Với những công nghệ máy móc hiện đại bậc nhất, được đầu tư theo chủ trương của lãnh đạo đến từ Nhật Bản. Nhà máy chế biến các sản phẩm từ rau, củ, quả: tinh dầu, nước ép, rau củ quả tươi cấp đông…. Đặc biệt là hệ thống chiết suất đạt ngưỡng tới hạn mà trên thế giới hiện nay chỉ có 07-09 nước trang bị được hệ thống này, để làm ra các sản phẩm như tinh dầu tiêu, tinh dầu gừng, tinh dầu trầm… Hứa hẹn sẽ tạo ra một số sản phẩm chức năng có thể chữa hiệu quả một số bệnh về dạ dạy, tiêu hoá… mà hiện tại ở Việt Nam chưa có. Halal Việt Nam hân hạnh được đồng hành cùng Hikari Đà Lạt cho những tiêu chuẩn và chiến lược phù hợp cho thị trường trong thời gian tới!
Thông tin doanh nghiệp:
Công Ty Cổ Phần HIKARI Đà Lạt.
Địa chỉ: Lô F4-F5a, Khu Công Nghiệp Phú Hội, Phú Hội, Đức Trọng, Lâm Đồng.
Điện thoại: 0263 886 686 – 0868 131 515
Mail: info@hikaridalat.vn
Website: https://hikaridalat.vn/
NDO – Ngày 23/4, tại Hội nghị kết nối, thỏa thuận hợp tác tiêu thụ vải thiều tỉnh Bắc Giang năm 2025 đã diễn ra lễ ký kết biên bản ghi nhớ và hợp đồng giữa các đơn vị sản xuất, cung ứng dịch vụ và phân phối.
Ký kết hợp tác tiêu thụ vải thiều Bắc Giang 2025.
Tại hội nghị, ông La Văn Nam, Phó Giám đốc Sở Công thương tỉnh Bắc Giang nhấn mạnh giá trị kinh tế của vải thiều năm 2025 ước đạt gần 5.000 tỷ đồng. Với diện tích 29.700ha, sản lượng dự kiến đạt 165.000 tấn, chất lượng vải năm nay được đánh giá cao nhất từ trước đến nay nhờ thời tiết thuận lợi, tỷ lệ ra hoa trên 90% và kiểm soát chặt chẽ 240 mã vùng trồng theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP.
Tỉnh Bắc Giang đã ban hành kế hoạch xúc tiến thương mại, hỗ trợ nông dân kỹ thuật canh tác, bảo đảm an toàn thực phẩm và mở rộng thị trường xuất khẩu tới hơn 30 quốc gia như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và Trung Đông. Tỉnh cũng đẩy mạnh tiêu thụ trực tuyến qua các sàn thương mại điện tử (Buudien.vn, Shopee, Lazada) và mạng xã hội (TikTok, Facebook).
Ông Nam kêu gọi các siêu thị, sàn thương mại điện tử và đơn vị logistics hợp tác chặt chẽ, tối ưu hóa vận chuyển để bảo đảm vải thiều tươi ngon đến tay người tiêu dùng, đồng thời cam kết cung cấp dịch vụ hậu cần tốt nhất, từ nguồn vốn, kho bãi đến an ninh, trật tự.
Chăm sóc vải thiều tại Bắc Giang.
Cũng tại hội nghị, các đơn vị như Hợp tác xã Hồng Xuân, Viettel Post, Công ty vận tải đường sắt RATRACO, sàn thương mại điện tử Nongsan.buudien.vn và Tập đoàn MM Mega Market thảo luận để làm rõ các khâu sản xuất, logistics, phân phối vải thiều năm 2025. Hợp tác xã Hồng Xuân chia sẻ thành tựu đạt chứng nhận GlobalGAP và khó khăn về hạ tầng, hạn hán. MM Mega Market cam kết tiêu thụ 2.000 tấn vải, trong đó 60 tấn xuất khẩu, qua chương trình khuyến mãi tháng 5-6.
Tại đây, các đơn vị đã ký kết nhiều thỏa thuận hợp tác tiêu thụ vải thiểu như; các Hợp tác xã (Thanh Hải, Phì Điền, Lục Ngạn Xanh, Hồng Xuân) ký kết với Viettel Post, Central Retail, MM Mega Market, sàn thương mại điện tử Nongsan.buudien.vn và RATRACO, bảo đảm cung ứng vải thiều cho siêu thị, chợ đầu mối, sàn thương mại điện tử, và thị trường xuất khẩu.
Khẳng định cam kết hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp về logistics, an ninh và xúc tiến thương mại, ông Dương Ngọc Chiên, Giám đốc Sở Công thương tỉnh Bắc Giang kêu gọi các đối tác tiếp tục đồng hành, mở rộng kênh phân phối để đưa vải thiều Bắc Giang đến gần hơn với người tiêu dùng toàn cầu, củng cố thương hiệu vải thiều Bắc Giang, hứa hẹn vụ mùa 2025 thành công rực rỡ.
(Chinhphu.vn) – Bắc Giang, thủ phủ vải thiều của cả nước, đang bước vào vụ mùa 2025 với nhiều kỳ vọng lớn dù đối mặt với không ít thách thức từ thời tiết và nguồn nước tưới. Với sự chuẩn bị bài bản từ sản xuất đến tiêu thụ, tỉnh đang nỗ lực để đảm bảo một vụ mùa thành công, vừa nâng cao giá trị kinh tế, vừa khẳng định thương hiệu vải thiều trên thị trường trong và ngoài nước.
Vải thiều tại Bắc Giang hiện nay (25/4/2025) đang bắt đầu trổ quả, kích cỡ tương đương đầu đũa. Ảnh: Trịnh Duy Dũng
Sản lượng và chất lượng cao
Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Bắc Giang, năm 2025, diện tích vải thiều toàn tỉnh được duy trì ổn định ở mức 29.700 ha, bao gồm 8.000 ha vải sớm và 21.700 ha vải chính vụ. Sản lượng dự kiến đạt 165.000 tấn, trong đó vải sớm ước tính 60.650 tấn và vải chính vụ 104.350 tấn. Giá trị sản xuất vải thiều được kỳ vọng đạt khoảng 5.000 tỷ đồng. Thời gian thu hoạch vải sớm sẽ diễn ra từ ngày 20/5 đến 15/6, trong khi vải chính vụ bắt đầu từ 10/6 và kéo dài đến 20/7/2025.
