Category Archives: Tin tức

Tin tức

Canh tác lúa giảm phát thải lợi nhuận tăng cao hơn 55 triệu đồng/ha

 

Mô hình canh tác lúa giảm phát thải tại Kiên Giang gắn với tăng trưởng xanh, mỗi ha giảm trên 13 tấn CO2, năng suất lúa hơn 10 tấn và cho lợi nhuận cao trên 55 triệu đồng.

Phát thải giảm sâu – lợi nhuận tăng vọt

Đó là những con số ấn tượng được báo cáo tại Diễn đàn Khuyến nông & Nông nghiệp với chủ đề “Giải pháp thúc đầy canh tác lúa phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh tại vùng ĐBSCL”. Diễn đàn do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Kiên Giang tổ chức sáng 28/3, tại xã Nam Thái Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Lê Quốc Thanh (thứ 2 từ trái qua) cùng các đại biểu tham quan, đánh giá ruộng canh tác lúa giảm phát thải thuộc dự án Khuyến nông Trung ương triển khai tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất. Ảnh: Trung Chánh.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Lê Quốc Thanh (thứ 2 từ trái qua) cùng các đại biểu tham quan, đánh giá ruộng canh tác lúa giảm phát thải thuộc dự án Khuyến nông Trung ương triển khai tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất. Ảnh: Trung Chánh.

Tham dự diễn đàn có lãnh đạo Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Trung tâm Khuyến nông một số tỉnh thành vùng ĐBSCL và 120 đại biểu là nông dân, thành viên Hợp tác xã tham gia Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”. Ngoài ra, còn có các đơn vị đối tác cung cấp vật tư, thiết bị cơ giới và giải pháp canh tác lúa giảm phát thải gắn với tăng trưởng xanh.

Diễn đàn nhằm sơ kết dự án Khuyến nông Trung ương: “Xây dựng mô hình canh tác lúa giảm phát thải phục vụ phát triển bền vững vùng nguyên liệu lúa gạo xuất khẩu vùng ĐBSCL” trên diện tích 50ha của Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất (xã Nam Thái Sơn, Hòn Đất).

Qua quá trình triển khai, mô hình thí điểm đã mang lại những chuyển biến tích cực, nhiều hộ nông dân đã chủ động áp dụng các tiến bộ kỹ thuật như giảm lượng giống gieo sạ, áp dụng tưới ướt khô xen kẽ (AWD), sử dụng phân bón cân đối, cơ giới hóa sản xuất và quản lý rơm rạ theo hướng tuần hoàn. Những thay đổi này không chỉ giúp giảm chi phí đầu vào, tăng lợi nhuận, mà còn góp phần giảm đáng kể phát thải khí nhà kính, nâng cao chất lượng sản phẩm và hướng đến sản xuất lúa gạo bền vững.

Các đại biểu xem trình diễn máy gặt tuốt có chức năng băm rơm hoặc rải rơm theo luống, giúp xử lý rơm rạ hiệu quả theo hướng tuần hoàn. Ảnh: Trung Chánh.

Các đại biểu xem trình diễn máy gặt tuốt có chức năng băm rơm hoặc rải rơm theo luống, giúp xử lý rơm rạ hiệu quả theo hướng tuần hoàn. Ảnh: Trung Chánh.

Ông Nguyễn Văn Bắc – Phó Trưởng Văn phòng thường trực tại Nam Bộ, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đánh giá, thực tế mô hình thí điểm trong vụ đông xuân 2024-2025 tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất đã mang lại hiệu quả rõ rệt: Với giống lúa ĐS1 năng suất trung bình đạt 10,3 tấn/ha (lúa tươi), tổng thu nhập đạt 82,2 triệu đồng/ha, mang lại lợi nhuận cho nhà nông lên đến 55,5 triệu đồng/ha, cao hơn ruộng đối chứng 6,7 triệu đồng/ha. Khí phát thải nhà kính giảm trung bình 13.05 tấn CO2 tương đương/ha so với mô hình canh tác truyền thống.

Ông Nguyễn Văn Nghĩa, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Kiên Giang cho biết, tham gia Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”, tỉnh đặt mục tiêu đến năm 2025 đạt diện tích 100.000ha và năm 2030 đạt 200.000ha. Để thực hiện, Kiên Giang đã tăng cường đào tạo tập huấn cho cán bộ kỹ thuật, hợp tác xã, nông dân tham gia đề án. Cùng với đó là phối hợp với các đơn vị khởi động các mô hình điểm ở các huyện sản xuất lúa trọng điểm của tỉnh, trong đó có mô hình trình diễn thuộc dự án Khuyến nông Trung ương tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất.

Thu gom, di chuyển rơm khỏi ruộng sau khi thu hoạch để sử dụng theo hướng tuần hoàn, vừa giúp tăng thu nhập, vừa giảm phát thải do đốt rơm gây ra. Ảnh: Trung Chánh.

Thu gom, di chuyển rơm khỏi ruộng sau khi thu hoạch để sử dụng theo hướng tuần hoàn, vừa giúp tăng thu nhập, vừa giảm phát thải do đốt rơm gây ra. Ảnh: Trung Chánh.

Theo ông Nghĩa, mô hình triển khai thức tế đã mang lại hiệu quả rất thiết thực cho người dân, giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất, chất lượng, gia tăng hiệu quả kinh tế, giảm phát thải giúp ngành lúa gạo tăng trưởng xanh, phát triển bền vững. Tuy nhiên, ông Nghĩa cũng nêu thực tế nông dân còn gặp khó khăn trong việc thu gom, đưa rơm rạ ra khỏi đồng ruộng để xử lý theo hướng nông nghiệp tuần hoàn đối với diện tích lớn. Vì vậy, có thể thay thế bằng giải pháp băm rơm rạ, cày vùi kết hợp với sử dụng chế phẩm vi sinh để phân hủy nhanh thành phân bón hữu cơ tại ruộng.

Huy động tốt nguồn lực tham gia

Ông Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, nhằm giải quyết đồng thời bài toán phát triển bền vững, nâng cao giá trị sản xuất lúa gạo và giảm phát thải khí nhà kính, Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”. Đề án được triển khai nhằm tổ chức lại hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị, áp dụng các quy trình canh tác bền vững, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thu nhập và đời sống của người dân trồng lúa, bảo vệ môi trường, góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế.

Các đại biểu tham quan, đánh giá giải pháp băm rơm kết hợp với xử lý vi sinh để phân hủy nhanh thành phân hữu cơ tại ruộng, giúp giảm phát thải trong canh tác lúa. Ảnh: Trung Chánh.

Các đại biểu tham quan, đánh giá giải pháp băm rơm kết hợp với xử lý vi sinh để phân hủy nhanh thành phân hữu cơ tại ruộng, giúp giảm phát thải trong canh tác lúa. Ảnh: Trung Chánh.

Theo ông Lê Quốc Thanh, để đạt được mục tiêu của Đề án, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân. Cùng với đó là các chính sách hỗ trợ kịp thời nhằm thúc đẩy sản xuất lúa theo hướng phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh. Và thực tế cho thấy, khi xây dựng các mô hình thí điểm tại các địa phương, đã huy động tốt các nguồn lực tham gia, với sự đồng hành của các chuyên gia, nhà khoa học, các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị lúa gạo và tổ chức nông dân.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đề nghị các địa phương duy trì, nhân rộng diện tích tham gia Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”, tránh trường hợp khi mô hình, dự án kết thúc, khuyến nông rút đi thì dự án cũng chết theo. Cần xây dựng Tổ Khuyến nông cộng đồng, cùng với khuyến nông doanh nghiệp để hỗ trợ hợp tác xã tham gia Đề án, mở rộng diện tích ở các địa phương.

Cũng tại diễn đàn, các đại biểu đã dành thời gian tham quan đánh giá ruộng mô hình và xem các doanh nghiệp đối tác trình diễn thiết bị cơ giới và giải pháp canh tác lúa giảm phát thải gắn với tăng trưởng xanh, gồm máy gặt tuốt có chức năng băm rơm hoặc rải rơm theo luống, máy cuộn rơm đưa khỏi đồng ruộng, máy xới vùi rơm rạ kết hợp phun chế phẩm vi sinh phân hủy nhanh rơm rạ thành phân bón hữu cơ ngay tại ruộng.

Cánh đồng canh tác lúa giảm phát thải với giống lúa ĐS1 tại Hợp tác xã nông nghiệp Vinacam Hòn Đất cho năng suất hơn 10 tấn/ha, nông dân đạt lợi nhuận cao trên 55 triệu đồng/ha. Ảnh: Trung Chánh.

Cánh đồng canh tác lúa giảm phát thải với giống lúa ĐS1 tại Hợp tác xã nông nghiệp Vinacam Hòn Đất cho năng suất hơn 10 tấn/ha, nông dân đạt lợi nhuận cao trên 55 triệu đồng/ha. Ảnh: Trung Chánh.

Trong đó, Công ty TNHH TMDV Sài Gòn Kim Hồng trình diễn máy gặt tuốt có chức năng băm rơm hoặc rải rơm theo luống. Công ty TNHH MTV Cơ khí Nông nhiệp Phan Tấn trình diễn máy cuộn rơm đưa khỏi đồng ruộng, máy xới vùi rơm rạ kết hợp phun chế phẩm vi sinh xử lý thành phân bón hữu cơ ngay tại ruộng. Công ty CP Phân bón Bình Điền trình diễn sản phẩm Đầu trâu Bio-Canxi thúc đầy phân hủy nhanh rơm rạ và giả ngộ độc hữu cơ.

Ngoài ra, ruộng mô hình còn có sự tham gia của các doanh nghiệp đối tác, gồm Công ty TNHH Lúa gạo Việt nam (Vinarice) cung cấp và hỗ trợ lúa giống chất lượng cao phục vụ mô hình trình diễn. Công ty Bayer Việt Nam hướng dẫn quy trình quản lý dịch hại IPM, IPHM. Công ty CP Tập đoàn Tân Long thực hiện liên kết tiêu thu lúa có kiểm soát dư lượng.

Theo nongnghiep.vn

 

Đại sứ Colombia: ‘Chính sách tốt bắt nguồn từ cơ sở khoa học vững chắc’

 

Bà Camila nhấn mạnh điều này khi trao đổi với CIAT và cho rằng Chính phủ các quốc gia phải có trách nhiệm trong việc nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo.

Khoa học khởi nguồn cho chính sách đúng đắn

Tại chuyến thăm Liên minh Bioversity và Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) vừa qua, bà Camila Maria Polo Florez, Đại sứ Colombia tại Việt Nam cho biết, tương tự Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới, nông nghiệp là một ngành quan trọng đối với Colombia.

