Viện sĩ Chu Hữu Dũng đã cùng Baidu phát triển “Nông dân Viện sĩ Thông minh”, một trợ lý AI giúp giải đáp thắc mắc về nông nghiệp cho bà con nông dân mọi lúc mọi nơi. Ứng dụng này hứa hẹn sẽ là cầu nối hiệu quả giữa kiến thức chuyên môn và thực tiễn sản xuất, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn.
Sự phát triển mạnh mẽ của mô hình AI đặt ra câu hỏi về việc ứng dụng công nghệ này vào cuộc sống và sản xuất, tạo ra giá trị thực tiễn. Câu hỏi làm thế nào AI thể hiện khả năng vượt trội trong việc xử lý các nhiệm vụ cụ thể, đã được trả lời ở Trung Quốc. Hiện nay, nhiều nông dân ở quốc gia này đã ứng dụng tốt AI vào việc đồng áng.
Ngày 28/6, Viện sĩ Chu Hữu Dũng và Baidu đã chính thức ra mắt “Nông dân Viện sĩ Thông minh”, sản phẩm AI đầu tiên dành cho lĩnh vực nông nghiệp, thu hút sự chú ý của giới chuyên môn.
Viện sĩ Chu Hữu Dũng, được mệnh danh là “Viện sĩ Nông dân”, đã gắn bó gần 10 năm với huyện Lan Thương, tỉnh Phổ Nhĩ, Vân Nam, giúp đỡ người dân thoát nghèo. Tuy nhiên, việc truyền đạt kiến thức, kỹ năng canh tác cho hàng chục vạn nông dân trong khi thời gian và sức lực có hạn là bài toán khó.
Sự xuất hiện của AI đã mang đến giải pháp cho vấn đề này. “Nông dân Viện sĩ Thông minh” giúp “đưa viện sĩ vào điện thoại”, giải đáp thắc mắc cho bà con nông dân mọi lúc mọi nơi. Điều này không chỉ thể hiện sức mạnh của mô hình AI mà còn mở ra ứng dụng thực tiễn đầy giá trị.
Huyện Lan Thương, nằm ở phía Tây Nam tỉnh Vân Nam, từng là một huyện nghèo khó với điều kiện sản xuất, sinh hoạt khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi, thường xuyên gặp thiên tai. Tuy nhiên, Viện sĩ Chu Hữu Dũng nhận thấy tiềm năng của vùng đất này với thổ nhưỡng phì nhiêu và lượng mưa phù hợp cho cây trồng. Ông cùng nhóm nghiên cứu đã tìm kiếm loại cây trồng phù hợp và quyết định ứng dụng khoa học kỹ thuật để xóa đói giảm nghèo.
“Qua hơn 10 năm nghiên cứu, chúng tôi đã trồng thành công lúa trên đất khô, gọi chung là lúa nước chất lượng cao trên đất khô”. Viện sĩ Chu Hữu Dũng và nhóm của ông đã triển khai nhiều kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến tại địa phương, tiêu biểu là kỹ thuật trồng lúa nước chất lượng cao trên đất khô, trồng khoai tây mùa đông và trồng sâm tam thất dưới tán rừng. Đặc biệt, kỹ thuật trồng lúa nước chất lượng cao trên đất khô đã giúp tăng gấp đôi năng suất lúa, giải quyết vấn đề lương thực cho người dân.
“Giúp người dân có thu nhập, tự chủ được cuộc sống là điều tốt đẹp biết bao”. Viện sĩ Chu Hữu Dũng chia sẻ. Ông đã thành lập Trạm làm việc của Viện sĩ và “Viện sĩ Tiểu viện” tại thôn Hạo Chi Bá, huyện Lan Thương, tổ chức các lớp tập huấn chuyên môn, khơi dậy niềm đam mê học hỏi của bà con nông dân.
Theo thông tin từ China Economic Net, nhờ sự hướng dẫn của Viện sĩ Chu Hữu Dũng, xã Trúc Đường đã có sự thay đổi đáng kể, thu nhập bình quân đầu người tăng từ 3.410 Nhân dân tệ năm 2015 lên 13.228 Nhân dân tệ năm 2023, tổng thu nhập kinh tế nông thôn toàn xã tăng khoảng 319%.
Một người dân ở thôn Vân Sơn, xã Trúc Đường chia sẻ: “Ban đầu chúng tôi không tin, nhưng sau đó, nhà nào cũng học được kỹ thuật nên thu nhập tăng lên. Tôi muốn học hỏi kinh nghiệm trồng trọt từ Viện sĩ nhưng ông ấy quá bận. Tôi phải đợi từ sớm ở cửa chỉ để hỏi ông ấy về vấn đề trồng trọt”.
Giờ đây, với “Viện sĩ trong điện thoại”, người dân không còn phải vất vả tìm kiếm Viện sĩ Chu Hữu Dũng nữa.
Ngày 28/6/2024, tại “Hội nghị các nhà phát triển học sâu WAVE SUMMIT 2024” do Trung tâm Nghiên cứu Kỹ thuật và Ứng dụng Học sâu Quốc gia tổ chức, Viện sĩ Chu Hữu Dũng và nhóm của ông cùng Baidu đã chính thức ra mắt “Nông dân Viện sĩ Thông minh” – sản phẩm AI đầu tiên dành cho lĩnh vực nông nghiệp.
