTA.
Thứ hai, quy định về an toàn thực phẩm (ATTP), kiểm dịch động thực vật. EU yêu cầu rất khắt khe về ATTP, kiểm dịch động thực vật trong khi sản xuất trong nước còn nhỏ lẻ, phân tán, thiếu liên kết, ý thức tuân thủ của nông dân chưa cao…
Thứ ba, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Thứ tứ, thương mại công bằng phát triển bền vững. Thứ năm, các thủ tục điều kiện xuất khẩu vào EU. Việt Nam và EU cam kết áp dụng chung một hệ thống các thủ tục, điều kiện nhập khẩu đối với sản phẩm đến từ bất kỳ khu vực nào của bên kia.
Do đó, chuyên gia nhấn mạnh cần nghiên cứu nắm vững các quy định của EU về an toàn vệ sinh thực phẩm và tiêu chuẩn kỹ thuật, đảm bảo truy xuất nguồn gốc cũng như tổ chức sản xuất theo công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, làm tốt khâu bảo quản, áp dụng quy trình sản xuất an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế GlobalGAP, HACCP…
Tại Hội thảo, các chuyên gia thống nhất cho rằng, bên cạnh nắm bắt các quy định, doanh nghiệp cần chủ động gắn kết các doanh nghiệp chế biến, bảo quản, XK với vùng nguyên liệu.
Chú trọng xây dựng và bảo vệ hình ảnh, uy tín thương hiệu mặt hàng rau quả cũng như lập ra kế hoạch phổ biến, rộng rãi thương hiệu rau quả Việt Nam đến thị trường EU-27 bằng nhiều hình thức.
Tăng cường xây dựng mối quan hệ tốt, bền vững với các nhà nhập khẩu EU-27 nhằm giúp cho doanh nghiệp Việt Nam ứng phó tốt với các rào cản rau quả của thị trường này.
Nâng cao nguồn nhân lực có chất lượng cao, đội ngũ cán bộ cần nắm vững tiêu chuẩn chất lượng rau quả, có khả năng kiểm soát chặt chẽ quy trình sản xuất, quy trình kiểm dịch thực vật, an toàn thực phẩm của EU…
“Sản xuất hữu cơ vẫn phải là hướng đi trong thời gian tới, đặc biệt để vào thị trường EU. Chúng ta thực tế đã chậm hơn một bước, Chương trình organic Thái Lan đã ban hành cách đây hơn 10 năm, chúng ta gần đây mới ban hành được một nghị định về nông nghiệp hữu cơ. Chúng ta cần thúc đẩy nhanh hơn hướng đi này”, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và PTTTNS đánh giá.
(Nguồn: Báo Diễn Đàn Doanh Nghiệp)
VITAD-AGRI và VCCI đã phối hợp tổ chức buổi tập huấn hội thảo” Doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nông sản- Hành động tiếp cận EVFTA” ngày 30/7/2020
Để giúp các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu nông sản chủ động bắt kịp, tận dụng tốt cơ hội ngay từ khi hiệp định có hiệu lực, VITAD-AGRI và VCCI đã phối hợp tổ chức buổi tập huấn hội thảo” Doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nông sản- Hành động tiếp cận EVFTA”.
Mục đích của buổi Tập huấn- Hội thảo là nhằm trang bị các kiến thức cần thiết của EVFTA liên quan đến xản xuất và xuất khẩu nông sản sang thị trường EU; Tạo lập liên kết chuỗi giữa sản xuất và xuất nhập khẩu nông sản; Đề xuất các chính sách nhằm chủ động, đẩy nhanh quá trình và nâng cao hiệu quả thực thi EVFTA trong sản xuất và xuất khẩu nông sản.
Các mục tiêu cụ thể:
- Xác định rõ các ngành hàng nông sản và các yêu cầu đặt ra với từng mặt hàng nông sản xuất khẩu sang thị trường EU (gồm i) Ngành hàng trồng trọt; ii) Ngành hàng chăn nuôi và iii) Ngành hàng thủy hải sản).
- Xác định và đề xuất những giải pháp, chính sách và lộ trình nhằm đẩy nhanh xuất khẩu nông sản sang thị trường EU (Theo từng ngành hàng)..
- Tạo lập liên kết chuỗi giữa doanh nghiệp sản xuất với doanh nghiệp xuất nhập khẩu nông sản sang thị trường EU (Theo từng ngành hàng).
- Các mục tiêu sẽ được giải đáp, hướng dẫn cụ thể với những nội dung sau:
– Lộ trình thuế về 0% đối với các sản phẩm NN xuất khẩu của VN;
– Những sản phẩm hưởng thuế ưu đãi nhưng áp dụng hạn ngạch XK;
– Trình tự thủ tục thực hiện quy định nguồn gốc xuất xứ hàng hóa XK;
– Yêu cầu, thủ tục về quy định an toàn thực phẩm, kiểm dịch động thức vật đối với nông sản XK;
– Quy định về chỉ dẫn địa lý và bảo hộ sở hữu trí tuệ, xây dựng thương hiệu;
– Yêu cầu về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
– Những ngành hàng nông sản XK có lợi thế canh tranh cao nhờ VEFTA, những khó khăn và giải pháp
Một số hình ảnh tại buổi Hội thảo, Tập huấn “Doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nông sản-Hành động tiếp cận EVFTA” ngày 30/7/2020