Ngành không chỉ là xương sống của sản xuất lương thực, thực phẩm (LTTP) mà còn là nguồn sinh kế chính của vô số nông dân quy mô nhỏ và nhà sản xuất nông thôn. “Tăng trưởng kinh tế hiện tại và khả năng phục hồi xuất khẩu của Colombia, ngoài nhiên liệu hóa thạch truyền thống, phần lớn trông chờ vào nông nghiệp”, bà nói.

Bà Camila Maria Polo Florez (thứ 2 từ phải), Đại sứ Colombia tại Việt Nam thăm trụ sở CIAT. Ảnh: Linh Linh.

Bà Camila Maria Polo Florez (thứ 2 từ phải), Đại sứ Colombia tại Việt Nam thăm trụ sở CIAT. Ảnh: Linh Linh.

Theo đại sứ, sản xuất LTTP giờ không còn bó hẹp trong phạm vi sản xuất đơn thuần, mà tồn tại trong một hệ thống LTTP rộng hơn, liên kết chặt chẽ hơn, đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện. Trong đó, môi trường LTTP – bối cảnh nơi người tiêu dùng thu nhận, mua sắm LTTP – là một yếu tố quan trọng, gắn kết khăng khít giữa lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.

Colombia đã cam kết trở thành quốc gia tiên phong trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Trong phương hướng hành động, quốc gia hơn 50 triệu dân coi trọng tri thức bản địa, xem vốn kiến thức này là tư liệu quan trọng trong việc duy trì đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường.

Nhắc lại chủ đề của hội nghị thượng đỉnh về đa dạng sinh học năm ngoái, Đại sứ Camila nhấn mạnh “con người phải chung sống hòa bình với thiên nhiên”. Theo bà, Colombia là quốc gia có tính đa dạng sinh học rất cao nên phải có trách nhiệm với việc gìn giữ, duy trì sức khỏe môi trường.

Chuyến thăm CIAT của đại sứ nhằm khẳng định niềm tin vào sức mạnh của khoa học và nghiên cứu trong việc cung cấp thông tin, tư vấn và đề xuất các chính sách phát triển nông nghiệp. Bà cũng nhấn mạnh nhiệm vụ của chính phủ trong việc hỗ trợ các nghiên cứu như vậy. “Chính sách tốt phải bắt nguồn từ cơ sở khoa học vững chắc”, bà nói.

Đại sứ Camila đánh giá cao nhiệt huyết và tinh thần nghiên cứu khoa học của cán bộ CIAT. Ảnh: Linh Linh.

Đại sứ Camila đánh giá cao nhiệt huyết và tinh thần nghiên cứu khoa học của cán bộ CIAT. Ảnh: Linh Linh.

Báo cáo đại sứ, TS Ricardo Hernandez, Trưởng đại diện CIAT tại Việt Nam thông tin, thời gian qua liên minh đã phối hợp với hàng trăm đối tác, nhằm giúp các quốc gia đang phát triển canh tác nông nghiệp một cách cạnh tranh, có lợi nhuận và tăng khả năng phục hồi thông qua quản lý tài nguyên thiên nhiên một cách thông minh, bền vững.

Từ khi chuyển văn phòng khu vực châu Á từ Lào sang Việt Nam vào năm 2010, CIAT đã cung cấp nhiều giải pháp chuyển đổi hệ thống nông nghiệp và LTTP, cũng như giải quyết các vấn đề ở vùng giao thoa giữa nông nghiệp, môi trường và dinh dưỡng.

Để hưởng ứng Kế hoạch hành động quốc gia chuyển đổi hệ thống LTTP minh bạch, trách nhiệm và bền vững của Việt Nam tại Quyết định số 300/2023/QĐ-TTg (NAP-FST), các sáng kiến của CIAT, thông qua sự hợp tác chặt chẽ với các đối tác quốc gia, tập trung vào nghiên cứu liên quan đến môi trường LTTP toàn diện, chế độ ăn uống lành mạnh bền vững và chính sách và quản trị hệ thống LTTP.

Các sáng kiến này giúp hỗ trợ kỹ thuật về chính sách hệ thống LTTP, cải thiện thể chế và phát triển năng lực, thúc đẩy sự hợp tác và tăng cường nỗ lực ở cả cấp quốc gia và địa phương để thực hiện hiệu quả NAP-FST. CIAT được Bộ Nông nghiệp và Môi trường ghi nhận vì những đóng góp của mình vào quá trình chuyển đổi hệ thống LTTP tại Việt Nam.

TS Ricardo Hernandez trình bày những nội dung nghiên cứu chính của CIAT. Ảnh: Bảo Thắng.

TS Ricardo Hernandez trình bày những nội dung nghiên cứu chính của CIAT. Ảnh: Bảo Thắng.

CIAT đề cao khả năng tiếp cận LTTP an toàn và bổ dưỡng cho người tiêu dùng bằng cách phân tích các yếu tố tác động an ninh LTTP và dinh dưỡng theo chiều ngang từ nông thôn đến thành thị. Liên minh cũng liên tục nghiên cứu, cung cấp nhiều loại cây trồng, vật nuôi có giá trị cao thông qua giám sát dịch hại, nghiên cứu các thức ăn chăn nuôi cải tiến, vật liệu trồng trọt sạch. Bên cạnh đó, nhấn mạnh vào công cuộc tái tạo đất thông qua tìm hiểu hệ vi sinh vật và theo dõi tình trạng phá rừng do các hoạt động nông nghiệp gây ra.

“Chúng tôi hỗ trợ nông dân và địa phương tuân thủ các tiêu chuẩn toàn cầu và đảm bảo chuỗi cung ứng nông lâm kết hợp không phá rừng ở các đồn điền sắn và cà phê, cùng nhiều loại hình khác”, TS Ricardo chia sẻ.

Năm 2024, CIAT nhận bằng khen của Chính phủ sau khi các khuyến cáo về khí hậu được đưa trong Bản tin Thời tiết nông vụ đã hỗ trợ hơn 277.000 nông dân, giúp các bên liên quan thực hiện nhiều biện pháp canh tác thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm thiểu rủi ro ở ĐBSCL.

Tầm nhìn trong 10 năm tới, CIAT sẽ mở rộng quy mô và thực hiện những đổi mới giúp hệ thống nông nghiệp, thực phẩm của khu vực Đông Nam Á có khả năng chống chịu tốt hơn với biến đổi khí hậu, đồng thời mang lại sinh kế cho những người sản xuất LTTP và các bên liên quan trong chuỗi giá trị.

Liên minh cũng dành sự quan tâm cho việc nghiên cứu những giải pháp cung cấp thực phẩm giá cả phải chăng, bổ dưỡng và lành mạnh hơn cho người tiêu dùng, góp phần gìn giữ môi trường tự nhiên.

Đại sứ Camila mong muốn được học hỏi những kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của Việt Nam. Ảnh: Bảo Thắng.

Đại sứ Camila mong muốn được học hỏi những kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của Việt Nam. Ảnh: Bảo Thắng.

Tìm kiếm cơ hội hợp tác trong lúa gạo và hạt điều

Sau khi nghe các nhóm nghiên cứu về chuyển đổi hệ thống LTTP, ứng phó với biến đổi khí hậu… trình bày, Đại sứ Camila cho rằng, những nội dung này rất hữu ích với Colombia, nhất là trong bối cảnh quốc gia có diện tích hơn 1,1 triệu km2 đang đẩy mạnh chuyển đổi số, sử dụng các công cụ số, trí tuệ nhân tạo để phát triển nông nghiệp bền vững.

Colombia là một trong những nước sản xuất cà phê Arabica lớn nhất thế giới, nổi tiếng với chất lượng cao, hương vị đặc trưng. Ngoài ra, nước này còn thuộc nhóm dẫn đầu trong xuất khẩu chuối, dầu cọ và một số nông sản khác như mía đường, ca cao.

Tương tự một số quốc gia đang phát triển, nền nông nghiệp Colombia đang gặp nhiều thách thức đến từ biến đổi khí hậu, xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng và đầu tư vào cơ giới hóa, công nghệ chế biến của quốc gia Nam Mỹ chưa phát triển tương xứng, đáp ứng đủ nhu01 cầu sản xuất của người dân. Chi phí vận chuyển, logistics tại Colombia còn tương đối cao, hạn chế sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Thời gian tới, Colombia định hướng phát triển mạnh nông nghiệp hữu cơ, nhất là việc xây dựng nhiều mô hình trồng cà phê hữu cơ. Nước này cũng đặc biệt quan tâm đến công cuộc chống nạn phá rừng, tăng cường an ninh lương thực và bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học.

Từ thời điểm nhậm chức vào đầu năm 2025, Đại sứ Camila ấn tượng với nông nghiệp Việt Nam và coi đây là nguồn cảm hứng quý giá, nhất là trong công cuộc phát triển sản xuất lúa gạo. “Ngành lúa gạo Colombia từng là một phần quan trọng của nền kinh tế, nhưng đang phải vật lộn do sự cạnh tranh bên ngoài và tình trạng kém hiệu quả bên trong”, bà bày tỏ.

Bản tin Thời tiết nông vụ, một sản phẩm do CIAT phối hợp thực hiện, đã lan tỏa mạnh mẽ tại khu vực ĐBSCL. Ảnh: Linh Linh.

Bản tin Thời tiết nông vụ, một sản phẩm do CIAT phối hợp thực hiện, đã lan tỏa mạnh mẽ tại khu vực ĐBSCL. Ảnh: Linh Linh.

Chính phủ Colombia kỳ vọng hồi sinh ngành hàng này và Đại sứ quán tại Việt Nam mong muốn được học hỏi những kinh nghiệm, kỹ thuật tiên tiến của Việt Nam để đưa ra phương pháp tiếp cận phù hợp với bối cảnh thực tế của quốc gia có rừng Amazon.

Một lĩnh vực khác cũng được quan tâm là phát triển nghề trồng điều. Colombia có khí hậu tương đối phù hợp với nông sản được xem là thế mạnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Thông qua sự giúp đỡ, trao đổi giữa hai bên, đại sứ hy vọng Colombia có thể tìm ra những khu vực phù hợp để thử nghiệm mặt hàng có giá trị toàn cầu được dự báo 8 tỷ USD trong năm 2025.

Qua các buổi làm việc, Đại sứ Camila nhận thấy nhiều điểm tương đồng giữa Colombia và Việt Nam, cả về thách thức, cơ hội và tiềm năng cho các quan hệ đối tác mới, đặc biệt là giữa các viện nghiên cứu, chính phủ, các trường đại học và khu vực tư nhân. Bà lưu ý, rằng sự phát triển của ngành nông nghiệp, thực phẩm phụ thuộc rất nhiều vào sự tham gia của khu vực tư nhân.

Với riêng CIAT, bà tái khẳng định sự ủng hộ với các sáng kiến ​​đổi mới giúp chuyển đổi hệ thống LTTP bền vững, xem đây là một trụ cột quan trọng trong việc tái cơ cấu nền sản xuất nông nghiệp của quốc gia.

