Quy định mới EU 2018/848 có làm khó nông sản hữu cơ Việt Nam?
Quy định mới EU 2018/848 có làm khó nông sản hữu cơ Việt Nam?
Các sản phẩm hữu cơ muốn xuất khẩu sang EU phải tuân thủ các quy tắc về sản xuất hữu cơ theo Quy định EU 848/2018 và phải được cấp chứng nhận xuất khẩu hữu cơ.
Thách thức lớn đối với các nhà xuất khẩu
Để tăng cường phát triển diện tích sản xuất hữu cơ cũng như thị trường nông sản hữu cơ, vào tháng 5/2020, Nghị viện Châu Âu đã xây dựng và triển khai kế hoạch hành động để phát triển sản xuất hữu cơ tại EU từ năm 2021 – 2027, nhằm hướng tới mục tiêu 25% diện tích đất nông nghiệp được áp dụng sản xuất hữu cơ vào năm 2030.
Trước đây, sản phẩm nông hữu cơ tại thị trường EU đang áp dụng theo các quy định (EC) số 834/2007. Với quy định này, EU cho phép các nước xuất khẩu áp dụng các tiêu chuẩn khác đã được đối chuẩn (benchmark) với yêu cầu của EU.
Điều này tạo nên sự không đồng nhất về mức chất lượng của các sản phẩm hữu cơ khi áp dụng các tiêu chuẩn khác nhau. Ngoài ra, yêu cầu về tiêu chuẩn hữu cơ của EU thường cao hơn so với yêu cầu của các tiêu chuẩn khác, do vậy tạo ra sự cạnh tranh không công bằng giữa các nhà sản xuất hữu cơ ở EU với các nhà sản xuất hữu cơ khác trên thế giới.
Trong thời gian vừa qua, EU cũng phát hiện một số trường hợp các nhà sản xuất có sự không minh bạch trong việc triển khai, áp dụng các tiêu chuẩn hữu cơ khác.
Bởi thế, Liên minh châu Âu đã đưa ra một bộ quy tắc mới theo Quy định (EU) số 2018/848 nhằm đảm bảo cạnh tranh công bằng, đồng thời ngăn chặn gian lận và nâng cao lòng tin của người tiêu dùng tại EU về các sản phẩm hữu cơ.
Quy định mới không chỉ kiểm soát rất chặt chẽ việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong các sản phẩm, mà còn liên quan đến quản lý đất và sản xuất thực phẩm. Bộ quy tắc đơn nhất này cũng sẽ áp dụng cho các nông dân ngoài EU xuất khẩu sản phẩm hữu cơ của họ sang thị trường EU.
Với các quy định mới như vậy sẽ công bằng cho các nhà sản xuất nông nghiệp EU. Tuy nhiên, điều này sẽ tạo ra thách thức không nhỏ đối với các nhà sản xuất hữu cơ ở các nước đang phát triển để có thể đáp ứng được các yêu cầu nghiêm ngặt của quy định mới.
Sản xuất quế hữu cơ của Công ty Quế Việt Nam
Quy định mới của EU 2018/848
Hiện tại, Việt Nam đang xuất khẩu nông sản sang thị trường EU khoảng 5,5 tỷ USD/năm, chiếm tỷ trọng 15% tổng giá trị nông sản xuất khẩu. EU đang là thị trường lớn thứ ba của xuất khẩu nông sản Việt Nam (sau Trung Quốc, Mỹ).
Vậy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là nông sản hữu cơ sẽ thay đổi như thế nào khi áp dụng quy định hữu cơ mới EU 2018/848?
Theo các chuyên gia nông nghiệp, hiện tại, Hiệp định EVFTA được thực thi sẽ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam trên các thị trường khó tính thuộc EU, thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam.
Với 99,2% số dòng thuế trong biểu thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU được cắt giảm trong vòng 7 năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực.
0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại (bao gồm một số sản phẩm gạo, ngô ngọt, tỏi, nấm, đường và các sản phẩm chứa hàm lượng đường cao, tinh bột sắn, cá ngừ đóng hộp) được EU cam kết mở cửa cho Việt Nam theo hạn ngạch thuế quan, sẽ giúp cho hàng nông sản Việt Nam tăng cường lợi thế cạnh tranh về giá so với nông sản xuất khẩu của các đối thủ cạnh tranh không phải là thành viên hiệp định.
Một sản phẩm có thể xuất khẩu đến EU hoặc các quốc gia ngoài EU dưới dạng sản phẩm hữu cơ và có thể mang biểu tượng logo sản xuất hữu cơ của châu Âu với điều kiện sản phẩm đó phải tuân thủ các quy tắc về sản xuất hữu cơ theo Quy định EU 848/2018.
Sản phẩm hữu cơ xuất khẩu phải được cấp giấy chứng nhận xuất khẩu hữu cơ để đảm bảo rằng sản phẩm hữu cơ xuất khẩu được thực hiện theo Quy định hữu cơ EU 2018/848.