Dù thời tiết năm nay không thuận lợi với tình trạng nắng nóng và khô hạn kéo dài, tỷ lệ ra hoa của cây vải thiều vẫn đạt trên 90%, tỷ lệ đậu quả đạt hơn 80%. Tại Hội nghị kết nối, thỏa thuận hợp tác tiêu thụ vải thiều năm 2025 diễn ra ngày 23/4, ông Lê Bá Thành, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Bắc Giang khẳng định: “Chất lượng vải thiều Bắc Giang năm nay cao hơn năm trước và có thể nói là tốt nhất từ trước đến nay.” Hiện tại, tỉnh có 16.000 ha vải thiều đạt tiêu chuẩn VietGAP, 204 ha đạt GlobalGAP và 10 ha sản xuất theo hướng hữu cơ, đảm bảo đáp ứng các yêu cầu khắt khe của thị trường.
Để đạt được kết quả này, ngay từ đầu vụ, Bắc Giang đã triển khai nhiều biện pháp quyết liệt. Các mã số vùng trồng được kiểm soát chặt chẽ với 240 mã số và 39 cơ sở sơ chế, đóng gói xuất khẩu. Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật được giám sát nghiêm ngặt, đảm bảo không sử dụng chất cấm hay chất gây hại. Ngành nông nghiệp cũng tăng cường theo dõi sâu bệnh, áp dụng các biện pháp phòng trừ kịp thời với phương châm lấy chất lượng và an toàn làm yếu tố cốt lõi.
Mặc dù triển vọng sản lượng và chất lượng khả quan, một lo ngại lớn hiện nay là tình trạng thiếu nước tưới. Nhiều tháng qua, Bắc Giang gần như không có mưa, dẫn đến một số cây vải ở vùng cao bị chết do hạn. Để khắc phục, ngành nông nghiệp đang tập trung hướng dẫn nông dân các biện pháp chăm sóc, kiểm soát chặt chẽ vật tư đầu vào, đồng thời dự báo kịp thời tình hình sâu bệnh để có biện pháp ứng phó hiệu quả. Những nỗ lực này không chỉ giúp giảm thiểu thiệt hại mà còn đảm bảo chất lượng quả vải trong bối cảnh thời tiết bất lợi.
Phát triển kênh tiêu thụ đa dạng
Bắc Giang đang áp dụng chiến lược tiêu thụ đa dạng, kết hợp giữa thị trường trong nước và xuất khẩu, đồng thời đổi mới phương thức bán hàng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Ông La Văn Nam, Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Bắc Giang, cho biết tỉnh xác định coi trọng tất cả các thị trường, từ nội địa đến quốc tế.
Về thị trường trong nước, tỉnh Bắc Giang đã chủ động kết nối ngay từ đầu vụ với các hệ thống phân phối lớn như Tập đoàn Central Retail, MM Mega Market Việt Nam, Saigon Co.op (Co.opmart), WinCommerce (WinMart), cùng các chợ đầu mối và chợ truyền thống tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Đồng Nai và nhiều tỉnh, thành phố khác. Các doanh nghiệp, thương nhân trong cả nước cũng được khuyến khích tham gia ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm với các hợp tác xã và nhà vườn.
Thị trường xuất khẩu cũng tiếp tục được mở rộng. Trung Quốc vẫn là thị trường truyền thống với quan hệ hợp tác lâu năm, nhưng tỉnh cũng chú trọng đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường tiềm năng như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Malaysia, UAE, Singapore, Trung Đông, Thái Lan và Canada. Sản phẩm xuất khẩu bao gồm cả vải tươi và vải chế biến, nhằm đa dạng hóa sản phẩm và tăng giá trị gia tăng.
Đặc biệt, Bắc Giang đang đổi mới phương thức tiêu thụ bằng cách kết hợp bán hàng truyền thống với thương mại điện tử. Vải thiều được đưa lên các sàn thương mại điện tử trong và ngoài nước, cũng như quảng bá trên các nền tảng mạng xã hội như TikTok, Facebook, Zalo, Youtube. Các trung tâm thương mại, siêu thị, chợ đầu mối được khuyến khích mở rộng mạng lưới thu mua, ưu tiên phân phối vải thiều, đảm bảo đưa sản phẩm tươi ngon nhất đến tay người tiêu dùng.
Bắc Giang cam kết tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp, thương nhân trong và ngoài nước tham gia thu mua, chế biến và tiêu thụ vải thiều. Tỉnh đã chỉ đạo đơn giản hóa thủ tục hành chính, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện vật tư, dịch vụ phụ trợ phục vụ sản xuất và kinh doanh. Các đơn vị logistics, chuyển phát nhanh cũng được khuyến khích nghiên cứu giải pháp bảo quản, xây dựng chuỗi logistics chuyên biệt với chi phí hợp lý, rút ngắn thời gian vận chuyển để đảm bảo vải thiều luôn tươi ngon khi đến tay người tiêu dùng.
Trong thời gian tới, Bắc Giang sẽ xây dựng hệ thống logistics hiện đại để đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa ngày càng tăng, đồng thời phát triển các chợ nông sản đầu mối. Tỉnh cũng kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào các trung tâm logistics tại địa phương. Ngoài ra, Bắc Giang sẽ tham gia hội chợ trái cây tại Mỹ Tho (Cần Thơ) vào tháng 5/2025 để quảng bá vải thiều cùng các nông sản và nét văn hóa đặc sắc đến người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Bắc Giang không chỉ dừng lại ở việc tiêu thụ vải thiều tươi mà còn hướng đến chế biến sâu để gia tăng giá trị. Các sản phẩm chế biến từ vải như trà, đồ uống, bánh, mứt đang được khuyến khích phát triển, giúp kéo dài thời gian tiêu thụ và giảm áp lực mùa vụ. Việc sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP và hữu cơ cũng được mở rộng, nhằm đáp ứng yêu cầu khắt khe của các thị trường quốc tế, đồng thời nâng cao giá trị thương hiệu “Vải thiều Lục Ngạn” – sản phẩm OCOP 5 sao nổi tiếng.
Thiếu quỹ đất khiến nhiều hợp tác xã nông nghiệp ở Thái Nguyên khó triển khai sản xuất tập trung quy mô lớn hoặc ứng dụng khoa học công nghệ, ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển bền vững kinh tế hợp tác.