Theo nongnghiep.vn

Bình dân hóa loại nấm quý để chữa bệnh cho nhiều người

 

Đông trùng hạ thảo được cho là có tác dụng nhất định với bệnh nhân tiểu đường, mắc bệnh tim mạch hay ung thư, nhưng hiện giá thành sản xuất còn tương đối cao.

Hội đồng khoa học phản biện về đề tài nghiên cứu sản xuất đông trùng hạ thảo. Ảnh: Bảo Thắng.

Hội đồng khoa học phản biện về đề tài nghiên cứu sản xuất đông trùng hạ thảo. Ảnh: Bảo Thắng.

Từ lâu, đông trùng hạ thảo đã được biết đến là một dược liệu quý, có tác dụng bồi bổ cơ thể, tráng dương, tăng cường miễn dịch và một số công dụng khác. 

Một trong những đặc tác dụng đáng chú ý nhất của loại nấm này là hoạt tính kháng ung thư, được ghi nhận trên nhiều dòng tế bào ung thư phổi, vú, gan, da… và trên chuột. Các thành phần hoạt tính sinh học có tác động chống ung thư chủ yếu từ polysaccharide, sterol, adenosine và đặc biệt cordycepin.

TS Xuanwei Zhou, Trung tâm nghiên cứu công nghệ sinh học thực vật, Khoa Nông nghiệp và Sinh học, Đại học Giao thông Thượng Hải chỉ ra 6 cơ chế kháng ung thư của đông trùng hạ thảo.

Đó là: (i) tăng cường chức năng của hệ thống miễn dịch và miễn dịch tự nhiên; (ii) ức chế có chọn lọc tổng hợp RNA, từ đó ảnh hưởng tới tổng hợp protein; (iii) hoạt động chống oxy hóa và chống các gốc tự do; (iv) chống đột biến; (v) làm nhiễu quá trình sao chép của virus cảm ứng khối u; (vi) cảm ứng methyl hóa nucleic acid.

Tuy nhiên, đông trùng hạ thảo chưa được công nhận là thuốc do mắc phải những rào cản tương tự nhiều polysaccharide khác như, cấu trúc phức tạp dẫn đến hoạt tính và chuyển hóa phức tạp, không ổn định; cơ chế kháng ung thư chưa rõ ràng. Polysaccharide cũng tương đối khó tan, khiến cho cấu trúc của chất này trở nên phức tạp hơn.

Tại Việt Nam, người dân tiếp xúc với đông trùng hạ thảo còn hạn chế, một phần nguyên nhân nằm ở giá bán. Một sản phẩm hoàn chỉnh có thể lên tới vài, thậm chí chục triệu đồng. Ngược lại, một số mặt hàng khác có giá rẻ hơn, khiến người tiêu dùng băn khoăn khi chọn lựa.

Ông Phạm Đình Nam, Viện trưởng Vitad-Agri, nêu quan điểm ủng hộ dự án. Ảnh: Bảo Thắng.

Ông Phạm Đình Nam, Viện trưởng Vitad-Agri, nêu quan điểm ủng hộ dự án. Ảnh: Bảo Thắng.

Làm thế nào để ngày càng nhiều người Việt Nam được sử dụng đông trùng hạ thảo là mục tiêu được Hội đồng khoa học do PGS.TS Trần Mạnh Trí, Chủ tịch hội đồng, Trưởng bộ môn Hóa học hữu cơ, Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội đặt ra.

Theo ông Trí, thế giới hiện có 2 chủng đông trùng hạ thảo chính, đó là Cordyceps militaris – sử dụng tương tự 1 loại nấm dược liệu, và thường được sản xuất, chế biến; Cordyceps sinensis – có giá thành cao, phân bố rất hạn chế trong tự nhiên (chủ yếu ở khu vực Tây Tạng) và hiện chưa được nuôi thành công trong môi trường nhân tạo.

Những sản phẩm được bán ngoài thị trường hiện nay đa số là Cordyceps militaris.

Về bản chất, đông trùng hạ thảo là một loại nấm sống ký sinh, phát triển trên ấu trùng của sâu bướm. Mùa đông, khi các ấu trùng sâu bướm vùi mình vào lớp đất để ngủ đông (đông trùng) tạo cơ hội cho loài nấm Cordyceps sinensis xâm nhập và ký sinh.

Đến mùa hè, loài nấm này sẽ phát triển mạnh mẽ, hút hết các chất dinh dưỡng bên trong ấu trùng và vươn dài cơ thể giống với hình dáng các loài thực vật (hạ thảo).

Là đơn vị thường tổ chức tour du lịch sang Trung Quốc, Công ty CP Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam cho biết, nhu cầu về đông trùng hạ thảo rất lớn. Hầu hết, người Việt Nam khi tham quan các điểm du lịch đều hỏi, hoặc sẵn sàng mua sản phẩm này nếu được đảm bảo về dinh dưỡng, nguồn gốc xuất xứ.

Đơn vị mong muốn hợp tác với các nhà khoa học, chuyên gia nông nghiệp để hoàn thiện quy trình sản xuất các sản phẩm từ đông trùng hạ thảo, đồng thời tạo ra chuỗi giá trị khép kín từ sản xuất đến chế biến, quản lý chất lượng và thương mại hóa các sản phẩm từ nấm đông trùng hạ thảo thông qua các hoạt động quảng bá, giới thiệu, tiếp cận người dùng từ dịch vụ lữ hành.

Đông trùng hạ thảo là vị thuốc đông y quý, có nhiều tác dụng. Ảnh: Bảo Thắng.

Đông trùng hạ thảo là vị thuốc đông y quý, có nhiều tác dụng. Ảnh: Bảo Thắng.

Ủng hộ quan điểm “bình dân hóa” đông trùng hạ thảo cho nhiều người có thể sử dụng, ông Phạm Đình Nam, Viện trưởng Viện Ứng dụng công nghệ và Phát triển nông nghiệp Việt Nam (Vitad-Agri), nhận xét, đây là hướng đi tiềm năng. Ông lưu ý thêm, rằng nếu sản xuất thương mại cần chú trọng việc đăng ký bản quyền tác giả, đăng ký thương hiệu, sau đó bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa và kiểu dáng công nghệ.

Hiện một số người dân chưa biết, rằng phần ngọn đông trùng hạ thảo có hình thái đẹp, nhưng chất dinh dưỡng chủ yếu lại nằm ở phần đế. Các tác dụng chữa bệnh tiểu đường, tim mạch hay thậm chí là ung thư xuất phát từ đây.

Nhiều nghiên cứu chuyên sâu trên thế giới cũng chỉ rõ, chiết xuất từ đông trùng hạ thảo có tác dụng giảm đường huyết bằng cách thúc đẩy sự chuyển hóa glucose, giảm nồng độ cholesterol toàn phần và chất béo trung tính trong huyết thanh nhờ đó làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch…

Trên cơ sở đó, lãnh đạo Vitad-Agri đề nghị đối tác có thể hợp tác với người dân, liên kết chặt chẽ và đảm bảo chất lượng từ ngay vùng nguyên liệu. Cùng với đó, nghiên cứu thêm khả năng phát triển sản phẩm hữu cơ. 

“Sản xuất đông trùng hạ thảo bằng phương pháp hữu cơ có nhiều lợi ích với sức khỏe, nhưng hiện còn ít sản phẩm có thể đảm bảo việc này”, ông Nam chia sẻ, và nhấn mạnh rằng, Chính phủ và các bộ, ngành rất quan tâm, thúc đẩy sản xuất sản phẩm hữu cơ, nhất là với những sản phẩm tốt cho sức khỏe như đông trùng hạ thảo.

PGS.TS Trần Mạnh Trí, Chủ tịch hội đồng ủng hộ ý tưởng về việc sản xuất sản phẩm tốt cho sức khỏe, đồng thời cam kết đồng hành với đơn vị thực hiện trong khâu tư vấn chứng chỉ chất lượng, công nghệ chế tạo và xây dựng thương hiệu.

Theo nongnghiep.vn

Công nghệ và chuyển đổi số nông nghiệp chưa bùng nổ

Để ứng dụng nhanh công nghệ, chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp cần nâng cao nhận thức, kỹ năng sử dụng cho nông dân, hợp tác xã.

Minh bạch hóa sản xuất và quản lý

Trong bối cảnh sản xuất nông nghiệp ngày càng chịu áp lực về chi phí và năng suất, việc ứng dụng công nghệ là giải pháp mang tính chiến lược.

Bà Đào Thị Như Hè, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Sài Gòn Kim Hồng khẳng định, nông nghiệp hiện đại không thể thiếu vai trò của máy móc và tự động hóa.

Một trong những công nghệ nổi bật đang được triển khai trong sản xuất lúa hiện nay là sạ cụm, giúp giảm đáng kể lượng giống. Theo phương pháp truyền thống, nông dân thường gieo từ 120 – 200kg giống/ha. Tuy nhiên với sạ cụm, lượng giống chỉ còn khoảng 50 – 60kg/ha. Điều này không chỉ giúp tiết kiệm chi phí mà còn giúp cây lúa sinh trưởng tốt hơn, giảm tình trạng đổ ngã và hạn chế thất thoát sau thu hoạch.

Sạ cụm - phương pháp ứng dụng cơ giới hóa đang được đánh giá cao trong sản xuất lúa ở ĐBSCL. Ảnh: Kim Anh.

Sạ cụm – phương pháp ứng dụng cơ giới hóa đang được đánh giá cao trong sản xuất lúa ở ĐBSCL. Ảnh: Kim Anh.

Ngoài việc giảm chi phí, công nghệ này cũng giúp tiết kiệm khoảng 30% lượng phân bón so với phương pháp gieo sạ truyền thống. Khi lượng phân bón giảm, số lần phun thuốc trừ sâu cũng giảm từ 2 – 3 lần/vụ do cây lúa khỏe và ít sâu bệnh tấn công hơn. Sạ cụm đã giúp giảm 20 – 30% chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận cho nông dân.

Bên cạnh sạ cụm, ứng dụng máy bay không người lái trong nông nghiệp (drone) cũng được đánh giá giúp nông dân tiết kiệm đáng kể thời gian và công sức. Nếu như trước đây, việc phun thuốc bảo vệ thực vật chủ yếu dựa vào lao động thủ công với năng suất tối đa chỉ khoảng 1ha/người/ngày thì drone có thể xử lý diện tích lên đến vài chục ha mỗi ngày. Đặc biệt, bà con nông dân hạn chế tiếp xúc trực tiếp với hóa chất độc hại.

Để mở rộng việc ứng dụng drone trong nông nghiệp, bà Hè đề xuất mô hình liên kết giữa các đơn vị cung cấp dịch vụ.