Các Nguyên tắc chung của Quy định hữu cơ EU 2018/848 – Tôn trọng các chu trình và hệ thống tự nhiên cũng như là duy trì, nâng cao hiện trạng của đất, nước, không khí, sức khỏe của động vật, thực vật và cân bằng giữa chúng. – Bảo tồn các yếu tổ cảnh quan tự nhiên như các khu di sản thiên nhiên; Sử dụng tài nguyên thiên nhiên và năng lượng có trách nhiệm như đất, nước, các vật chất hữu cơ và không khí. – Sản xuất nhiều loại thực phẩm chất lượng cao cùng như các sản phẩm nông nghiệp và thủy sản đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Các sản phẩm hữu cơ này được sản xuất bằng cách sử dụng các quy trình không gây hại cho môi trường, sức khỏe con người và phúc lợi động vật. – Đảm bảo tính toàn vẹn của sản xuất hữu cơ ở tất cả các giai đoạn sản xuất, sơ chế, chế biến, phân phối thực phẩm và thức ăn chăn nuôi. – Quản lý và thiết kế thích hợp quá trình sinh học, dựa trên các hệ thống sinh thái và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên bên trong hệ thống quản lý; Hạn chế sử dụng các yếu tố đầu vào từ bên ngoài. |
Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/quy-dinh-moi-eu-2018-848-co-lam-kho-nong-san-huu-co-viet-nam-2
Nuôi vịt trời theo hướng hữu cơ, đăng kí sản phẩm OCOP
Nuôi vịt trời theo hướng hữu cơ, đăng kí sản phẩm OCOP
Vịt trời nuôi theo hướng hữu cơ của HTX Chăn nuôi và tiêu thụ gà đồi Ba Vì đang tiến hành các bước đăng kí đây là sản phẩm OCOP của huyện.
HTX Chăn nuôi và tiêu thụ gà đồi Ba Vì là đơn vị đã xây dựng được thương hiệu trên thị trường với sản phẩm chủ lực là gà đồi. Tuy nhiên, do nhu cầu của thị trường và những điều kiện môi trường sẵn có, một số thành viên của HTX đã quyết định chăn nuôi vịt trời theo hướng hữu cơ từ cuối năm 2021 và nhân rộng từ đó đến nay.
Thành viên của HTX, anh Trương Đức Hoàng, thôn Đông An, xã Thuỵ An, huyện Ba Vì, nhận thấy diện tích đất đai, ao đầm của gia đình mình phù hợp với việc phát triển chăn nuôi vịt trời theo hướng hữu cơ. Sau khi tìm hiểu, anh đã mạnh dạn đầu tư chuồng trại chăn nuôi 1.000 con vịt trời theo hình thức bán hoang dã. Nhờ chăm sóc đúng kỹ thuật, đàn vịt của gia đình anh sinh trưởng, phát triển tốt.
Với việc sử dụng các loại thức ăn như: ngô, cám mì, giun quế, ấu trùng, cá xay ủ lên men và trộn thêm vi lượng khoáng chất… vịt trời nuôi theo hướng hữu cơ của HTX có vị thơm ngon, đặc trưng nên được thị trường rất ưa chuộng. Ngoài ra, để đảm bảo sản phẩm hữu cơ, an toàn đến tay người tiêu dùng, vịt trời được chăn nuôi ở môi trường thoáng mát, nguồn nước sạch sẽ.
Vịt trời nuôi theo hướng hữu cơ đem lại hiệu quả kinh tế cao đang được nhân rộng
Hiện vịt trời theo hướng hữu cơ của HTX Chăn nuôi và tiêu thụ gà đồi Ba Vì luôn trong tình trạng “cháy hàng”, có bao nhiêu hết ngay đến đó với giá cả rất tốt khoảng 150 nghìn/con vịt 1kg.
Với hiệu quả như vậy, hiện HTX chăn nuôi vịt liên tục gối đàn, mỗi lứa từ 500 con và hiện có khoảng 3.000 con đang được chăn thả.
Đặc biệt, thời gian tới HTX sẽ tiến hành các bước đăng ký sản phẩm “Vịt trời hữu cơ” là sản phẩm OCOP của huyện Ba Vì, đồng thời tiếp tục nhân rộng mô hình để đem lại hiệu quả kinh tế cho các xã viên.
Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/nuoi-vit-troi-theo-huong-huu-co-dang-ki-san-pham-ocop
Hội thảo Khởi động dự án “Tăng cường năng lực cho nông dân quy mô nhỏ thông qua việc thống nhất mạng lưới PGS hữu cơ tại Việt Nam”
Hội thảo Khởi động dự án “Tăng cường năng lực cho nông dân quy mô nhỏ thông qua việc thống nhất mạng lưới PGS hữu cơ tại Việt Nam”
Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam (VOAA) là tổ chức xã hội – nghề nghiệp được thành lập năm 2011, kể từ khi thành lập Hiệp hội đã là đơn vị thúc đẩy, phát triển hệ thống đảm bảo cùng tham gia (PGS) trong giám sát, quản lý chất lượng sản phẩm hữu cơ đặc biệt đối với nông dân quy mô nhỏ tại Việt Nam. Hiệp hội cùng Tổ chức phát triển nông nghiệp Đan Mạch Châu Á (ADDA) đã ký kết thỏa thuận thực hiện dự án “Tăng cường năng lực cho nông dân quy mô nhỏ thông qua việc thống nhất mạng lưới PGS hữu cơ tại Việt Nam” (Tên viết tắt: ESUP). Với mục tiêu chính là nâng cao sinh kế cho nông dân hữu cơ quy mô nhỏ tại 07 tỉnh, thành phố thông qua cải tiến tổ chức, chia sẻ thị trường nông sản và năng lực vận động chính sách.
Ảnh: Hộ nông dân được chứng nhận PGS chăm sóc rau hữu cơ
Hội thảo Khởi động dự án “Tăng cường năng lực cho nông dân quy mô nhỏ thông qua việc thống nhất mạng lưới PGS hữu cơ tại Việt Nam” – ESUP được tổ chức vào:
Thời gian: 1/2 ngày, bắt đầu từ 8h30 ngày 16 tháng 4 năm 2022 (Thứ Bảy)
Địa điểm: Vạn Phúc, Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội
Chương trình hội thảo:
Cam “ăn” đậu xanh, ngô nghiền, tưởng dở ai ngờ chở cam sang Nhật bán đắt hàng
Vài năm trở lại đây, cụm từ “nông nghiệp hữu cơ” là từ khóa mới trong sản xuất nông nghiệp ở Sơn La, nhằm tạo ra nông sản an toàn, có giá trị dinh dưỡng cao, mang lại lợi ích đối với sức khỏe con người, góp phần cải tạo, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững nền kinh tế.
“Sản xuất xanh”
Tháng 1/2018, HTX Nông trại hữu cơ bản Pa Cốp, xã Vân Hồ (Vân Hồ, Sơn La) được thành lập với 7 thành viên, là một trong những HTX tiên phong của tỉnh áp dụng sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ. Đến nay, HTX có 10 thành viên, canh tác 21ha cam đường canh, 4ha cây bưởi ruby và cam Vinh.
Anh Vũ Hùng Cường – Giám đốc HTX, cho biết: Trong quy trình chăm sóc cây ăn quả, các thành viên luôn coi trọng sản xuất sạch, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân hóa học. Chế phẩm HTX dùng để phun cho toàn bộ diện tích cây cam đường canh, cam Vinh được nhập từ Nhật, là dạng khuẩn sinh học. Định kỳ cho cây cam “ăn” đậu tương, ngô nghiền nhỏ ủ chung cá, nấm tạo ra phân hữu cơ. Hiện nay, toàn bộ sản phẩm cam đường canh của HTX được xuất khẩu sang Nhật với giá hợp đồng là 55.000 đồng/kg. Trung bình, mỗi ha cam đường canh có năng suất 14 tấn/ha, doanh thu bình quân 550 triệu đồng/ha, trừ chi phí, lãi 440 triệu đồng.
Đến hết năm 2020, toàn tỉnh Sơn La có 35ha rau, cây ăn quả đã được cấp chứng nhận hữu cơ, 155ha đang được sản xuất theo hướng hữu cơ. Xây dựng, duy trì 197 chuỗi nông, lâm, thủy sản an toàn, trong đó có 159 chuỗi cung ứng sản phẩm cây trồng, sản lượng trên 30.000 tấn. Nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ của các HTX, như: HTX sinh thái Nà Sản, HTX Ngọc Lan (Mai Sơn), HTX sản xuất rau an toàn Ta Niết (Mộc Châu) đã có những sản phẩm sản xuất theo hướng hữu cơ được thị trường biết đến…
Quy trình sản xuất chặt chẽ
Nông nghiệp hữu cơ là một hình thức nông nghiệp tránh hoặc loại bỏ phần lớn việc sử dụng phân bón tổng hợp, thuốc trừ sâu, các chất điều tiết tăng trưởng của cây trồng nên yêu cầu canh tác khá khắt khe. Ông Nguyễn Quang Vinh-Giám đốc HTX Nông nghiệp Ngọc Hoàng (Mai Sơn), cho biết: Chúng tôi có 5ha thanh long được trồng theo hướng hữu cơ. Trước đây, người dân chủ yếu dùng phân bón vô cơ, đất bị thoái hóa, một số loại sâu bệnh kháng thuốc, nên khi bắt đầu chuyển sang dùng phân hữu cơ, chi phí cao gấp đôi. Hơn nữa, cần phải có hệ thống tưới ẩm tốt và từ năm thứ 3 trở đi, các loại vi sinh vật có ích mới phát triển mạnh.