Với quỹ đất lớn cùng nguồn nước ổn định, phường Túc Duyên (TP Thái Nguyên) đã trở thành vựa rau của cả tỉnh với nhiều phương pháp canh tác tiên tiến. Ảnh: Việt Bắc
Theo thống kê, tính đến hết năm 2024, trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có 541 Hợp tác xã (HTX) nông nghiệp với 32.000 thành viên, người lao động. Các HTX đã khẳng định vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao thu nhập cho thành viên, người lao động với thu nhập bình quân đạt từ 4 – 4,5 triệu đồng/người/tháng,
Tuy nhiên, việc phát triển kinh tế hợp tác xã tại Thái Nguyên gặp phải một số vấn đề mang tính cố hữu, một trong số đó là quỹ đất để các HTX hoạt động sản xuất ổn định, lâu dài. Thiếu quỹ đất đã và đang ảnh hưởng lớn đến tính cạnh tranh, sự phát triển bền vững của HTX.
HTX dịch vụ nông nghiệp Lương Phú tại Phú Bình thành lập năm 2017, với 7 thành viên. Hiện nay, HTX có khoảng hơn 3ha đất chủ yếu là trồng dưa chuột. Tuy vậy số đất này lại phân tán theo sở hữu của từng thành viên, việc không tập trung trên một diện tích lớn đã khiến những định hướng về sản xuất của hợp tác xã này gặp khó.
Bà Âu Thị Phương Hà – Phó Giám đốc HTX Phú Lương – cho biết, “Dù định hướng của HTX là tạo ra những sản phẩm rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ nhưng đến nay chưa thực hiện được. Việc sản xuất trên đất riêng lẻ, không liên tục trong năm, dẫn đến khó khăn trong việc kiểm soát chặt chẽ về điều kiện canh tác, nguồn nước, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật” – bà Hà chia sẻ.
Không chỉ gặp khó trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, việc thiếu quỹ đất sản xuất tập trung còn khiến HTX khó trong triển khai các phương án cơ giới hóa, đầu tư hạ tầng để phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Tại HTX dịch vụ nông nghiệp Nam Hòa, huyện Đồng Hỷ, dù đã có nhiều năm hoạt động hiệu quả trong việc liên kết trong trồng một số loại rau ăn lá và ăn quả, nhưng HTX vẫn gặp khó khăn khi muốn ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất bởi đất đai phân tán nhỏ lẻ.
“Ai cũng hiểu được ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất sẽ nâng cao chất lượng, năng suất và cả giá thành sản phẩm nhưng làm được với chúng tôi cũng không dễ. Đơn cử như chúng tôi có ý định đầu tư nhà kính, nhà màng để trồng rau theo tiêu chuẩn mới nhưng 5 năm nay chưa làm được vì đất canh tác nằm rải rác”, ông Miêu Văn Long – Giám đốc HTX Nam Hòa – cho hay.
Theo Liên minh HTX tỉnh Thái Nguyên, hơn 4 năm qua (từ năm 2020 đến 2024) toàn tỉnh đã tăng thêm được 175 HTX, tuy vậy số hợp tác xã thực sự hoạt động hiệu quả chỉ chiếm trên 55%. Một trong những nguyên nhân là do nhiều HTX chưa có hoặc chưa thể tiếp cận được với nguồn lực đất đai.
Bà Vũ Thị Thu Hương – Phó Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh Thái Nguyên – cho biết, việc hỗ trợ để các HTX được tiếp cận nhiều hơn với các nguồn vốn vay ưu đãi, từ đó các HTX có điều kiện để thuê lại đất sản xuất lâu dài của người dân để phục vụ sản xuất sẽ giúp các hợp tác xã phát triển ổn định, có tính lâu dài.
“Sớm tháo gỡ những khó khăn về đất đai sẽ giúp các hợp tác xã nông nghiệp nâng tầm hoạt động, đưa sản phẩm nông nghiệp địa phương vào chuỗi giá trị cao hơn, góp phần nâng cao đời sống người dân” – bà Hương nhận định.
Thái Nguyên đặt mục tiêu tăng trưởng 3,5% giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản trong năm 2025. Đây là một nhiệm vụ không hề dễ dàng khi tỉnh đang phải đối mặt với nhiều khó khăn từ kinh tế toàn cầu đến những thách thức nội tại của ngành. Tuy nhiên, với quyết tâm “tăng tốc, bứt phá” và kỳ vọng vào sự tham gia mạnh mẽ của nông nghiệp công nghệ cao, Thái Nguyên đang nỗ lực hiện thực hóa mục tiêu này…
Người nông dân Thái Nguyên thu hoạch trà tại Đồi chè Tân Cương
Bức tranh kinh tế đầu năm 2025 của Thái Nguyên cho thấy nhiều gam màu xám đối với ngành nông nghiệp tại địa phương này. Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị quý 1/2025 của tỉnh ghi nhận sự tăng trưởng chung của các lĩnh vực kinh tế – xã hội, nhưng riêng ngành nông nghiệp lại có mức tăng trưởng thấp hơn bình quân và đáng lo ngại hơn là thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2024.
KHÓ KHĂN “BỦA VÂY” VÀ KỲ VỌNG NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
Những khó khăn này không chỉ đến từ yếu tố nội tại mà còn chịu tác động mạnh mẽ từ tình hình kinh tế thế giới và trong nước. Sự phục hồi chậm của kinh tế toàn cầu, tình trạng lạm phát, giá cả nguyên vật liệu đầu vào ở mức cao đang gây áp lực lên chi phí sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế sâu rộng và sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường tiêu thụ nông sản, đặc biệt là với các tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng từ các nước nhập khẩu, đang đặt ra những rào cản không nhỏ cho hoạt động xuất khẩu, nhất là mặt hàng chè vốn là thế mạnh của Thái Nguyên.
Trong nước, nguy cơ bùng phát các dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trên đàn gia súc, gia cầm như cúm gia cầm, dịch tả lợn châu Phi vẫn luôn tiềm ẩn. Mặt khác, kinh tế hộ gia đình vẫn chiếm tỷ trọng lớn tại Thái Nguyên, việc ứng dụng sản xuất an toàn nhờ công nghệ cao còn hạn chế, cùng với đó là sự chậm phát triển của công nghiệp chế biến nông sản và công nghiệp phụ trợ.
Mặc dù đối diện với không ít thách thức, lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên vẫn thể hiện quyết tâm cao độ trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội năm 2025. Tại Kỳ họp thứ XXIII, Hội đồng nhân dân tỉnh mới đây, Bí thư Tỉnh uỷ Trịnh Việt Hùng nhấn mạnh năm 2025 là năm “tăng tốc, bứt phá” để tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Mục tiêu tăng 3,5% giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản được đánh giá là khả thi, dù những tháng đầu năm có những khó khăn nhất định.