“Thay vì từng nông dân đầu tư drone riêng lẻ với chi phí cao từ 400 – 500 triệu đồng/máy, ngành nông nghiệp các địa phương cần thành lập trung tâm điều phối để tối ưu hóa thiết bị, đảm bảo vùng nào cần sẽ có drone hoạt động ngay”, bà Hè nhấn mạnh.

Công ty Sorimachi Việt Nam hiện đang xây dựng và triển khai nhiều phần mềm phục vụ sản xuất nông nghiệp. Có thể kể đến như phần mềm kế toán HTX (WaCa), phần mềm nhật ký sản xuất (Facefarm)…

Những ứng dụng này cho phép nông dân, HTX lập kế hoạch sản xuất, truy xuất nguồn gốc sản phẩm bằng mã QR; quản lý, hỗ trợ, giám sát vùng trồng lúa bằng bản đồ; đối chiếu doanh thu, lợi nhuận giữa các HTX với nhau; quản lý tín dụng nội bộ, lập báo cáo tài chính…

Ông Nguyễn Thanh Mộng – Giám đốc Phát triển thị trường của Công ty Sorimachi Việt Nam chia sẻ, việc ứng dụng công nghệ số sẽ giúp các cơ quan quản lý nhà nước có cái nhìn tổng thể, minh bạch thông tin trong quản lý hoạt động sản xuất nông nghiệp. Khi dữ liệu được đồng bộ trên nền tảng số, cơ quan quản lý có thể nhanh chóng xác định tình hình tài chính của các HTX, năng suất cây trồng theo từng vùng, từ đó có chính sách hỗ trợ kịp thời.

Tại HTX nông nghiệp tổng hợp Ba Đình (tỉnh Bạc Liêu), ông Nông Văn Trạch, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc HTX cho biết, trước đây do năng lực tiếp cận công nghệ của HTX còn hạn chế nên gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý sản xuất và ghi chép nhật ký canh tác khi tham gia Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao.

Sau khi được tiếp cận hai phần mềm Facefarm và WaCa từ năm 2022 đến nay, HTX được tập huấn tham gia 12 cuộc tập huấn. Thông qua nền tảng công nghệ, các thành viên dễ dàng theo dõi và kiểm soát chi phí sản xuất, đảm bảo lợi nhuận. Nhất là có cơ hội tiếp cận với nhiều đối tác hơn để mở rộng đầu ra.

Rào cản trong kết nối, chia sẻ dữ liệu

Mặc dù lợi ích của công nghệ và chuyển đổi số đã được chứng minh nhưng khi mở rộng để ứng dụng vào thực tế lại gặp nhiều thách thức.

Một trong những vấn đề lớn nhất được ông Nguyễn Thanh Mộng chỉ ra là khó khăn trong việc kết nối và chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan quản lý và đơn vị cung cấp giải pháp công nghệ.

Lợi ích của công nghệ và chuyển đổi số đã được chứng minh, nhưng việc mở rộng trong thực tế lại gặp nhiều thách thức. Ảnh: Kim Anh.

Lợi ích của công nghệ và chuyển đổi số đã được chứng minh, nhưng việc mở rộng trong thực tế lại gặp nhiều thách thức. Ảnh: Kim Anh.

Điển hình, nhiều thông tin quan trọng như mã số vùng trồng hiện vẫn do Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) quản lý nội bộ khiến các doanh nghiệp công nghệ không thể khai thác hiệu quả.

Ông Mộng nhấn mạnh, nếu không có sự kết nối giữa nền tảng số của doanh nghiệp công nghệ với dữ liệu của Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật thì việc truy xuất nguồn gốc vẫn là rào cản lớn. Tương tự, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cũng cần mở cổng dữ liệu về thuốc bảo vệ thực vật để nông dân có thể tra cứu nhanh chóng danh mục thuốc được phép sử dụng theo từng thị trường xuất khẩu.

Bên cạnh vấn đề dữ liệu, nhận thức và năng lực sử dụng công nghệ của nông dân và cán bộ quản lý cũng là một thách thức. Hiện nay, nhiều HTX vẫn chưa quen với các phần mềm quản lý số, trong khi một số cán bộ địa phương chưa đủ kỹ năng để hướng dẫn nông dân triển khai công nghệ mới.

Để giải quyết các thách thức trên, việc đào tạo và nâng cao năng lực cho nông dân và HTX là điều cần thiết.

Ông Lê Đức Thịnh – Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ tiếp tục tổ chức các chương trình tập huấn. Qua đây, bà con nông dân có thể làm quen với công nghệ và khai thác hiệu quả các công cụ chuyển đổi số.

Thực tế, Công ty Sorimachi Việt Nam đã triển khai dự án thí điểm chuyển đổi số, chuyển đổi xanh nông nghiệp. Dự án nhằm mục tiêu hướng dẫn cho nông dân, HTX sử dụng hiệu quả phần mềm Waca và Facefarm, hỗ trợ canh tác giảm phát thải khí nhà kính khi tham gia vào Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao.

Ứng dụng công nghệ là giải pháp quan trọng để triển khai thành công Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao. Ảnh: Kim Anh.

Ứng dụng công nghệ là giải pháp quan trọng để triển khai thành công Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao. Ảnh: Kim Anh.

Đến nay, dự án đã đào tạo được 70 cán bộ ToT cho 12 tỉnh, thành tham gia Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao và dự kiến mở rộng tập huấn trực tuyến cho đội ngũ cán bộ ToT ở 51 tỉnh còn lại trên cả nước; xây dựng 30 HTX điển hình thực hiện chuyển đổi số, chuyển đổi xanh nông nghiệp.

Đặc biệt, cách làm này đã thay đổi nhận thức của cán bộ địa phương và HTX trong việc ứng dụng các phần mềm. Hiện đã có hơn 7.000 đơn vị có tài khoản sử dụng 2 phần mềm Waca và Facefarm; hơn 600 HTX, đơn vị đã chủ động đầu tư kinh phí trang bị phần mềm để sử dụng và 15 sở nông nghiệp và môi trường đã đưa vào kế hoạch bố trí kinh phí để trang bị các phần mềm này để hỗ trợ cho các HTX trên địa bàn.

Công nghệ và chuyển đổi số đang trở thành chìa khóa cho sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp. Những tiến bộ này giúp nông dân và doanh nghiệp thích ứng tốt hơn với yêu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, để đạt được kết quả tối ưu, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên, từ doanh nghiệp cung cấp giải pháp, cơ quan quản lý đến chính những người trực tiếp sản xuất. 

Theo nongnghiep.vn

“Có cơ chế chấp nhận rủi ro, nhà khoa học sẵn sàng dấn thân”

GS.TS Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam cho rằng nhà khoa học sẽ vượt qua các e ngại, sẵn sàng thực hiện những nghiên cứu chưa từng có khi có cơ chế chấp nhận rủi ro.

Một ngày sau khi Quốc hội thông qua Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù, các nhà khoa học bày tỏ sự tin tưởng, tiếp thêm niềm tin, theo đuổi đam mê nghiên cứu, đổi mới sáng tạo.

GS Lan chia sẻ, các nhà khoa học từng e ngại khi dấn thân vào những nghiên cứu mới tạo nền tảng cho sự sáng tạo và phát triển bởi vấn đề rủi ro trong nghiên cứu khoa học. Bà cho biết, khi dịch tả lợn châu Phi xuất hiện, các nhà khoa học của Học viện Nông nghiệp Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn, do đây là bệnh chưa từng có. Trong quá trình nghiên cứu bệnh này, có khi thu được kết quả, nhưng cũng có lúc không đạt được kỳ vọng ban đầu. Nếu thất bại, họ không được thanh toán các chi phí đã sử dụng cho hóa chất, vật nghiên cứu và đối mặt với áp lực hoàn trả chi phí.

“Điều này không chỉ gây bất lợi mà còn khiến nhà khoa học e ngại khi theo đuổi các vấn đề mới và khó, ảnh hưởng đến động lực nghiên cứu của họ”, GS Lan nói với VnExpress.

GS.TS Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam (thứ hai từ trái qua) hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học. Ảnh: HVNNVNGS.TS Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam (thứ hai từ trái qua) hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học. Ảnh: HVNNVN

Bên cạnh đó, nhiều nhà khoa học Việt Nam còn mắc kẹt trong các thủ tục hành chính khi triển khai nghiên cứu, làm giảm động lực sáng tạo. Việc mua hóa chất, vật liệu phục vụ thí nghiệm vẫn bị ràng buộc bởi quy trình đấu thầu, ngay cả khi các sản phẩm này không thể mua theo quy trình thông thường. Có thể kể đến việc thuê động vật, đất trồng, ao nuôi hay mua phụ phẩm nông nghiệp để triển khai các hoạt động thí nghiệm, thử nghiệm. Những dịch vụ này không thể đăng ký đấu thầu trên hệ thống quốc gia.

Ngoài ra việc khoán chi đến sản phẩm cuối cùng khó thực hiện nhưng hồ sơ triển khai nhiệm vụ vẫn phải đấu thầu, thanh toán như khoán từng phần. Điều này cũng làm cho các nhà khoa học có tâm lý ngại nghiên cứu.

Theo bà Lan để thúc đẩy nghiên cứu khoa học, đặc biệt là những nghiên cứu mang tính tiên phong, cần có chính sách hỗ trợ phù hợp. Các nhà khoa học cần được tạo điều kiện để chấp nhận rủi ro mà không phải lo lắng về hậu quả tài chính. Điều này không chỉ giúp họ tự tin hơn trong việc theo đuổi các ý tưởng mới mà còn góp phần tạo nên những đột phá khoa học, mang lại lợi ích cho toàn xã hội.

Nghị quyết được Quốc hội thông qua sẽ giúp tổ chức, cá nhân hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được miễn trách nhiệm dân sự khi gây ra thiệt hại cho Nhà nước nếu đã thực hiện đầy đủ các quy trình, quy định. Đồng thời, nếu nghiên cứu không đạt được kết quả như dự kiến nhưng đã thực hiện đúng quy trình, tổ chức chủ trì không phải hoàn trả kinh phí.

Nghị quyết cũng xác định ngân sách nhà nước khoán chi cho nhiệm vụ khoa học và công nghệ, trừ các khoản mua sắm tài sản, thuê dịch vụ bên ngoài và công tác nước ngoài. Khoán chi đến sản phẩm cuối cùng được áp dụng khi tổ chức chủ trì cam kết chỉ tiêu chất lượng chủ yếu cần đạt được.

Bên cạnh đó Nghị quyết cũng trao quyền tự chủ cho các tổ chức chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ được tự chủ, tự chịu trách nhiệm quyết định việc sử dụng kinh phí khoán; được điều chỉnh các nội dung chi; được quyết định việc sử dụng kinh phí từ công lao động để thuê chuyên gia trong và ngoài nước theo mức kinh phí thỏa thuận. Tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ chịu trách nhiệm đảm bảo việc sử dụng kinh phí đúng mục đích, hiệu quả, tiết kiệm; bảo đảm đầy đủ hóa đơn, chứng từ và chịu trách nhiệm giải trình khi cơ quan chức năng yêu cầu.