Bà Cầm Thị Phong – Phó Giám đốc Sở NNPTNT, thông tin: Rất nhiều HTX khi bắt tay vào sản xuất nông nghiệp hữu cơ gặp không ít khó khăn. Do việc sản xuất hữu cơ đòi rất nhiều tiêu chí, như: Phải có thời gian nhất định để thực hiện chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp hữu cơ. Các tổ chức, cá nhân khi thực hiện sản xuất theo hướng hữu cơ phải thực hiện việc ghi chép đầy đủ rõ ràng về vật tư, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật…
HTX Ngọc Lan (Mai Sơn) tham gia thí điểm mô hình phát triển nông nghiệp hữu cơ của tỉnh. Sau hơn 2 năm triển khai đến nay HTX đã có nhiều sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo an toàn bán ra thị trường.
Với những lợi ích thiết thực về cân bằng sinh thái, sức khỏe con người và giá trị sản phẩm, phát triển nông nghiệp hữu cơ là hướng đi tất yếu. Ngoài các cơ chế, chính sách của tỉnh cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền để làm thay đổi thói quen sản xuất của người dân về sản xuất hữu cơ, cũng như thói quen lựa chọn thực phẩm của người tiêu dùng, tạo cơ hội thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ; xây dựng mối liên kết chặt chẽ và bền vững giữa các thành phần tham gia sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm hữu cơ dựa trên cơ sở chuỗi giá trị.
Nguồn: https://danviet.vn/mot-htx-o-son-la-cho-cam-an-dau-xanh-ngo-nghien-tuong-do-ai-ngo-cho-cam-sang-nhat-ban-dat-hang-20211103165351283.htm
Nông sản xuất khẩu: Nâng cao năng suất, chất lượng nhờ khoa học – công nghệ
Nông sản xuất khẩu: Nâng cao năng suất, chất lượng nhờ khoa học – công nghệ
Nông sản là một trong những ngành xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước. Để nâng cao năng suất, chất lượng các sản phẩm nông sản, thời gian qua các ngành, địa phương đã tích cực đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN).
Là lĩnh vực chiếm tỷ lệ nghiên cứu, ứng dụng lớn nhất của hầu hết địa phương, kết quả của ngành nông nghiệp đều có sự đóng góp của KH&CN thông qua việc khuyến khích phát triển sản xuất quy mô lớn, hợp tác liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị; ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ vào sản xuất; năng lực nghiên cứu, dự báo và thông tin thị trường được nâng cao để kịp thời định hướng tổ chức sản xuất, tiêu thụ nông sản.
Nhờ đó, KH&CN đang cho thấy vai trò ngày càng quan trọng nhằm nâng cao năng suất, chất lượng nông sản Việt Nam và là đòn bẩy để mặt hàng này vươn xa đến nhiều thị trường quốc tế. Đặc biệt, trong năm 2021, mặc dù gặp nhiều khó khăn do đại dịch Covid-19, ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất, kinh doanh nhưng xuất khẩu nông sản của Việt Nam vẫn đạt 48,6 tỷ USD. Điển hình, năm 2021, sản lượng vải thiều Lục Ngạn, Bắc Giang tiêu thụ và xuất khẩu sang thị trường “khó tính” như Nhật Bản, Pháp, CH. Czech, Australia, Mỹ, Đức… với sản lượng cao nhất từ trước đến nay.
Hay tại Sơn La, thị trường xuất khẩu nông sản của tỉnh này cũng ngày càng được mở rộng như Trung Quốc, Campuchia, Anh, Mỹ, Australia, Hàn Quốc, Nhật Bản… Từ chỗ là tỉnh miền núi có diện tích đất nương đồi trồng ngô lớn nhất nước, Sơn La đã nhanh chóng chuyển đổi sang trồng cây ăn quả trên đất dốc, trở thành vựa cây ăn quả lớn thứ hai của cả nước, với tổng diện tích trên 70.000 ha. Thu nhập bình quân trên 1 ha đạt từ 150 – 500 triệu đồng/ha, góp phần nâng cao mức sống của người dân và mở rộng phát triển sản xuất.
Cũng nhờ đẩy mạnh chuyển giao khoa học, kỹ thuật, sản xuất na Chi Lăng, Hữu Lũng tại Lạng Sơn đã đạt diện tích trên 3.500 ha, trong đó hơn 400 ha Na được chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP; tổng giá trị sản xuất ước đạt khoảng 1.200 tỷ đồng, bình quân thu nhập trên 1ha canh tác na đạt 275 triệu đồng/ha.
“Nhờ ứng dụng KH&CN, năng suất một số vật nuôi, cây trồng của Việt Nam đạt cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cụ thể, năng suất lúa cao nhất trong các nước ASEAN (trong đó cao hơn gấp rưỡi Thái Lan), cà phê có năng suất đứng thứ 2 trên thế giới (chỉ sau Brazil), năng suất hồ tiêu đứng đầu thế giới, cao su đứng thứ 2 thế giới (chỉ sau Ấn Độ), cá tra với năng suất 500 tấn/ha cũng cao nhất thế giới” – đại diện Bộ KH&CN cho biết.