Theo đó, để đạt được mục tiêu này, Thái Nguyên xác định cơ cấu lại ngành nông nghiệp, đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, an toàn và hữu cơ là giải pháp then chốt. Tỉnh có nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp công nghệ cao, trước hết là sự quan tâm đầu tư của chính quyền địa phương. Chiến lược phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Thái Nguyên tập trung vào việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng của nông sản, đặc biệt là phát triển và nâng cao giá trị cây chè Thái Nguyên.
Nông dân Thái Nguyên đã và đang ứng dụng các công nghệ tiên tiến như nhà màng, nhà lưới để kiểm soát môi trường sản xuất, hệ thống tưới phun, tưới nhỏ giọt tự động, canh tác trên giá thể và sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP và hướng hữu cơ.
Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên Nguyễn Huy Dũng khẳng định việc ứng dụng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo là lựa chọn duy nhất và tất yếu để các hợp tác xã nông nghiệp duy trì lợi thế cạnh tranh và vươn lên trong kỷ nguyên mới.
ỨNG DỤNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Thái Nguyên đang tích cực thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng tập trung, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, sản xuất an toàn, hữu cơ, phù hợp với nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao thành công đã được triển khai, đặc biệt trong lĩnh vực trồng chè, rau, hoa và cây ăn quả.
Việc ứng dụng công nghệ trong sản xuất chè, từ khâu trồng trọt theo hướng hữu cơ đến bảo quản, chế biến và quảng bá sản phẩm, đang được đẩy mạnh. Tỉnh cũng tập trung phát triển các sản phẩm nông nghiệp chủ lực và sản phẩm OCOP gắn với ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số, đồng thời tăng cường liên kết giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ, xây dựng thương hiệu và nâng cao giá trị nông sản trong chuỗi giá trị.
Tỉnh khuyến khích kinh tế hộ, kinh tế hợp tác xã, thu hút doanh nghiệp đầu tư, cải tiến quản lý nhà nước để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp, đồng thời tăng cường quảng bá, xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm.
Với Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, Thái Nguyên sẽ có thêm động lực để phát triển nông nghiệp công nghệ cao trong năm 2025 và tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp trong những năm tiếp theo.
Chiều 9/4, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến tiếp và làm việc với Trưởng Cơ quan Thú y Anh, bàn giải pháp hợp tác nông nghiệp, thương mại và phát triển chuỗi giá trị nông sản.
Thứ trưởng Bộ NN-MT Phùng Đức Tiến đã có buổi tiếp và làm việc với bà Christine Middlemiss, Trưởng Cơ quan Thú y (CVO), Bộ Môi trường, Thực phẩm và Các vấn đề nông thôn Vương quốc Anh và Bắc Ireland. Ảnh: Phương Linh.
Tại buổi làm việc, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến ghi nhận sự phối hợp của Trưởng Cơ quan Thú y Christine Middlemiss và các cán bộ Đại sứ quán Anh tại Việt Nam trong suốt thời gian qua nhằm thúc đẩy các hoạt động hợp tác song phương trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.
Thứ trưởng cho biết, năm 2024, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam đạt mức kỷ lục 62,5 tỷ USD, tăng 18,7% so với năm 2023. Việt Nam hiện đứng thứ 15 thế giới về xuất khẩu nông sản, với 10 mặt hàng có giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó 7 mặt hàng vượt mốc 3 tỷ USD, bao gồm: gạo, rau quả, thủy sản, hạt điều, cà phê, gỗ và sản phẩm từ gỗ. Anh hiện là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam tại châu Âu và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 9 của Việt Nam trên toàn cầu.
Thời gian tới, Thứ trưởng đề nghị cơ quan hai nước tăng cường trao đổi thông tin, đặc biệt là lĩnh vực thú y về phòng, chống dịch bệnh ở gia súc, gia cầm và các phương pháp chẩn đoán, xét nghiệm và xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh.
“Chúng tôi mong muốn tổ chức những cuộc trao đổi luân phiên, các doanh nghiệp của Việt Nam và Anh cùng chia sẻ để hiểu biết nhau hơn, từ đó giúp nông sản Việt Nam hội nhập sâu hơn vào thị trường Anh”, Thứ trưởng nói.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đánh giá cao chương trình chia sẻ vaccine giữa hai bên, đặc biệt là các sáng kiến liên quan đến thủy sản và chăn nuôi. Ảnh: Phương Linh.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam đề nghị Vương quốc Anh ưu tiên triển khai các chương trình, dự án hỗ trợ đào tạo cán bộ chuyên môn của Việt Nam trong lĩnh vực chăn nuôi, thú y; hỗ trợ tăng cường năng lực phòng thí nghiệm và hợp tác trong nghiên cứu, sản xuất vaccin phòng bệnh cho gia súc, gia cầm và thủy sản.
Bên cạnh đó, đề xuất phía Anh đưa các chuyên gia sang hỗ trợ trong khuôn khổ các chương trình nâng cao tiêu chuẩn quốc tế cho doanh nghiệp Việt Nam; đồng thời phối hợp định kỳ tổ chức các tọa đàm kết nối doanh nghiệp nông nghiệp giữa hai nước, nhằm quảng bá và thúc đẩy thương mại các sản phẩm nông lâm thủy sản Việt Nam tại thị trường nội địa và Vương quốc Anh.
“Việc tổ chức tọa đàm thường niên sẽ góp phần cụ thể hóa các cam kết trong Bản ghi nhớ đã được ký giữa hai Bộ từ tháng 11/2022, đồng thời mở rộng kết nối giữa các doanh nghiệp trong cả thương mại lẫn đầu tư”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.
Về tiềm năng hợp tác, Việt Nam luôn nhất quán trong quan điểm điều phối lợi ích một cách hài hòa và sẵn sàng cùng chia sẻ rủi ro trong quá trình hợp tác. “Vương quốc Anh là một nền kinh tế lớn, phía Việt Nam sẵn sàng ủng hộ để ngày càng có nhiều mặt hàng của Anh được nhập khẩu và tiêu thụ tại Việt Nam”, Thứ trưởng nhấn mạnh.
Thứ trưởng cũng bày tỏ sự đồng tình trong việc thúc đẩy nhập khẩu thịt bò từ Vương quốc Anh vào Việt Nam với quy mô lớn hơn trong thời gian tới.
Bà Christine Middlemiss, Trưởng Cơ quan Thú y (CVO), Bộ Môi trường, Thực phẩm và Các vấn đề nông thôn Vương quốc Anh và Bắc Ireland. Ảnh: Phương Linh.