GS Lan cho biết, khi Nghị quyết được triển khai, các nhà nghiên cứu sẽ có quyền chủ động điều chỉnh nội dung, phương pháp nghiên cứu miễn là vẫn đạt được mục tiêu cuối cùng. Đây là bước tiến quan trọng giúp khoa học công nghệ phát triển linh hoạt hơn và có nhiều nghiên cứu tiên phong.

Cơ hội phát triển công nghệ nguồn

Theo GS.TS Nguyễn Cửu Khoa, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Vật liệu Ứng dụng (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam), có cơ chế chấp nhận rủi ro, độ trễ trong nghiên cứu sẽ giúp thúc đẩy nhà khoa học phát triển các công nghệ nguồn. Đây chính là việc tạo ra các công nghệ lõi, công nghệ mới, do người Việt Nam làm chủ hoàn toàn, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong nước.

GS Khoa cho rằng, các công nghệ nguồn thường các nước phát triển giữ bí mật, rất ít khi chuyển giao hoặc bán ra bên ngoài để đảm bảo phát triển khoa học công nghệ của họ. Do đó, Việt Nam cần phát triển nội lực khoa học công nghệ quốc gia.

Ông cho biết, trước đây với một đề tài nghiên cứu phải có khả năng thành công cao hơn 80% mới có thể được triển khai do thường là các công nghệ đã có sẵn hoặc có tính đột biến không cao. Còn các định hướng phát triển công nghệ nguồn, Hội đồng khoa học sẽ rất khó khăn trong đánh giá thực hiện hay không thực hiện do tính rủi ro cao. Tuy nhiên với, “Nghị quyết 57 và Nghị quyết mới được Quốc hội thông qua, hội đồng khoa học sẽ có cơ sở để quyết đoán hơn trong việc đánh giá các đề tài nghiên cứu công nghệ nguồn”, ông Khoa nói.

PGS.TS Nguyễn Ngọc Lâm, Hội Tự động hóa TP HCM đề xuất những công nghệ nguồn liên quan đến đường sắt tốc độ cao, mạng viễn thông nội địa bảo mật cao, chip bán dẫn, tạo giống cây trồng mới… Việt Nam cần làm chủ.

Theo ông Lâm, những nghiên cứu này có thể không đạt được kết quả cuối cùng nhưng có thể tạo ra một số nền tảng cơ sở để phát triển, có sản phẩm cục bộ, có các công trình công bố, xây dựng được phòng thí nghiệm và đội ngũ chuyên gia giỏi. Các nghiên cứu này có các ứng dụng nhánh và kể cả có kết quả âm vẫn có thể xem xét thuộc yếu tố rủi ro và được miễn trừ trách nhiệm.

Nghiên cứu lĩnh vực vi mạch bán dẫn tại Trung tâm nghiên cứu triển khai, Khu công nghệ cao TP HCM năm 2024. Ảnh: Quỳnh Trần

Nghiên cứu lĩnh vực vi mạch bán dẫn tại Trung tâm nghiên cứu triển khai, Khu côngnghệ cao TP HCM năm 2024. Ảnh: Quỳnh Trần

Ông cho rằng, việc đánh giá một dự án có dự báo rủi ro và các phương án giải quyết cần có một hội đồng đủ tầm nhìn, kinh nghiệm tham gia thẩm định cũng như giám sát quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Theo PGS Lâm, hội đồng cần có ít nhất ba chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực chuyên ngành của nhiệm vụ. Việc chọn chuyên gia cần dựa trên lý lịch khoa học theo tiêu chí người có tầm nhìn, kinh nghiệm và đang thực hiện các nghiên cứu thuộc lĩnh vực này trong năm năm gần đây. Ngoài ra, các thành viên khác của hội đồng là đại diện của những lĩnh vực liên quan. Đối với những dự án lớn (từ 15-20 tỷ đồng trở lên), số chuyên gia chuyên ngành nên được tăng cường tới năm người. Cơ quan thành lập hội đồng thẩm định phải chịu trách nhiệm về tính phù hợp của hội đồng. Khi làm được những việc này, PGS Lâm tin tưởng nhà khoa học sẽ tự tin và tập trung nghiên cứu hiệu quả mà không quan tâm nhiều các vấn đề khác.

Nhật Minh – Hà An

Theo vnexpress.net

Tăng cường Xúc tiến kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và thành phố Cảng Phòng Thành (Trung Quốc)

Hội nghị Xúc tiến kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và thành phố Cảng Phòng Thành (tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc) đã mở ra cơ hội hợp tác giữa các doanh nghiệp hai bên.

Ông Phạm Đình Nam (phải), Viện trưởng Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam (Vitad-Agri) phát biểu khai mạc hội nghị

Sáng 10/11 tại Hà Nội đã diễn Hội nghị Xúc tiến kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và thành phố Cảng Phòng Thành (tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc).

Chủ trì hội nghị là ông Phạm Đình Nam, Viện trưởng Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam (Vitad-Agri); ông Vũ Anh Tuấn, Phó Cục trưởng Cục thông tin khoa học và công nghệ quốc gia (Bộ KH&CN); TS Nguyễn Thế Hùng, Giám đốc Trung tâm giao dịch thông tin, công nghệ và thiết bị – Cục thông tin tin khoa học và công nghệ quốc gia (Bộ KH&CN).

Tham dự cuộc họp còn có đại diện của 1 số doanh nghiệp, đơn vị Việt Nam như: Công ty CP HD Kinh Bắc (Bắc Ninh); Công ty CP dinh dưỡng Hải Thịnh (thuộc Hiệp hội chăn nuôi tỉnh Thái Nguyên); Công ty TNHH thương mại dịch vụ Trung Nhân Group (Cần Thơ); Tập đoàn Global Genius Network (Hải Phòng), Hội nông dân tỉnh Kiên Giang.

Tham dự hội nghị trực tuyến có: TS Ngô Văn Nam, Phó Giám đốc văn phòng SPS Việt Nam (Bộ NN&PTNT); ông Vũ Đức Côn, Chủ tịch Hiệp hội sầu riêng tỉnh Đắk Lắk; ông Phạm Quang Phúc, Chủ tịch Hội Chăn nuôi – Thú y tỉnh Thái Nguyên.

Về phía Trung Quốc trưởng đoàn là ông Chiêm Đức Phúc, Phó Chủ tịch Uỷ ban Xúc tiến thương mại thành phố Cảng Phòng Thành, Phó Chủ tịch Phòng thương mại quốc tế thành phố Cảng Phòng Thành; bà Trần Chí Quỳnh, TTK Phòng thương mại quốc tế thành phố Cảng Phòng Thành; ông Tô Nhật Hảo, TTK Liên hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Quảng Tây tại Việt Nam trực thuộc Hiệp hội doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam, Phó Chủ tịch TTK Phòng thương mại quốc tế thành phố Cảng Phòng Thành; và đại diện của các doanh nghiệp phía bạn.

Sau phần phát biểu khai mạc Hội nghị của ông Phạm Đình Nam về mục đích tăng cường xúc tiến kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và thành phố Cảng Phòng Thành, ông Chiêm Đức Phúc đại diện cho phía bạn cũng bày tỏ mong muốn hợp tác giữa 2 bên.

Ông Chiêm Đức Phúc (giữa), Phó Chủ tịch Uỷ ban Xúc tiến thương mại thành phố Cảng Phòng Thành, Phó Chủ tịch Phòng thương mại quốc tế thành phố Cảng Phòng Thành đại diện cho phía bạn phát biểu

Ông Chiêm Đức Phúc cho biết, Cảng Phòng Thành là thành phố mới được thành lập 30 năm và có bến cảng được xây dựng 16 năm. Cảng Phòng Thành muốn hợp tác với các doanh nghiệp, đơn vị của Việt Nam trong 5 lĩnh vực chính gồm:  Y tế – Chế tạo tiên tiến – Sản phẩm bảo vệ sức khoẻ từ nông sản – Tài nguyên biển – Logictis.

Hiệp hội Chăn nuôi – Thú y tỉnh Thái Nguyên, Hiệp hội sầu riêng Đắk Lắk, các doanh nghiệp của Việt Nam cũng bày tỏ việc mong muốn tăng cường hợp tác để khai thác tối đa tiềm năng của các đơn vị trong từng lĩnh vực chuyên sâu, nhất là với thị trường rộng lớn như Trung Quốc nói chung và thành phố Cảng Phòng Thành nói riêng.

Các doanh nghiệp, đơn vị Việt Nam mong muốn hợp tác để khai thác thị trường rộng lớn Trung Quốc

TS Ngô Văn Nam, Phó Giám đốc văn phòng SPS Việt Nam (Bộ NN&PTNT) tham dự Hội nghị thông qua hình thức trực tuyến

Về phía bạn, Công ty Container thuộc Công ty Cảng Phòng Thành (Tập đoàn Beigang) muốn tìm hiểu nguồn hàng chính tại các cảng liên quan ở Việt Nam, tìm hiểu cung cầu và khả năng triển khai các tuyến hàng container hoặc tàu chở hàng – Công ty CP chuỗi cung ứng lạnh Xinfu (Tân Phúc) Cảng Phòng Thành mong muốn hợp tác với nhà cung cấp hải sản đông lạnh và thuỷ sản của Việt Nam.

Các DN Trung Quốc cũng rất mong muốn hợp tác với phía Việt Nam

Công ty CP dịch vụ tàu Quốc tế Chunhui (Xuân Huy) Cảng Phòng Thành mong muốn hợp tác với doanh nghiệp vận tải tàu biển của Việt Nam – Công ty CP kỹ thuật thông minh Linggui (Lĩnh Quế) mong muốn hợp tác với các doanh nghiệp Việt Nam chuyên về dây chuyền sản xuất thiết bị tự động hoá và gia công phụ tùng cơ khí.

Công ty CP Y tế Internet Akon Cảng Phòng Thành mong muốn hợp tác với doanh nghiệp y tế và bệnh viện của Việt Nam – Công ty TNHH thương mại Quốc tế Yinteng (Dận Đằng) Quảng Tây mong được hợp tác với các thương gia sầu riêng, dứa và các loại trái cây khác của Việt Nam – Công ty CP quản lý chuỗi cung ứng tập đoàn Trung Nguyên Quảng Tây hi vọng được hợp tác với các doanh  nghiệp logictics cảng, logictics chuỗi cung ứng lạnh, vận tải biển của Việt Nam.