Nhiều chuyên gia cho rằng, để tiến vào thị trường các nước, tận dụng cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA), các sản phẩm nông sản của Việt Nam phải đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường quốc tế về chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, mẫu mã đa dạng, giá thành hợp lý, đồng thời cũng phải đảm bảo khâu cung ứng kịp thời cho nhà nhập khẩu…
Ông Nguyễn Đình Phong – Phó giám đốc Sở Công Thương tỉnh Sơn La – cho biết, để các sản phẩm nông sản có thể mở rộng thị trường, tận dụng được các cơ hội từ các Hiệp định FTA, thì trước tiên các yếu tố đầu vào như vật tư, giống cây trồng cho đến quản lý, chăm sóc, bao gói, truy xuất nguồn gốc sản phẩm… đều phải đáp ứng tiêu chuẩn, sau đó mới đưa đi giới thiệu, xúc tiến tiêu thụ sản phẩm, tiếp cận thị trường.
Việt Nam là thị trường cung cấp chè lớn thứ 5 cho Hoa Kỳ
Chủ động các giải pháp tiêu thụ nông sản
Ngành Nông nghiệp và các địa phương đã chủ động triển khai nhiều giải pháp nhằm nâng cao giá trị sản phẩm, đẩy mạnh việc tiêu thụ nông sản trong nước và xuất khẩu đi các nước, thời gian qua.
Đây là một trong những giải pháp quan trọng, đó là chú trọng thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu nông sản, đẩy mạnh liên kết chuỗi để hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã tìm kiếm, mở rộng thị trường…
Tại Sơn La, trong năm 2021 đã đẩy mạnh xúc tiến thương mại cho các sản phẩm xoài, nhãn và mở rộng thị trường tới 21 quốc gia, vùng lãnh thổ như: Ba Lan, Hà Lan, Anh… với giá trị xuất khẩu hơn 161 triệu USD, tổng sản lượng nông sản xuất khẩu đạt 144.759 tấn.
Từ đầu năm đến nay, Sơn La tập trung hoàn thiện hệ thống các kênh tiêu thụ nông sản, kết nối chặt chẽ theo chuỗi giá trị, gia tăng sản xuất, chế biến, bảo quản, tiêu thụ, bảo đảm lợi ích của các đối tượng tham gia hợp tác liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản.
Giải pháp tháo gỡ khó khăn trong tiêu thụ nông sản
Mới đây, Sở NN&PTNT Hà Nội đã phối hợp với các địa phương kết nối đưa hàng trăm tấn nông sản của Hà Nội và các tỉnh, thành phố vào hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện ích, điểm giới thiệu Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP). Hà Nội cũng đã triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa thiết yếu qua các kênh thương mại điện tử…
Đặc biệt, từ đầu năm đến nay, ngành Nông nghiệp đã hỗ trợ, kết nối đưa một lượng lớn nông sản vào vụ thu hoạch hoặc xuất khẩu gặp khó khăn vào các hệ thống siêu thị như: Big C, AEON, Hapro, Vinmart; đồng thời thúc đẩy việc tham gia các sàn thương mại điện tử uy tín như: Alibaba, Amazon, Sendo, Voso, Shopee…
Mặt khác, các cơ quan chức năng đã phối hợp với đại sứ quán, thương vụ Việt Nam xây dựng kênh trao đổi, cung cấp thông tin các thị trường xuất khẩu trọng tâm như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, châu Âu, Trung Quốc… để đánh giá, dự báo thị trường và đưa ra giải pháp ứng phó kịp thời, linh hoạt…
Thực tế cho thấy, việc xúc tiến thương mại tiêu thụ nông sản còn không ít khó khăn, chủ yếu từ các vấn đề nội tại, như một số địa phương chưa chú trọng phát triển công nghiệp chế biến nên sản phẩm phần nhiều còn dưới dạng tươi sống và chưa tạo được nhiều mặt hàng mang tính đặc trưng.
Huyện Lâm Thao, Phú Thọ chủ động trong chỉ đạo các vùng trồng rau, đảm bảo nguồn cung phục vụ nhu cầu của thị trường
Đồng thời, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp hầu hết có quy mô vừa và nhỏ, thiếu cả vốn và nguồn nhân lực cho hoạt động xúc tiến thương mại…
Ngoài ra, cơ quan quản lý nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện việc cấp tem truy xuất nguồn gốc nhằm tạo thuận lợi cho tiêu thụ sản phẩm; đồng thời cho biết, công ty sẽ tập trung xây dựng vùng nguyên liệu lúa gạo chất lượng cao theo hướng an toàn; đầu tư chế biến sâu các sản phẩm và xây dựng thương hiệu để mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước, hướng tới xuất khẩu.