Về phần mình, bà Christine Middlemiss bày tỏ sự ấn tượng với những thành tựu trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển bền vững của Việt Nam và đánh giá cao tiềm năng hợp tác giữa hai bên trong lĩnh vực thú y, an toàn dịch bệnh, và nghiên cứu phát triển công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp.
Bà Christine Middlemiss chia sẻ thêm, Anh sẽ tiếp tục triển khai các dự án hỗ trợ nông nghiệp và môi trường Việt Nam. Đồng thời, phối hợp cùng Việt Nam để đẩy mạnh nghiên cứu về kháng kháng sinh trên gia cầm.
“Chính phủ Anh đã phân bổ 12 triệu bảng Anh cho Trường Đại học Stirling (Scotland) để triển khai hỗ trợ Trường Đại học Mê Kông trong nghiên cứu và phát triển vaccin cho cá basa – một dự án có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nông sản cho cả hai quốc gia”, bà chia sẻ.
“Phía Vương quốc Anh mong muốn được tiếp tục trao đổi sâu hơn về mặt kỹ thuật, hướng tới xây dựng một model phát triển cho ngành gà. Chúng tôi hy vọng sẽ có cơ hội gặp gỡ và trao đổi kỹ hơn với phía Việt Nam tại Hội nghị của Tổ chức Thú y Thế giới (WOAH) tổ chức tại Pháp vào tháng 5 tới đây”, bà Christine Middlemiss nói.
Trưởng Cơ quan Thú y Vương quốc Anh cũng đề nghị thúc đẩy nhập khẩu thịt bò vào Việt Nam với quy mô lớn hơn trong thời gian tới.
Sau hơn một năm triển khai, Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao khẳng định sự đúng đắn, nhưng cần giải pháp đột phá để đi vào chiều sâu trong giai đoạn tới.
Sáng 9/4, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy chủ trì Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện Đề án “Phát triển bền vững một triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030” (gọi tắt là Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao).
Hội nghị còn có sự tham dự của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam và các đơn vị trực thuộc; Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đào Minh Tú; đại diện lãnh đạo UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp và Môi trường 12 tỉnh, thành vùng ĐBSCL; cùng các tổ chức quốc tế, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp và hợp tác xã tham gia đề án.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy chủ trì Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao tại TP Cần Thơ. Ảnh: Kim Anh.
Sau hơn một năm thực hiện Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy khẳng định, đề án là bước đi chủ động, “đi trước, đi sớm” đón đầu xu hướng tiêu dùng xanh và hoàn toàn phù hợp với định hướng phát triển nông nghiệp bền vững. Bởi nếu không có sự chuẩn bị từ bây giờ, các doanh nghiệp – đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu lúa gạo sẽ đối mặt với nguy cơ bị loại khỏi thị trường quốc tế.
Bộ trưởng nhận định, tới một thời điểm nào đó, thế giới sẽ tuyên bố ngừng nhập khẩu lúa gạo không đạt tiêu chí phát thải thấp. Lúc ấy, chỉ những sản phẩm gạo xanh, canh tác theo quy trình giảm phát thải mới vào được các thị trường khó tính.
Thực tế, điều tương tự đã xảy ra với ngành thủy sản và gỗ. Nếu như trước đây, xuất khẩu thủy sản khá thuận lợi, thì hiện nay bắt buộc phải minh bạch từ khâu truy xuất nguồn gốc, kiểm soát dư lượng và kháng sinh, mới có thể vào được những thị trường khó tính.
Ngành gỗ cũng vậy, từng xuất khẩu dễ dàng, nhưng hiện tại muốn tiếp cận thị trường quốc tế, sản phẩm gỗ buộc phải có chứng chỉ FSC về phát triển rừng bền vững.
Lúa gạo – một trong những ngành hàng xuất khẩu chiến lược chắc chắn không nằm ngoài xu hướng này. Việc dán nhãn “gạo phát thải thấp” sẽ trở thành điều kiện tiên quyết để được chấp nhận ở nhiều thị trường.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhận định, tham gia Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao không chỉ là sự chuẩn bị cần thiết, mà còn là cơ hội để doanh nghiệp duy trì và mở rộng thị trường. Ảnh: Kim Anh.
Đến nay, bước đầu Đề án một triệu hecta lúa chất lượng cao đã cho thấy những kết quả tích cực, thể hiện tính đúng đắn, hiệu quả và khả thi. Rõ nét là sự chuyển biến về tư duy và nhận thức của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân về mục tiêu phát triển bền vững ngành lúa gạo Việt Nam.
Từ 7 mô hình thí điểm do Trung ương triển khai tại 5 tỉnh, thành vùng ĐBSCL, đến nay đã mở rộng được 101 mô hình, với tổng diện tích hơn 4.500 ha.
Nông dân từng bước tiếp cận và áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến như: “1 phải 5 giảm”, “3 giảm 3 tăng”, tưới ngập khô xen kẽ (AWD), sử dụng phân bón hợp lý và quan tâm nhiều hơn đến việc giảm phát thải khí nhà kính. Đây là những tiền đề quan trọng để xây dựng, hoàn thiện, chuẩn hóa và nhân rộng quy trình sản xuất lúa bền vững ở ĐBSCL.
Thông qua đề án cũng đã hình thành chuỗi sản xuất lúa gạo bền vững. Một số doanh nghiệp lớn đã tham gia chuỗi giá trị lúa gạo chất lượng cao, hỗ trợ nông dân từ khâu giống, vật tư đầu vào, đến bao tiêu sản phẩm đầu ra.
Bên cạnh đó, Hiệp hội ngành hàng lúa gạo Việt Nam cũng đang phối hợp với các doanh nghiệp, đối tác quốc tế xây dựng bộ nhận diện nhãn hiệu gạo Việt Nam xanh, phát thải thấp.
Khơi thông điểm nghẽn
Mặc dù ghi nhận nhiều kết quả, tuy nhiên, thực tế quá trình triển khai Đề án một triệu hecta vẫn còn những tồn tại, thách thức.
Điển hình, một số địa phương còn lúng túng trong việc hiểu rõ nội hàm của đề án. “Có một số địa phương đặt vấn đề phải đầu tư hạ tầng trước. Điều này đúng, nhưng phải làm song song, không phải chờ làm xong hạ tầng mới triển khai. Có những khâu có thể làm được ngay, kế thừa những dự án đầu tư trước đây”, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy chỉ rõ.