Các đại biểu, DN Trung Quốc trao đổi với ông Vũ Anh Tuấn (áo trắng), Phó Cục trưởng Cục thông tin khoa học và công nghệ quốc gia (Bộ KH&CN) bên lề hành lang hội nghị

Ở phần kết luận hội nghị, ông Phạm Đình Nam đã đưa ra một số đề xuất để tăng cường xúc tiến thương mại giữa 2 bên gồm: tìm hiểu cơ chế, chính sách; tổ chức hội thảo; tuần lễ hàng hoá; phía bạn cử cán bộ, chuyên gia để kiểm tra năng lực, sản phẩm của phía Việt Nam; trong lĩnh vực nông nghiệp các DN Việt Nam rất mong muốn được giúp đỡ về vấn đề bảo quản sau thu hoạch; các DN Việt Nam sang thăm, học hỏi tại thành phố Cảng Phòng Thành; và phía Việt Nam có hệ thống các chuyên gia sẵn sàng hỗ trợ về nhiều mặt.

Ông Chiêm Đức Phúc, đại diện cho phía bạn đưa ra đề xuất cần có một cơ chế hợp tác thường xuyên giữa 2 bên, và có một kế hoạch hành động cụ thể.

Ông Phạm Đình Nam, Viện trưởng Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam (Vitad-Agri) tặng quà lưu niệm cho ông Chiêm Đức Phúc, Phó Chủ tịch Uỷ ban Xúc tiến thương mại thành phố Cảng Phòng, Phó Chủ tịch Phòng thương mại quốc tế thành phố Cảng Phòng Thành

Các đại biểu chụp ảnh kỷ niệm

Hà Dũng

Tạo luồng xanh thông tin cho doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc

Nhằm tránh vấn đề mù mờ thông tin với thị trường lớn Trung Quốc, một trung tâm đầu mối tin tức về TP. Thâm Quyến được thành lập để hỗ trợ doanh nghiệp.

Ông Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam phát biểu tại lễ ký kết. 

Ông Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam phát biểu tại lễ ký kết

Xuất khẩu nông lâm thủy sản sang Trung Quốc liên tục tăng thời gian qua. Theo Bộ NN-PTNT, 9 tháng đầu năm 2022, tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm mặt hàng này của Việt Nam đạt khoảng 7,4 tỷ USD, củng cố vị trí thứ nhì của Trung Quốc trong danh sách các thị trường xuất khẩu nông sản chủ lực.

Trung Quốc xem Việt Nam là cửa ngõ Đông Nam Á, là điểm đầu để phía Bạn mở cửa thị trường ASEAN. Tương tự, Việt Nam coi Trung Quốc là thị trường trọng điểm, thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn, đào tạo để doanh nghiệp trong nước thích ứng với yêu cầu của Bạn.

Đồng thuận cả về chủ trương, lẫn công tác phối hợp, nhưng việc kết nối doanh nghiệp hai nước còn gặp điểm nghẽn thông tin. Thấu hiểu điều ấy, Viện Ứng dụng công nghệ và Phát triển nông nghiệp Việt Nam phối hợp Trung tâm Xúc tiến chuyển giao công nghiệp Thâm Quyến và Công ty TNHH Đầu tư Công nghiệp Đông Đằng (Khu thương mại tự do Quảng Tây) ký thỏa thuận hợp tác chiến lược.

Cụ thể, tại Việt Nam, các đại biểu cắt băng khánh thành Trung tâm vận hành tại Việt Nam thuộc Công ty TNHH Đầu tư công nghiệp Đông Đằng. Tại Trung Quốc, đại diện Cục Thương mại TP. Khâm Châu, tỉnh Quảng Tây và Công ty khai trương “Quán thương mại Việt- Trung”. 

Hai trụ sở, tại Hà Nội và Quảng Tây, giữ vai trò đầu mối thông tin về thị trường nói chung. Doanh nghiệp hai nước, nếu có nhu cầu tìm hiểu các thông tin liên quan, có thể đến liên hệ, nhờ tư vấn, hỗ trợ.

Lễ ký được diễn ra trực tuyến từ điểm cầu Hà Nội với TP. Thâm Quyến, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.

Lễ ký được diễn ra trực tuyến từ điểm cầu Hà Nội với TP. Thâm Quyến, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc

Ông Phạm Đình Nam, Viện trưởng Viện Ứng dụng công nghệ và Phát triển nông nghiệp Việt Nam, một trong ba bên ký biên bản ghi nhớ, tin tưởng việc thành lập văn phòng hỗ trợ trực tiếp tại hai nước sẽ mở ra không gian giống như một “sàn giao dịch”, tạo “luồng xanh” để doanh nghiệp hai bên nhanh chóng có được thông tin cần thiết, đồng thời có thể tìm hiểu kỹ về nhu cầu, yêu cầu của đối tác.

“Nền nông nghiệp nước ta gặp điểm nghẽn về tình trạng mù mờ thông tin. Hy vọng với những hoạt động xúc tiến thương mại như hôm nay, chúng ta sẽ góp phần đưa sản phẩm thế mạnh của hai nước đến được nhiều hơn với người dân”, ông Nam chia sẻ.

Diện diện Bộ NN-PTNT, ông Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam đánh giá cao sự chủ động của doanh nghiệp hai nước trong việc thiết lập kênh hỗ trợ thông tin. Ông cũng cam kết, đồng hành cùng doanh nghiệp hai bên trong hoạt động minh bạch hóa thông tin, giúp mở cửa thị trường, góp phần nâng cao tình đoàn kết, hữu nghị giữa Việt Nam – Trung Quốc.

“Qua những hành động thiết thực như này, hy vọng hai bên sẽ tăng giá trị hợp tác, cả về số lượng lẫn giá trị, để cuộc sống người dân hai nước ngày một đi lên”, lãnh đạo Văn phòng SPS Việt Nam nói.

Viện trưởng Phạm Đình Nam, đại diện Viện Ứng dụng công nghệ và Phát triển nông nghiệp Việt Nam tham gia ký kết

Cùng dự lễ ký tại điểm cầu Hà Nội, ông Tô Vạn Quang, Giám đốc Công ty TNHH Dịch vụ và Đầu tư Quán thương mại Trung Việt đánh giá, Việt Nam có ưu thế về vị trí địa lý, đồng thời sở hữu tốc độ phát triển kinh tế mạnh mẽ (liên tục giữ ở ngưỡng từ 6-7% năm). Hai nước có nhiều cơ hội kinh doanh và tiềm lực hợp tác trong đầu tư và thương mại.

Giới thiệu những tiềm năng lớn của Thâm Quyến, cả về số lượng doanh nghiệp, cơ quan chính phủ, lẫn sự linh hoạt trong thể chế, chính sách, ông Tô nhận định, hợp tác sắp tới sẽ tận dụng hiệu quả Hiệp định RCEP, nâng cao hơn nữa vị thế của cửa ngõ Khâm Châu, và bổ sung lẫn nhau cho các nguồn lực  xã hội, doanh nghiệp. Như vậy sẽ thúc đẩy sự hợp tác sâu sắc về lĩnh vực đầu tư và thương mại giữa hai nhà nước.

Từ Trung Quốc, ông Trương Lập Phàm, đại diện Trung tâm xúc tiến di chuyển ngành công nghiệp Thâm Quyến đề cao tiềm năng của khu Vịnh Lớn gồm Quảng Đông – Hồng Kông – Ma Cao, với Thâm Quyến sắm vai trò như “trái tim”.

Theo ông Trương, thông qua các doanh nghiệp tại Thâm Quyến, phía Việt Nam hoàn toàn có thể tiếp thị sản phẩm, hợp tác dự án, thu hút đầu tư, hợp tác kỹ thuật, tạo tiền đề cho việc thu hút dự án quy mô cũng như thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp Việt Nam.

Nguồn: nongnghiep.vn

Đông trùng hạ thảo, món quà quý của người lữ hành

Dân gian có câu: “quý như đông trùng hạ thảo, hiếm như nhân sâm Cao Ly”, ý nói đây là hai loại dược liệu quý hiếm và đắt đỏ hàng đầu. Tuy thế Công ty CP Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam muốn biến điều “xa tận chân trời” thành “gần ngay trước mắt” với dự án “Nghiên cứu, ứng dụng và hoàn thiện quy trình sản xuất các sản phẩm đông trùng hạ thảo”.

Hội đồng khoa học tư vấn đánh giá dự án “Nghiên cứu, ứng dụng và hoàn thiện quy trình sản xuất các sản phẩm đông trùng hạ thảo”

     Dự án này được Hội đồng khoa học thẩm định, đánh giá, tư vấn và đề ra phương hướng thực hiện trong thời gian tới cho Công ty CP Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam, đầu năm 2025 tại Phòng họp 102, số 24 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Hội đồng gồm các chuyên gia khoa học công nghệ: PGS.TS Trần Mạnh Trí – Chủ tịch Hội đồng, TS Hồ Trường Giang – Phó chủ tịch Hội đồng, TS Phạm Đình Nam, TS Nguyễn Đức Thọ; các chuyên gia nông nghiệp: TS Vũ Văn Sang, TS Nguyễn Hồng Hạnh, TS Nguyễn Ngọc Dinh đều là các nhà khoa học hàng đầu Việt Nam hiện nay trên lĩnh vực khoa học công nghệ và nông nghiệp.

     Tại đây, Công ty Cổ phần Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam đã nêu mục đích và ý nghĩa của Dự án. Theo đó giới thiệu Tập đoàn là tổ chức lữ hành và chăm sóc sức khỏe hàng đầu Việt Nam, kinh doanh du lịch và ứng dụng công nghệ trong sản xuất, nuôi trồng, thương mại hóa, tìm kiếm hợp tác sản xuất nấm Đông trùng hạ thảo, phát triển sản phẩm thông qua dịch vụ du lịch lữ hành (bán hoặc khuyến mãi tặng kèm cho khách du lịch của tập đoàn). Việc phát triển các sản phẩm Đông trùng hạ thảo giúp xây dựng hệ sinh thái dịch vụ chăm sóc sức khỏe toàn diện, nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo vệ môi trường và giữ gìn di sản văn hóa đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế cho Tập đoàn, tạo ra chuỗi giá trị khép kín từ sản xuất (nuôi trồng) đến chế biến, quản lý chất lượng và thương mại hóa các sản phẩm từ nấm Đông trùng Hạ thảo thông qua các hoạt động quảng bá, giới thiệu, tiếp cận người dùng từ dịch vụ lữ hành.