Về vấn đề này, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Nguyễn Ngọc Sơn thông tin: Ngành Nông nghiệp sẽ đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại; gắn việc quảng bá du lịch với các chương trình công bố giới thiệu sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản…; phát triển vùng nguyên liệu phục vụ các nhà máy chế biến và mở rộng thị trường tiêu thụ những mặt hàng có lợi thế như: Gạo chất lượng cao, nhãn chín muộn, chuối…
Các doanh nghiệp cần tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa kênh bán hàng trực tiếp và trực tuyến…, qua đó vừa tiết kiệm được chi phí vừa có thể quảng bá sản phẩm tới người tiêu dùng một cách dễ dàng, thuận lợi.
Bên cạnh việc đề nghị các địa phương chú trọng phát triển công nghiệp chế biến; tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp để đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm nguồn cung trong nước và phục vụ xuất khẩu, Bộ NN&PTNT đang tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng, doanh nghiệp tăng cường các biện pháp hỗ trợ hoạt động thương mại biên giới, tạo thuận lợi về thủ tục thông quan, không để ứ đọng hàng hóa.
Mặc dù gặp không ít khó khăn do diễn biến của dịch bệnh nhưng các hộ chăn nuôi luôn chủ động để đảm bảo cung ứng cho thị trường
Cùng với đó là triển khai các giải pháp hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại; đa dạng các biện pháp phân phối hàng hóa; kích cầu tiêu dùng trong nước để chuẩn bị cho các vụ thu hoạch nông sản.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam cho rằng, các địa phương có vùng nguyên liệu lớn cần chủ động phương án hỗ trợ tiêu thụ nông sản, tránh tình trạng ứ đọng hàng hóa; đồng thời thông tin kịp thời về tình hình sản xuất, lưu thông nông sản tại địa phương để chủ động điều chỉnh kế hoạch sản xuất theo nhu cầu thị trường.
Bên cạnh đó, các hiệp hội, ngành hàng, doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng của Bộ NN&PTNT, Bộ Công thương để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nội địa và nhân rộng các hình thức liên kết sản xuất nhằm ổn định giá nông sản trong mọi tình huống.
Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/chu-dong-cac-giai-phap-tieu-thu-nong-san
Dự án VnSAT giúp nông dân chuyển đổi phương thức canh tác
Dự án VnSAT giúp nông dân chuyển đổi phương thức canh tác
Dự án Chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam (VnSAT) đã thay đổi thói quen, tập quán canh tác nông nghiệp của bà con nông dân trong thời gian qua.
Dự án VnSAT được thực hiện từ năm 2015 đến tháng 6/2022 tại 8 tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long, gồm: Tiền Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Long An, Sóc Trăng, Hậu Giang, Cần Thơ, An Giang. Trong đó, giai đoạn từ 2021 trở về sau là giai đoạn gia hạn, chủ yếu thực hiện các hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng, thiết bị hỗ trợ nông dân.
Trong năm 2021, tại 8 địa phương thực hiện dự án VnSAT đã có hơn 61.300 ha lúa có hợp đồng bao tiêu thu mua sản phẩm. Cùng với đó, đầu tư xây dựng 485 công trình thủy lợi, giao thông, cầu cống, trạm bơm, đường điện, trạm biến áp và 68 kho tạm trữ, nhà bao che máy sấy và nhiều thiết bị hỗ trợ các tổ chức nông dân như: máy sấy, máy cuốn rơm, máy đóng bao lúa, máy phun hạt…
Ông Lê Văn Hiến, Trưởng Ban quản lý các dự án nông nghiệp, kiêm Giám đốc Dự án VnSAT cho biết: Dự án được Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ vốn để thúc đẩy chuyển đổi hai ngành hàng là cà phê và lúa gạo. Đến nay, sau 6 năm thực hiện, các chỉ tiêu của Dự án đã cơ bản hoàn thành và vượt 20%.
Cả chương trình tái canh cà phê cũng như các quy trình “3 giảm 3 tăng”, “1 phải 5 giảm” đối với hợp phần lúa gạo đều được WB đánh giá rất cao, là một trong các dự án điển hình. Sau khi Dự án kết thúc, giá trị gia tăng đối với cà phê đạt gần 20%, đối với lúa gạo là 25% so với trước khi triển khai Dự án.
“Dự án VnSAT đã tác động rất lớn đối với việc thay đổi tập quán canh tác của khoảng 200.000 hộ nông dân trồng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long và 150.000 hộ nông dân trồng cà phê ở Tây Nguyên”, ông Hiến đánh giá.
Đối với hợp phần lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long, có 155.000 nông dân được đào tạo kỹ thuật sản xuất lúa “3 giảm, 3 tăng” để canh tác 175.400 ha lúa; hơn 104.400 nông dân được đào tạo quy trình sản xuất lúa “1 phải 5 giảm” với diện tích trên 146.800 ha lúa.