Dự kiến trong năm 2025, diện tích áp dụng quy trình canh tác giảm phát thải sẽ đạt gần 313.000 ha. Ảnh: Kim Anh.
Mặt khác, một số địa phương còn chú trọng vào mục tiêu trao đổi tín chỉ carbon, trong khi mục tiêu chính của đề án là chuyển đổi sản xuất bền vững, giảm chi phí, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng sản phẩm và thu nhập nông dân. Dẫn đến, một số khâu dù rất quan trọng nhưng chưa được chú trọng như: quy trình canh tác, chế biến sâu, đầu tư hệ thống logistics…
Bên cạnh đó, việc xây dựng hạ tầng thủy lợi phục vụ yêu cầu tưới tiêu, quản lý đồng ruộng chưa theo kịp tiến độ, trong khi đây là điều kiện tiên quyết để áp dụng các biện pháp canh tác tiên tiến.
Nhiều nơi, nông dân, HTX và cả doanh nghiệp chưa chủ động đổi mới phương thức sản xuất. Nhất là trường hợp phải đầu tư thêm chi phí ban đầu, còn tâm lý trông chờ vào hỗ trợ của Nhà nước.
Hay vấn đề xử lý phụ phẩm (rơm, rạ) để giảm phát thải mới chỉ dừng lại ở việc thí điểm một số mô hình và khối lượng xử lý còn ở mức thấp.
Những tồn tại, thách thức trên đang trở thành điểm nghẽn, cần được nhận diện và có giải pháp tháo gỡ kịp thời để triển khai đề án hiệu quả hơn trong thời gian tiếp theo.
Do đó, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đề nghị các địa phương vùng ĐBSCL khẩn trương phê duyệt dự án/đề án. Đồng thời ban hành chính sách hỗ trợ theo thẩm quyền và điều kiện cụ thể của địa phương.
Sở Nông nghiệp và Môi trường các tỉnh, thành ĐBSCL thường xuyên phối hợp với doanh nghiệp tổ chức trình diễn, hướng dẫn quy trình canh tác lúa chất lượng cao, giảm phát thải cho nông dân. Ảnh: Kim Anh.
Tiếp tục mở rộng diện tích áp dụng quy trình canh tác bền vững theo lộ trình, xác định diện tích các vùng canh tác, bao gồm các vùng đệm và xây dựng kế hoạch, triển khai cụ thể.
Bên cạnh đó, ưu tiên đầu tư nâng cấp hệ thống thủy lợi nội đồng, phát triển các mô hình tưới tiết kiệm nước, giảm phát thải; cải thiện hạ tầng, kho chứa, logistics, để giảm thất thoát sau thu hoạch…
“Đối với hạ tầng cấp vùng và liên vùng, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ chịu trách nhiệm chính, đề xuất với Chính phủ để tìm kiếm các nguồn lực thực hiện. Nhưng hạ tầng trong từng quy mô diện tích, vùng sản xuất các địa phương phải hết sức chú trọng, bố trí ngân sách địa phương và nguồn vốn lồng ghép để triển khai”, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy cho biết.
Bộ trưởng cũng đề nghị Bộ Công Thương nghiên cứu, tham mưu Chính phủ điều chỉnh, bổ sung chính sách quản lý hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo bảo đảm hiệu quả bền vững; hỗ trợ các đơn vị, doanh nghiệp trong xúc tiến thương mại, phát triển thị trường.
Đối với các tổ chức quốc tế, đối tác phát triển, Bộ trưởng đề nghị phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhằm hỗ trợ kỹ thuật, tài chính, chia sẻ kinh nghiệm. Nhất là sáng kiến huy động nguồn lực tài chính xanh, phục vụ triển khai các mô hình giảm phát thải trong sản xuất lúa.
10
Ứng dụng cơ giới hóa là một trong những giải pháp thúc đẩy sản xuất lúa chất lượng cao, giảm phát thải. Ảnh: Kim Anh.
Đối với các đơn vị thuộc Bộ, Bộ trưởng giao Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật khẩn trương hoàn thiện quy trình đo đếm, báo cáo và kiểm định kết quả phát thải (MRV), quy trình canh tác bền vững trong phạm vi đề án.
Vụ Hợp tác quốc tế được giao nhiệm vụ phối hợp với Cục Biến đổi khí hậu tham mưu, trình thành lập tổ đàm phán Thỏa thuận chi trả giảm phát thải (ERPA). Đồng thời hoàn thiện thủ tục phê duyệt chủ trương đầu tư và triển khai nghiên cứu tiền khả thi cho dự án vốn vay Ngân hàng Thế giới (WB) hỗ trợ đầu tư hạ tầng cho các vùng tham gia đề án.
Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai đề xuất thúc đẩy nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp từ Mỹ, giúp giảm bớt gánh nặng cho ngành chăn nuôi, tạo cơ hội cân bằng thương mại.
1 trại heo giống nhập khẩu khoảng 250 con giống heo cụ kỵ (GGP) mỗi năm, trị giá khoảng 0,5 triệu USD. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Trong bối cảnh khó khăn do chính sách thuế quan của Mỹ áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam, ngày 6/4, Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai có văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp từ Mỹ trước bối cảnh Mỹ công bố áp thuế đối ứng đối với hàng hóa từ Việt Nam với mức thuế suất 46%.
Theo Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai, hiện nay, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đang triển khai chương trình GSM-102, là chương trình cung cấp bảo lãnh tín dụng để khuyến khích xuất khẩu hàng hóa nông nghiệp Mỹ với lãi suất trả chậm chỉ 1%/năm.
Trong khi đó, tại Việt Nam, có 6 ngân hàng được tham gia chương trình GSM-102, nhưng lãi suất các ngân hàng này đưa ra chưa hợp lý, dẫn đến việc triển khai chưa được hiệu quả.
Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai đề xuất Thủ tướng Chính phủ và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quan tâm, xem xét tạo điều kiện cho các ngân hàng bảo lãnh chương trình GSM-102 lãi suất từ 1-1,5% để giảm bớt gánh nặng cho các doanh nghiệp nhập khẩu.
Giải pháp này không chỉ giúp giảm chi phí cho các doanh nghiệp nhập khẩu mà còn hỗ trợ ngành chăn nuôi Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh.
Chương trình GSM-102 của USDA cung cấp bảo lãnh tín dụng với lãi suất trả chậm chỉ 1%/năm, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu các sản phẩm nông sản như đậu nành, khô đậu nành, bắp và DDGS (bã rượu khô) từ Mỹ, với giá trị nhập khẩu hàng tỷ USD. Đây là những mặt hàng đang đóng vai trò quan trọng trong ngành chăn nuôi. Tuy nhiên, vấn đề lãi suất cao từ các ngân hàng Việt Nam tham gia chương trình này đã khiến việc triển khai chưa thực sự hiệu quả.