     Phần trình bày của Tập đoàn cũng giới thiệu hiện có 2 chủng đông trùng hạ thảo chính. Một là Cordyceps sinensis – có giá thành rất cao, phân bố rất hạn chế trong tự nhiên (chủ yếu ở khu vực Tây Tạng) và hiện chưa được nuôi thành công trong môi trường nhân tạo. Đây chính là loại Đông trùng hạ thảo được đề cập trong các thành ngữ, tục ngữ trong dân gian. Và hai là Cordyceps militaris – tương tự một loại nấm dược liệu có thể nuôi trồng nhân tạo và chế biến thành nhiều sản phẩm khác nhau. Đa số các sản phẩm được bán ngoài thị trường hiện nay chính là Cordyceps militaris – loại Đông trùng hạ thảo có thể nuôi trồng nhân tạo, có cả 65 hoạt chất với tỷ lệ tương tự như Cordyceps sinensis tự nhiên, bao gồm các hoạt chất hỗ trợ điều trị ung thư như polysaccharide, sterol, adenosine và đặc biệt cordycepin.

     Ngoài ra, Đông trùng hạ thảo còn có tác dụng bồi bổ cơ thể, tráng dương, tăng cường miễn dịch… hữu ích cho điều trị mỡ máu, tiểu đường, suy nhược, suy dinh dưỡng và còn có thể dùng làm nước giải khát chất lượng cao.

     Như vậy chúng ta hoàn toàn có thể nuôi trồng Đông trùng hạ thảo Cordyceps militaris thay thế Cordyceps sinensis tự nhiên với chất lượng tương đương mà giá thành thấp hơn rất nhiều và có thể đa dạng hóa sản phẩm theo nhu cầu sử dụng.

     Tại Việt Nam, hiểu biết về đông trùng hạ thảo còn hạn chế. Theo TS Vũ Văn Sang, chuyên gia nông nghiệp của Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam (VITAD-AGRI), ủy viên Hội đồng khoa học, phần ngọn Đông trùng hạ thảo đẹp mắt như san hô dưới đáy biển lại không có nhiều chất dinh dưỡng như phần đế, nơi chứa nhiều hoạt chất có tác dụng chữa bệnh tiểu đường, tim mạch, ung thư… nên người mua thường lựa chọn những cụm Đông trùng hạ thảo đẹp mắt thay vì chọn những khóm có phần đế chất lượng hơn. Ngoài ra hiện nay giá thành các sản phẩm Đông trùng hạ thảo tại Việt Nam cũng có hiện tượng loạn giá, độ chênh giữa hàng hóa các công ty khá lớn khiến khách hàng lưỡng lự, dè dặt khi quyết định chọn mua hay không.

Chất lượng của Đông trùng hạ thảo được quyết định bởi phần đế

     Phát biểu tại cuộc họp, TS Phạm Đình Nam, Viện trưởng VITAD-AGRI đề nghị Công ty Cổ phần Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam làm rõ nét quy trình công nghệ, xác định đăng ký sản phẩm ở mức độ nào: dùng cho người, làm dược liệu, thực phẩm chức năng hay là thuốc. Phải kiểm soát được chất lượng sản phẩm. Xây dựng logo, nhãn hàng phụ. Đăng ký bản quyền logo; tiến tới đăng ký bảo hộ nhãn hiệu; kiểu dáng công nghệ, chứng chỉ Oganic, Cácbon… Lưu ý chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hữu cơ, được ghi tại điều 17, nghị định 109/2018.

TS Phạm Đình Nam, Viện trưởng VITAD-AGRI (giữa) phát biểu tại cuộc họp

     Các chuyên gia nông nghiệp TS Nguyễn Hồng Hạnh, TS Nguyễn Ngọc Dinh đề nghị Công ty Cổ phần Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam sớm nghiên cứu, công bố tiêu chuẩn cơ sở đáp ứng tiêu chuẩn Nhà nước về sản phẩm an toàn cho người như Nghị định 15/2018, 19/2019…

     Các chuyên gia khoa học công nghệ TS Hồ Trường Giang, TS Nguyễn Đức Thọ cũng tư vấn Công ty Cổ phần Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam xây dựng chi tiết quy trình thực hiện dự án: thời gian, địa điểm, sớm xây dựng thương hiệu, đối tác sản xuất, công nghệ áp dụng và công tác marketing cho sản phẩm.

     TS Vũ Văn Sang, Chuyên gia Nông nghiệp đánh giá, tư vấn dự án cần làm đề cương chi tiết về 4 điểm chính: kế hoạch sản xuất, hợp tác (theo tiêu chuẩn nào), bổ sung chi tiết công nghệ sản xuất, quy trình chế biến, xây dựng Tiêu chuẩn cơ sở phải đề cập rõ Công ty tự xây dựng hay đề nghị đối tác xây dựng. Lưu ý cần dựa vào các tiêu chuẩn, nghị định, thông tư của Nhà nước như NĐ 15/2018 hay QĐ 885/TTg năm 2020.

TS Vũ Văn Sang, Chuyên gia Nông nghiệp đánh giá, tư vấn dự án

     PGS.TS Trần Mạnh Trí, Chủ tịch hội đồng đã tổng hợp ý kiến của các chuyên gia và đề nghị Công ty Cổ phần Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam hoàn thiện bổ sung hồ sơ dự án; xây dựng Tiêu chuẩn cơ sở rõ ràng, thông số cụ thể; làm rõ hơn điểm mới và ưu việt của sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại hiện có trên thị trường. Bổ sung quy trình công nghệ nuôi trồng, chế xuất sản phẩm. Xây dựng thương hiệu, kế hoạch thương mại hóa và phát triển sản phẩm. Ông ủng hộ ý tưởng sản xuất sản phẩm tốt cho sức khỏe và cam kết đồng hành cùng Công ty trong quá trình thực hiện dự án. Theo ông, dự án này hoàn toàn khả thi và trong tương lai gần, Đông trùng hạ thảo sẽ là món quà quý giá và quen thuộc của người lữ hành, dễ mang theo sử dụng khi du lịch cũng như làm quà cho gia đình, người thân.

PGS.TS Trần Mạnh Trí, Chủ tịch hội đồng (thứ 2 từ phải sang) tổng hợp ý kiến của các chuyên gia

     Hội đồng khoa học cam kết đồng hành cùng Công ty Cổ phần Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam trong quá trình thực hiện dự án. Ngoài ra, Viện ứng dụng công nghệ và phát triển Nông nghiệp Việt Nam VITAD-AGRI cũng đề ra chiến lược hợp tác lâu dài với Công ty Cổ phần Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam trong các lĩnh vực liên quan đến nông nghiệp như các khóa đào tạo ứng dụng nông nghiệp hữu cơ Organic, đưa người ra nước ngoài học tập kỹ thuật nông nghiệp…

Hội đồng khoa học cam kết đồng hành cùng Công ty Cổ phần Tập đoàn Lữ hành Bắc Trung Nam thực hiện dự án

Nội dung: Thành Vinh 

Hình ảnh: Bích Hồng    

Trung Quốc lại khiến thế giới “đuổi không kịp” về khả năng ứng dụng công nghệ (P3): Nông dân đã dùng AI hiệu quả lâu rồi!

Viện sĩ Chu Hữu Dũng đã cùng Baidu phát triển “Nông dân Viện sĩ Thông minh”, một trợ lý AI giúp giải đáp thắc mắc về nông nghiệp cho bà con nông dân mọi lúc mọi nơi. Ứng dụng này hứa hẹn sẽ là cầu nối hiệu quả giữa kiến thức chuyên môn và thực tiễn sản xuất, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn.

 

 

Sự phát triển mạnh mẽ của mô hình AI đặt ra câu hỏi về việc ứng dụng công nghệ này vào cuộc sống và sản xuất, tạo ra giá trị thực tiễn. Câu hỏi làm thế nào AI thể hiện khả năng vượt trội trong việc xử lý các nhiệm vụ cụ thể, đã được trả lời ở Trung Quốc. Hiện nay, nhiều nông dân ở quốc gia này đã ứng dụng tốt AI vào việc đồng áng.

Ngày 28/6, Viện sĩ Chu Hữu Dũng và Baidu đã chính thức ra mắt “Nông dân Viện sĩ Thông minh”, sản phẩm AI đầu tiên dành cho lĩnh vực nông nghiệp, thu hút sự chú ý của giới chuyên môn.

Viện sĩ Chu Hữu Dũng, được mệnh danh là “Viện sĩ Nông dân”, đã gắn bó gần 10 năm với huyện Lan Thương, tỉnh Phổ Nhĩ, Vân Nam, giúp đỡ người dân thoát nghèo. Tuy nhiên, việc truyền đạt kiến thức, kỹ năng canh tác cho hàng chục vạn nông dân trong khi thời gian và sức lực có hạn là bài toán khó.

Sự xuất hiện của AI đã mang đến giải pháp cho vấn đề này. “Nông dân Viện sĩ Thông minh” giúp “đưa viện sĩ vào điện thoại”, giải đáp thắc mắc cho bà con nông dân mọi lúc mọi nơi. Điều này không chỉ thể hiện sức mạnh của mô hình AI mà còn mở ra ứng dụng thực tiễn đầy giá trị.

Huyện Lan Thương, nằm ở phía Tây Nam tỉnh Vân Nam, từng là một huyện nghèo khó với điều kiện sản xuất, sinh hoạt khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi, thường xuyên gặp thiên tai. Tuy nhiên, Viện sĩ Chu Hữu Dũng nhận thấy tiềm năng của vùng đất này với thổ nhưỡng phì nhiêu và lượng mưa phù hợp cho cây trồng. Ông cùng nhóm nghiên cứu đã tìm kiếm loại cây trồng phù hợp và quyết định ứng dụng khoa học kỹ thuật để xóa đói giảm nghèo.

“Qua hơn 10 năm nghiên cứu, chúng tôi đã trồng thành công lúa trên đất khô, gọi chung là lúa nước chất lượng cao trên đất khô”. Viện sĩ Chu Hữu Dũng và nhóm của ông đã triển khai nhiều kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến tại địa phương, tiêu biểu là kỹ thuật trồng lúa nước chất lượng cao trên đất khô, trồng khoai tây mùa đông và trồng sâm tam thất dưới tán rừng. Đặc biệt, kỹ thuật trồng lúa nước chất lượng cao trên đất khô đã giúp tăng gấp đôi năng suất lúa, giải quyết vấn đề lương thực cho người dân.

“Giúp người dân có thu nhập, tự chủ được cuộc sống là điều tốt đẹp biết bao”. Viện sĩ Chu Hữu Dũng chia sẻ. Ông đã thành lập Trạm làm việc của Viện sĩ và “Viện sĩ Tiểu viện” tại thôn Hạo Chi Bá, huyện Lan Thương, tổ chức các lớp tập huấn chuyên môn, khơi dậy niềm đam mê học hỏi của bà con nông dân.

Theo thông tin từ China Economic Net, nhờ sự hướng dẫn của Viện sĩ Chu Hữu Dũng, xã Trúc Đường đã có sự thay đổi đáng kể, thu nhập bình quân đầu người tăng từ 3.410 Nhân dân tệ năm 2015 lên 13.228 Nhân dân tệ năm 2023, tổng thu nhập kinh tế nông thôn toàn xã tăng khoảng 319%.