Qua thống kê của các địa phương, tỷ lệ áp dụng sau đào tạo đạt hơn 80%. Ngoài ra, các tổ chức nông dân tham gia dự án còn được đào tạo kỹ năng quản lý hợp tác xã, kỹ thuật luân canh, nhân giống lúa xác nhận, sản xuất lúa VietGAP…
Theo Ban quản lý Dự án VnSAT, giai đoạn 2021 – 2022, có tổng số 86 tiểu dự án đầu tư công tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (chia làm 87 gói thầu) với tổng vốn đầu tư trên 1.094 tỷ đồng. Hầu hết các gói thầu đã được trao hợp đồng và triển khai từ tháng 10 năm ngoái.
Do ảnh hưởng mùa mưa tại Nam Bộ và dịch bệnh Covid-19 nên đến cuối tháng 11/2021, các Ban quản lý Dự án VnSAT địa phương và nhà thầu mới có thể đẩy nhanh tiến độ thi công các gói thầu xây dựng công thủy lợi, giao thông, kho bảo quản lúa, các thiết bị thu hoạch, bảo quản, sơ chế lúa gạo…
Đến nay, cơ bản các gói thầu thi công đạt từ 40% đến 50% khối lượng hợp đồng; một số tỉnh như Sóc Trăng, Tiền Giang tiến độ đạt từ 60% đến 70% khối lượng hợp đồng.
Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Quốc Doanh nhận định, Dự án đã thay đổi thói quen, tập quán sản xuất lúa và cà phê của nông dân. Tuy nhiên, thời gian gia hạn Dự án còn rất ngắn.
Vì vậy, Thứ trưởng Doanh đề nghị các địa phương quan tâm một số vấn đề để Dự án hoàn thành được trọn vẹn. Đồng thời yêu cầu Ban quản lý Dự án VnSAT Trung ương phối hợp với các địa phương rà soát lại từng tiểu dự án, nhất là đối với các địa phương có các tiểu dự án trong diện có nguy cơ không hàn thành đúng tiến độ. Đối với các tiểu dự án của giai đoạn trước còn tồn đọng, yêu cầu đến 30/4 phải hoàn thành dứt điểm.
Tuy thời gian gấp rút, nhưng Thứ trưởng Lê Quốc Doanh cũng lưu ý các địa phương trong kiểm tra chất lượng, mỹ quan của công trình, không vì thời gian ngắn mà thiếu kiểm soát.
Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/du-an-vnsat-giup-nong-dan-chuyen-doi-phuong-thuc-canh-tac
Hội đồng thẩm định đánh giá tiêu chuẩn cơ sở 02 loại phân bón của CTCP Đầu tư Tiến Đông họp ngày 13/03/2022
Ngày 13/03/2022 tại Hà Nội, Hội đồng khoa học cấp cơ sở của Viện Ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam, căn cứ yêu cầu và đề nghị của Công ty Cổ phần đầu tư Tiến Đông, thành lập Hội đồng thẩm định đánh giá tiêu chuẩn cơ sở 02 loại phân bón của CTCP Đầu tư Tiến Đông.
Thùy Linh
Công văn số 175/BVTV-ATTP ngày 20/01/2022 về Hướng dẫn doanh nghiệp sản xuất thực phẩm có nguồn gốc thực vật thực hiện việc đăng ký xuất khẩu vào Trung Quốc
Công văn số 175/BVTV-ATTP ngày 20/01/2022 về Hướng dẫn doanh nghiệp sản xuất thực phẩm có nguồn gốc thực vật thực hiện việc đăng ký xuất khẩu vào Trung Quốc
Ngày 20/01/2022, Cục Bảo vệ thực vật ban hành công văn số 175/BVTV-ATTPMT ngày 20/01/2022 về việc hướng dẫn doanh nghiệp sản xuất thực phẩm có nguồn gốc thực vật thực hiện việc đăng ký xuất khẩu vào Trung Quốc.
Nội dung công văn số 175/BVTV-ATTPMT ngày 20/01/2022
Tài liệu hướng dẫn sử dụng Hệ thống Quản lý đăng ký cho các doanh nghiệp thực phẩm nhập khẩu ở nước ngoài của Trung Quốc
Chi tiết các biểu mẫu (bản word).
Tình trạng ùn ứ nông sản tại cửa khẩu tiếp tục tái diễn
Tình trạng ùn ứ nông sản tại cửa khẩu tiếp tục tái diễn
Bà Đoàn Thu Hà, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn thông tin, hàng hóa nông sản của chúng ta bị ùn ứ tại các cửa khẩu đã được giải quyết trước Tết. Tuy nhiên, sau Tết Nguyên đán đến nay, việc ùn ứ trở lại, xuất hiện ở các cửa khẩu biên giới phía Bắc.