Ngoài ra, Mỹ còn là nguồn cung cấp con giống heo chất lượng cao. Theo ước tính, mỗi năm một trại heo giống ở Việt Nam nhập khẩu khoảng 250 con giống heo cụ kỵ (GGP) trị giá gần 0,5 triệu USD.
Dự kiến, vào tháng 6 tới đây, Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai sẽ cùng một số trang trại chăn nuôi sang Mỹ, ký hợp đồng nhập khẩu heo giống từ Công ty AG World và hợp tác với Công ty Waldo để phát triển mô hình liên doanh chăn nuôi. Ngoài ra, Hiệp hội cũng xúc tiến nhập khẩu các sản phẩm nguyên liệu dinh dưỡng từ Công ty International Nutrition (Mỹ) nhằm cải thiện chất lượng thịt heo, bò, và môi trường chăn nuôi tại Việt Nam.
Tuy nhiên, một điểm đáng chú ý là Nghị định 73/2025 mới đây, đã giảm thuế suất đối với một số mặt hàng nông sản từ Mỹ, bao gồm ngô hạt và khô dầu đậu tương từ mức 1-2% xuống 0%.
“Thuế nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp từ Mỹ giảm, nếu được kèm theo chính sách hỗ trợ theo chương trình GSM-102 sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gia tăng nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp từ Mỹ.
Điều này không chỉ góp phần cân bằng thương mại Việt Nam – Mỹ mà còn giúp giảm chi phí cho ngành chăn nuôi Việt Nam, giúp nâng chất lượng chăn nuôi và nâng khả năng cạnh tranh của ngành trong hội nhập”, Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai nhận định.
Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai cho rằng, trước tình hình khó khăn hiện nay, đặc biệt khi Mỹ dự kiến áp thuế đối ứng lên hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam 46% vào ngày 9/4 tới, Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai khẩn thiết mong Thủ tướng Chính phủ và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quan tâm, chỉ đạo kịp thời để các doanh nghiệp nhập khẩu trong ngành được tham gia triển khai chương trình GSM-102 với mức lãi suất phù hợp 1-1,5%.
Đồng thời, Hiệp hội cũng cam kết sẽ tiếp tục tìm kiếm các đối tác tin cậy để nhập khẩu hàng hóa từ Mỹ, và mong muốn nhận được sự đồng hành, chia sẻ từ các ngân hàng Việt Nam để hỗ trợ ngành nông nghiệp vượt qua khó khăn trong giai đoạn đầy thách thức này.
(TVPLO) – “Kiến tạo và thực hành nông nghiệp công nghệ cao, bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, giúp nông dân thoát nghèo, giúp trẻ em có cơ hội tới trường và cùng chung tay bảo vệ Mẹ thiên nhiên…” là thông điệp mà Công ty cổ phần Hikari Đà Lạt (Hikari Dalat JSC) gây dựng những năm qua, sản xuất theo quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP).
Ông Nguyễn Công Điểm – Chủ tịch HĐQT Công ty CP Hikari Đà Lạt thuyết minh về quy trình sản xuất các sản phẩm nông nghiệp sạch…
Tại Hội chợ Hàng Việt Nam tiêu biểu xuất khẩu 2025 khai mạc vào ngày 27/3/2025, Hikari Dalat JSC, đại diện tiêu biểu của ngành nông sản, thực phẩm chất lượng cao của Việt Nam, mang đến hội chợ những sản phẩm đặc sản được chế biến từ nông sản, thực phẩm, tinh dầu, đồ uống, mỹ phẩm chất lượng cao, góp phần quảng bá thương hiệu nông sản Việt Nam ra bạn bè thế giới.
Xác định từ lúc xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt. Hikari Dalat JSC sản xuất theo hướng VietGAP giúp bảo vệ môi trường, góp phần tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng, có truy xuất nguồn gốc, tăng sức cạnh tranh phục vụ tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu và nâng cao thu nhập cho nông dân.
Tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng.
Nhằm thực hiện đề án cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, Hikari Dalat JSC ngày càng chú trọng đến các tiêu chuẩn về kỹ thuật sản xuất an toàn, có truy xuất nguồn gốc. Năm ngành hàng chủ lực của tỉnh hiện nay như: Nông sản – Thực phẩm – Tinh dầu – Đồ uống – Mỹ phẩm, nông dân đều thực hiện nhiều biện pháp sản xuất mới, nhất là theo quy trình VietGAP, trong đó chú trọng đến vùng trồng và cách canh tác, chế biến theo tiêu chuẩn chất lượng Nhật Bản.
Hikari Dalat JSC đang sở hữu nhà máy hàng đầu trong lỉnh vực chế biến nông sản tại Việt Nam và xuất khẩu Châu Âu. Nhà máy với những công nghệ máy móc hiện đại bậc nhất, được đầu tư theo chủ trương của lãnh đạo đến từ Nhật Bản. Nhà máy chế biến các sản phẩm từ rau, củ, quả: tinh dầu, nước ép, rau củ quả tươi cấp đông…Đặc biệt, là hệ thống chiết suất đạt ngưỡng tới hạn mà trên thế giới hiện nay chỉ có 07-09 nước trang bị được hệ thống này, để làm ra các sản phẩm như tinh dầu tiêu, tinh dầu gừng, tinh dầu trầm…Hứa hẹn sẽ tạo ra một số sản phẩm chức năng có thể chữa hiệu quả một số bệnh về dạ dạy, tiêu hoá…mà hiện tại ở Việt Nam chưa có.
TS. Hồ Minh Sơn dẫn đầu đoàn công tác của Hiệp hội Trang trại và Doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam; Hiệp hội Làng nghề Việt Nam; Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế; Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập; Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam tham quan gian hàng Hikari Dalat JSC tham gia triển lãm Expo HCM City Export năm 2025
Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc sản xuất nông nghiệp an toàn là hướng đi tất yếu để tạo nguồn thực phẩm sạch, bảo đảm an toàn thực phẩm cung cấp cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục phối hợp các địa phương mở rộng vùng sản xuất nông nghiệp được chứng nhận đủ điều kiện về an toàn thực phẩm; phối hợp các bộ, ngành xúc tiến thương mại, đẩy mạnh tiêu thụ nông sản, thực phẩm an toàn…
Tuy nhiên, qua nhận định của các cơ quan chuyên môn, hiện sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP ở nước ta vẫn gặp những hạn chế nhất định do một số nơi sản xuất còn manh mún. Trong khi đó, nhiều giống cây không đạt chất lượng, vấn đề lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật vẫn diễn ra, công nghệ sau thu hoạch yếu kém, đầu ra còn bỏ ngỏ là thách thức lớn đối với việc thực hiện cũng như mở rộng mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP.