Một người dân ở thôn Vân Sơn, xã Trúc Đường chia sẻ: “Ban đầu chúng tôi không tin, nhưng sau đó, nhà nào cũng học được kỹ thuật nên thu nhập tăng lên. Tôi muốn học hỏi kinh nghiệm trồng trọt từ Viện sĩ nhưng ông ấy quá bận. Tôi phải đợi từ sớm ở cửa chỉ để hỏi ông ấy về vấn đề trồng trọt”.

Giờ đây, với “Viện sĩ trong điện thoại”, người dân không còn phải vất vả tìm kiếm Viện sĩ Chu Hữu Dũng nữa.

 

Ngày 28/6/2024, tại “Hội nghị các nhà phát triển học sâu WAVE SUMMIT 2024” do Trung tâm Nghiên cứu Kỹ thuật và Ứng dụng Học sâu Quốc gia tổ chức, Viện sĩ Chu Hữu Dũng và nhóm của ông cùng Baidu đã chính thức ra mắt “Nông dân Viện sĩ Thông minh” – sản phẩm AI đầu tiên dành cho lĩnh vực nông nghiệp.

Ứng dụng được xây dựng dựa trên nền tảng mô hình AI trong nước, mô phỏng cuộc trò chuyện hỏi đáp giữa Viện sĩ Chu Hữu Dũng và người dùng. Người dân có thể hỏi bất cứ lúc nào về điều kiện trồng lúa nước trên đất khô, kỹ thuật canh tác, phòng trừ sâu bệnh…, “Nông dân Viện sĩ Thông minh” sẽ giải đáp chi tiết từng vấn đề.

“Tôi muốn hỏi khi nào là thời điểm tốt nhất để trồng lúa nước trên đất khô?”, “Cần lưu ý những gì khi trồng lúa nước chất lượng cao trên đất khô?”, “Nếu lúa nước chất lượng cao trên đất khô liên tục bị sâu bệnh thì phải làm sao?”.… “Xin chào, tôi là trợ lý thông minh của Viện sĩ Nông dân Chu Hữu Dũng. Nếu lúa nước chất lượng cao trên đất khô liên tục bị sâu bệnh, bạn có thể áp dụng các biện pháp sau…”.

Một người dân ở thôn Vân Sơn, xã Trúc Đường, huyện Lan Thương, tỉnh Phổ Nhĩ đã chia sẻ tại WAVE SUMMIT: “Viện sĩ Chu Hữu Dũng như đang ở trong điện thoại của tôi, giống hệt như người thật. Chúng tôi hỏi gì ông ấy trả lời đấy, cứ như ông ấy đang ngồi cạnh tôi vậy. Lần đầu tiên sử dụng ứng dụng này, tôi thấy thật kỳ diệu. Giọng nói và hình ảnh của Viện sĩ Chu Hữu Dũng đều rất chân thực, câu trả lời cũng giống như thường lệ. Từ nay, chúng tôi có thể hỏi han ‘Viện sĩ Chu Hữu Dũng’ trong điện thoại bất cứ lúc nào!”.

Mục tiêu của trí tuệ nhân tạo là mô phỏng, mở rộng và phát triển trí thông minh của con người. “Nông dân Viện sĩ Thông minh” là một ví dụ điển hình cho việc mở rộng trí thông minh con người, giải quyết những vấn đề thiết thực của đời sống dân sinh.

Viện sĩ Chu Hữu Dũng cho biết: “Nông nghiệp là ngành nghề trường tồn, trợ lý thông minh là kênh truyền tải kiến thức và thông tin tốt nhất. Chúng tôi muốn ứng dụng này mang lại lợi ích cho nhiều người hơn nữa”. Theo thông tin, “Nông dân Viện sĩ Thông minh” sẽ được tích hợp trên nhiều nền tảng như ứng dụng và trang web Văn Tâm Nhất Ngôn, Baidu Search, Baidu Baike. Người dùng có thể tìm kiếm “Nông dân Viện sĩ”, “Chu Hữu Dũng” hoặc “Nông dân Viện sĩ” để truy cập nhanh vào ứng dụng.

Có thể hình dung, việc phát triển trợ lý thông minh chuyên ngành sẽ cho phép các viện sĩ và chuyên gia trong nhiều lĩnh vực áp dụng vào các tình huống tương tự, tạo ra giá trị thương mại và xã hội to lớn. Hiện nay, AI, với đại diện là mô hình ngôn ngữ lớn, đang thúc đẩy quá trình chuyển đổi và nâng cấp trong nhiều ngành nghề, mở rộng phạm vi và chiều sâu ứng dụng trong sản xuất.

Giám đốc Công nghệ Baidu, ông Vương Hải Phong, cho rằng công nghệ AI hiện tại, dựa trên nền tảng học sâu và mô hình ngôn ngữ lớn, đã có tính ứng dụng cao, đồng thời sở hữu các đặc điểm tiêu chuẩn hóa, mô-đun hóa và tự động hóa. Việc đưa AI vào sản xuất và dịch vụ của các ngành nghề sẽ giúp giải quyết hiệu quả các vấn đề thực tế trong công việc và cuộc sống.

Bạn có thể theo dõi thêm các bài báo về các lĩnh vực ứng dụng công nghệ khác thuộc chuỗi bài: Trung Quốc lại khiến thế giới “đuổi không kịp” về khả năng ứng dụng công nghệ trên website: markettimes.vn

Sản xuất lúa gạo gặp nhiều thách thức từ biến động thị trường quốc tế

 

[Cần Thơ] Sản xuất lúa gạo đang gặp nhiều thách thức từ các biến động thị trường quốc tế, điều kiện khí hậu ảnh hưởng nông dân, theo Phó thủ tướng Trần Hồng Hà.

Thông tin được Phó thủ tướng Trần Hồng Hà nêu ra trong cuộc họp với lãnh đạo các tỉnh, thành miền Tây về việc điều hành sản xuất, tiêu thụ lúa gạo diễn ra ngày 7/3, tại TP Cần Thơ.

“Việt Nam hiện là quốc gia đứng thứ ba thế giới về sản xuất và xuất khẩu lúa gạo, nhưng đang gặp nhiều thách thức từ các biến động thị trường quốc tế, điều kiện khí hậu”, ông Hà nói và cho biết người nông dân đang gặp nhiều khó khăn do giá lúa gạo giảm mạnh, trong khi vẫn phải chịu nhiều rủi ro do biến đổi khí hậu và thời tiết. Theo ông, việc “được mùa mất giá, được giá mất mùa” đối với người nông dân, đặc biệt là người trồng lúa đã trở thành câu chuyện quen thuộc.

Phó thủ tướng nhìn nhận đây là vấn đề kéo dài nhiều năm qua. Nếu không có giải pháp hiệu quả, nguy cơ nông dân rời bỏ mảnh ruộng của mình. Vì vậy nhà nước cần có các giải pháp như các công cụ, chính sách, như điều chỉnh giá, cung cấp tín dụng… hỗ trợ kịp thời để bảo vệ quyền lợi của người nông dân. Các bộ, ngành liên quan đánh giá rõ ràng, cụ thể các thị trường nhập khẩu chính của gạo Việt Nam cũng như các đối thủ cạnh tranh, phối hợp chặt chẽ để triển khai giải pháp.

Về lâu dài, Phó thủ tướng chỉ đạo cần phải xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành toàn diện về lĩnh vực lúa gạo. Hệ thống này sẽ tích hợp thông tin từ nhiều khâu: sản xuất, khoa học công nghệ, chế biến, bảo quản, thị trường và dự báo… với mục tiêu cung cấp thông tin kịp thời và chính xác cho các bên liên quan, từ nông dân đến doanh nghiệp và cơ quan quản lý…

Đối với việc quản lý xuất khẩu lúa gạo, Phó thủ tướng đề nghị sửa đổi Nghị định 107/2018 của Chính phủ với những điều chỉnh quan trọng. Theo đó, các doanh nghiệp muốn được cấp phép xuất khẩu phải đáp ứng các tiêu chí nghiêm ngặt, bao gồm năng lực liên kết sản xuất, hệ thống kho bãi và năng lực tài chính…

Nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nông nghiệp, Phó thủ tướng đề nghị Ngân hàng nhà nước cần xem xét áp dụng chính sách cho vay ưu đãi tương tự vay mua nhà xã hội. Đồng thời, ông kiến nghị miễn thuế thu nhập cho lĩnh vực nông nghiệp trong hai năm, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư, phát triển. Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp Bộ Khoa học và Công nghệ cần xây dựng chiến lược ngăn chặn việc các nước khác sử dụng trái phép nhãn hiệu gạo Việt Nam.

Thu hoạch lúa tại Cần Thơ. Ảnh: An Bình

 

Thu hoạch lúa tại Cần Thơ. Ảnh: An Bình

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong hai tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu gạo đạt khoảng 1,1 triệu tấn, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, giá trị kim ngạch chỉ đạt 613 triệu USD, giảm 13,6%. Giá gạo xuất khẩu trung bình giảm sâu, xuống còn 553,6 USD một tấn, thấp hơn 18,3% so với cùng kỳ năm 2024. Đầu tháng 3, giá gạo xuất khẩu tiếp tục giảm mạnh, chỉ còn: 310-367 USD mỗi tấn. Các thị trường lớn như Philippines, Bờ Biển Ngà và Ghana vẫn là những khách hàng chính của gạo Việt Nam, nhưng sức mua không còn sôi động như trước.

Giá gạo sụt giảm do nguồn cung thế giới tăng cao, nhu cầu nhập khẩu suy giảm và đặc biệt là việc Ấn Độ dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo, đẩy một lượng lớn gạo ra thị trường quốc tế…

 

Nhằm đảm bảo ổn định sản xuất và tiêu thụ lúa gạo trong bối cảnh thời tiết và thị trường diễn biến phức tạp, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề nghị các địa phương cần bám sát lịch thời vụ, đẩy nhanh tiến độ thu hoạch vụ Đông Xuân, đặc biệt ở các vùng ven biển có nguy cơ ảnh hưởng mặn cao. Bộ sẽ phối hợp các ngành liên quan theo dõi chặt chẽ biến động thị trường gạo thế giới, kịp thời thông tin cho doanh nghiệp và nông dân để điều chỉnh sản xuất và tiêu thụ phù hợp.

Về lâu dài, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục đẩy mạnh triển khai Đề án phát triển bền vững một triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh ở Đồng bằng sông Cửu Long…

Dự báo của Hiệp hội Lương thực Việt Nam, xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2025 sẽ gặp khó khăn, có thể chỉ đạt 7,5 triệu tấn, giảm so với mức kỷ lục hơn 9 triệu tấn năm 2024.

An Bình

Theo vnexpress.net

Copyrights © 2019 VITAD-AGRI All Rights Reserved.

X