Đến sáng ngày 4/3, tại Lạng Sơn, lượng xe đang chờ xuất khẩu tại các cửa khẩu là 1.400 xe, trong đó có 800 xe chở nông sản. Trong khoảng thời gian này, tỉnh đang tạm dừng tiếp nhận hoa quả tươi đến các cửa khẩu Lạng Sơn đến thời điểm 15/3.
Lãnh đạo tỉnh Lạng Sơn cho biết, để đảm bảo quy trình hoạt động thông quan, đặc biệt là hàng nông sản, các cơ quan chức năng tại cửa khẩu Lạng Sơn phải thực hiện các phương thức giao nhận hàng hóa chưa có tiền lệ.
Cụ thể, tỉnh này cố gắng trao đổi hàng ngày, hàng giờ với các cơ quan chức năng của phía bạn để đảm bảo quy trình thông quan, đặc biệt đối với hàng nông sản đang vào chính vụ.
Đến thời điểm hiện nay, có 13/78 cửa khẩu hoạt động. Tuy nhiên từ 26/2 đến nay, hàng nông sản chỉ xuất khẩu qua cửa khẩu Lạng Sơn. Các cửa khẩu ở địa phương khác đã tạm dừng.
“Cùng với các biện pháp chúng tôi triển khai tích cực, trong đó cả việc tạm dừng tiếp nhận phương tiện chở hoa quả tươi lên cửa khẩu, tuy nhiên hàng ngày xe chở hàng vẫn lên Lạng Sơn bằng nhiều hình thức khác nhau”, bà Đoàn Thu Hà nói.
Bà Hà cho biết, việc thiết lập “vùng xanh” để đảm bảo an toàn phòng chống dịch, đã được tỉnh thiết lập và triển khai ở khu biên giới. Tuy nhiên, tiêu chí, điều kiện về y tế với người cũng như phương tiện hàng hóa của chúng ta và phía bạn còn quy định khác nhau, chưa thống nhất, gây khó khăn, ảnh hưởng đến hiệu suất thông quan.
Ngoài ra, tỉnh cũng đã thực hiện phương thức hạn chế tiếp xúc, tuy nhiên năng lực thông quan chưa được cải thiện trong khi hàng hóa vẫn tiếp tục lên cửa khẩu, tình trạng ùn tắc vẫn sẽ tiếp diễn trong thời gian tới.
Bà Hà lo lắng, nông sản đang vào chính vụ trong khi tiêu thụ nội địa chưa được nhiều, cơ bản vẫn chuyển lên cửa khẩu, cho nên hiện tượng ùn ứ hàng hóa tại cửa khẩu sẽ vẫn tiếp diễn.
“Chúng tôi dự kiến từ 15/3 đến 20/4, lượng xe hoa quả nông sản qua cửa khẩu Lạng Sơn lên tới 2.000 xe, bởi xung quanh địa bàn cửa khẩu đã có 500 xe lên và chờ hết thời gian tạm dừng tiếp nhận nông sản để vào các cửa khẩu Lạng Sơn. Lượng xe vẫn có tiếp tục tăng trong thời gian tới khi nông sản đang vào chính vụ”, bà Hà chia sẻ.
Do đó, bà Hà mong muốn, các Bộ Công Thương, NN-PTNT, các cơ quan, các địa phương thúc đẩy các kênh tiêu thụ nội địa đặc biệt trong thời gian hiện nay. Đồng thời, đẩy mạnh chế biến cũng như mở lại, khôi phục lại một số hoạt động xuất khẩu nông sản để giảm tải áp lực xuất khẩu tại các cửa khẩu Lạng Sơn hiện nay, tránh thiệt hại kinh tế cho người dân, doanh nghiệp.
Ông Phan Văn Chinh, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho hay, tình trạng ùn ứ hàng hoá tại cửa khẩu trước đây đã có, tuy nhiên tình hình lần này có điểm khác so với trước, đó là Trung Quốc thực hiện chính sách “zero Covid”. Việc kiểm tra chặt chẽ dịch bệnh theo chính sách này khiến thông quan bị hạn chế rất nhiều.
Từ khi xảy ra vấn đề này, liên bộ ngành đã đưa ra nhiều giải pháp để tháo gỡ, như: Thủ tướng đã có điện đàm với phía bạn, Bộ Công Thương, Bộ NN-PTNT cũng liên tục có điện đàm, các địa phương sát biên giới cũng tăng cường giao thiệp.
“Có thể thấy việc thông quan chưa triệt để nhưng những nỗ lực này cũng đã có hiệu quả. Cụ thể, từ ngày 25/1 đến nay, với những nỗ lực ngoại giao và việc điều tiết trong nước đã có 15.000 xe thông quan. Trước đây chỉ 7/13 cửa khẩu mở và thông quan hạn chế nhưng đến nay đã mở 13 cửa khẩu”, ông Chinh thông tin.
Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/tinh-trang-un-u-nong-san-tai-cua-khau-tiep-tuc-tai-dien