Do đó, việc chú trọng vào hướng dẫn và thực hành sản xuất nông sản theo hướng chất lượng cao đòi hỏi cần có định hướng, xây dựng lâu dài và ổn định. Việc Hikari Dalat JSC quyết tâm xây dựng và vận hành hệ thống nhà máy chất lượng cao cho ngành nông sản là một bước đi đột phá. những sản phẩm nông sản thương hiệu của Hikari như: Rau củ quả tươi, rau củ quả đông lạnh…các loại thực phẩm, đồ uống sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng cao Nhật Bản như: Thạch trái cây, thạch collagen, nước trái cây…được thị trường trong nước và quốc tế đón nhận với những dòng sản phẩm sạch được sản xuất theo dây chuyền công nghệ hiện đại giữ nguyên dưỡng chất của sản phẩm mà không cần chất bảo quản.
Song song đó, các nhà vườn trồng nông sản được công ty bao tiêu sản phẩm, nông dân cần duy trì sản xuất xoài bảo đảm chất lượng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu; thực hiện mối liên kết bền vững với doanh nghiệp xuất khẩu. Mở rộng các hộ trồng cây ăn trái tham gia tổ hợp tác áp dụng tiêu chuẩn GAP, gắn với kiểm tra cấp mã vùng trồng, hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm rõ ràng.
TS. Hồ Minh Sơn và ông Nguyễn Công Điểm chụp ảnh lưu niệm
Hikari Dalat JSC xây dựng phương thức canh tác hiện đại, sản xuất nông sản theo tiêu chuẩn chất lượng cao đã nâng cao giá trị nông sản tiến tới ổn định về chất lượng và an toàn cho sức khỏe, đáp ứng yêu cầu thị trường đưa nông sản sạch, chất lượng cao thương hiệu Việt Nam vươn tầm cao mới.
Trồng trọt thông minh dựa vào AI đang mở ra tiềm năng phát triển những siêu vụ mùa chịu được biến đổi khí hậu, cho năng suất cao, có thể định nghĩa lại an ninh lương thực toàn cầu.
Sự xâm nhập của trí tuệ nhân tạo (AI) vào nông nghiệp đang biến đổi tương lai lương thực, theo CGTN. Tại Đại hội Hạt giống 2025 diễn ra từ ngày 20 đến 23/3 ở thành phố Tam Á, tỉnh Hải Nam, trồng trọt thông minh trở thành chủ đề trung tâm. Hơn 40 nhà triển lãm trưng bày những công nghệ tiên tiến và các chủng hoa màu hàng đầu, nêu bật trồng trọt dựa trên AI đang biến đổi từ lý thuyết tới thực tiễn như thế nào. Màn hình kỹ thuật số tại sự kiện minh họa hàng loạt đột phá mới nhất, từ phân tích gene bằng AI tới hệ thống theo dõi trang trại dựa trên đám mây.
Những chuyên gia ở sự kiện nhấn mạnh trồng trọt thông minh đang biến đổi các phương pháp truyền thống thành nông nghiệp chính xác, cung cấp giải pháp để vượt qua hạn chế tài nguyên, tăng cường tự lực trong ngành công nghiệp hạt giống, đảm bảo vị trí chiến lược của Trung Quốc trong thị trường hạt giống toàn cầu.
Li Jiayang, học giả ở Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc (CAS) giới thiệu khái niệm “lai tạo thông minh các chủng cây thông minh”, nhấn mạnh tiềm năng tích hợp AI, công nghệ sinh học và công nghệ thông tin để phát triển hoa màu tự động thích nghi với thách thức môi trường.
Qian Qian, một học giả CAS khác, đề cập tới độ phức tạp của đặc tính của hoa màu. Theo ông, sức mạnh máy tính và thuật toán cao cấp sẽ giúp các nhà khoa học hiểu rõ quan hệ giữa gene và đặc tính của hoa màu. Khác với trồng trọt quy mô nhỏ, trồng trọt thông minh ứng dụng cách tiếp cận công nghiệp hóa, tận dụng tài nguyên để tích hợp những đặc điểm ưu việt một cách hiệu quả.
Trồng trọt dựa trên AI đang mang lại nhiều kết quả. Ví dụ, ở Tập đoàn hạt giống quốc gia Trung Quốc, các nhà nghiên cứu sử dụng hệ thống đám mây để theo dõi từ xa cánh đồng, thu thập dữ liệu thời gian thực về sức khỏe và sự phát triển của hoa màu. Điều này cho phép nhà khoa học giải quyết vấn đề nhanh chóng và tối ưu hóa quá trình nhân giống. Một đột phá đáng chú ý nằm trong lĩnh vực phát triển lúa lai. Thông thường, chuyên gia nhân giống kiểm tra hàng nghìn cách kết hợp để tìm ra một giống lúa lai ưu việt. Hiện nay. Phân tích gene bằng AI dự đoán những cách kết hợp năng suất cao trước khi bắt đầu thử nghiệm thực địa.
Drone tiến hành hoạt động kiểm soát dịch bệnh và sâu bệnh ở Nam Thông, Giang Tô. Ảnh: VCG
Một cột mốc khác là sự ra đời của “Fengdeng”, mô hình ngôn ngữ lớn tập trung vào hạt giống, chủ yếu phát triển bởi Phòng thí nghiệm quốc gia Yazhou ở Tam Á. Nền tảng AI này cung cấp kiến thức chuyên gia về nhân giống, gieo trồng và xu hướng công nghiệp, trang bị cho nông dân và nhà nghiên cứu kiến thức sâu rộng.
Tuy nhiên, lĩnh vực trồng trọt thông minh ở Trung Quốc vẫn còn một số thách thức cần vượt qua, ví dụ tập dữ liệu rời rạc hạn chế khả năng của AI trong dự đoán và thiết kế chủng hoa màu ưu việt.
Pellentesque habitant morbi tristique senectus et netus et malesuada fames ac turpis egestas. Vestibulum tortor quam, feugiat vitae, ultricies eget, tempor sit amet, ante. Donec eu libero sit amet quam egestas semper. Aenean ultricies mi…