Ứng dụng được xây dựng dựa trên nền tảng mô hình AI trong nước, mô phỏng cuộc trò chuyện hỏi đáp giữa Viện sĩ Chu Hữu Dũng và người dùng. Người dân có thể hỏi bất cứ lúc nào về điều kiện trồng lúa nước trên đất khô, kỹ thuật canh tác, phòng trừ sâu bệnh…, “Nông dân Viện sĩ Thông minh” sẽ giải đáp chi tiết từng vấn đề.
“Tôi muốn hỏi khi nào là thời điểm tốt nhất để trồng lúa nước trên đất khô?”, “Cần lưu ý những gì khi trồng lúa nước chất lượng cao trên đất khô?”, “Nếu lúa nước chất lượng cao trên đất khô liên tục bị sâu bệnh thì phải làm sao?”.… “Xin chào, tôi là trợ lý thông minh của Viện sĩ Nông dân Chu Hữu Dũng. Nếu lúa nước chất lượng cao trên đất khô liên tục bị sâu bệnh, bạn có thể áp dụng các biện pháp sau…”.
Một người dân ở thôn Vân Sơn, xã Trúc Đường, huyện Lan Thương, tỉnh Phổ Nhĩ đã chia sẻ tại WAVE SUMMIT: “Viện sĩ Chu Hữu Dũng như đang ở trong điện thoại của tôi, giống hệt như người thật. Chúng tôi hỏi gì ông ấy trả lời đấy, cứ như ông ấy đang ngồi cạnh tôi vậy. Lần đầu tiên sử dụng ứng dụng này, tôi thấy thật kỳ diệu. Giọng nói và hình ảnh của Viện sĩ Chu Hữu Dũng đều rất chân thực, câu trả lời cũng giống như thường lệ. Từ nay, chúng tôi có thể hỏi han ‘Viện sĩ Chu Hữu Dũng’ trong điện thoại bất cứ lúc nào!”.
Mục tiêu của trí tuệ nhân tạo là mô phỏng, mở rộng và phát triển trí thông minh của con người. “Nông dân Viện sĩ Thông minh” là một ví dụ điển hình cho việc mở rộng trí thông minh con người, giải quyết những vấn đề thiết thực của đời sống dân sinh.
Viện sĩ Chu Hữu Dũng cho biết: “Nông nghiệp là ngành nghề trường tồn, trợ lý thông minh là kênh truyền tải kiến thức và thông tin tốt nhất. Chúng tôi muốn ứng dụng này mang lại lợi ích cho nhiều người hơn nữa”. Theo thông tin, “Nông dân Viện sĩ Thông minh” sẽ được tích hợp trên nhiều nền tảng như ứng dụng và trang web Văn Tâm Nhất Ngôn, Baidu Search, Baidu Baike. Người dùng có thể tìm kiếm “Nông dân Viện sĩ”, “Chu Hữu Dũng” hoặc “Nông dân Viện sĩ” để truy cập nhanh vào ứng dụng.
Có thể hình dung, việc phát triển trợ lý thông minh chuyên ngành sẽ cho phép các viện sĩ và chuyên gia trong nhiều lĩnh vực áp dụng vào các tình huống tương tự, tạo ra giá trị thương mại và xã hội to lớn. Hiện nay, AI, với đại diện là mô hình ngôn ngữ lớn, đang thúc đẩy quá trình chuyển đổi và nâng cấp trong nhiều ngành nghề, mở rộng phạm vi và chiều sâu ứng dụng trong sản xuất.
Giám đốc Công nghệ Baidu, ông Vương Hải Phong, cho rằng công nghệ AI hiện tại, dựa trên nền tảng học sâu và mô hình ngôn ngữ lớn, đã có tính ứng dụng cao, đồng thời sở hữu các đặc điểm tiêu chuẩn hóa, mô-đun hóa và tự động hóa. Việc đưa AI vào sản xuất và dịch vụ của các ngành nghề sẽ giúp giải quyết hiệu quả các vấn đề thực tế trong công việc và cuộc sống.
Bạn có thể theo dõi thêm các bài báo về các lĩnh vực ứng dụng công nghệ khác thuộc chuỗi bài: Trung Quốc lại khiến thế giới “đuổi không kịp” về khả năng ứng dụng công nghệ trên website: markettimes.vn
[Cần Thơ] Sản xuất lúa gạo đang gặp nhiều thách thức từ các biến động thị trường quốc tế, điều kiện khí hậu ảnh hưởng nông dân, theo Phó thủ tướng Trần Hồng Hà.
Thông tin được Phó thủ tướng Trần Hồng Hà nêu ra trong cuộc họp với lãnh đạo các tỉnh, thành miền Tây về việc điều hành sản xuất, tiêu thụ lúa gạo diễn ra ngày 7/3, tại TP Cần Thơ.
“Việt Nam hiện là quốc gia đứng thứ ba thế giới về sản xuất và xuất khẩu lúa gạo, nhưng đang gặp nhiều thách thức từ các biến động thị trường quốc tế, điều kiện khí hậu”, ông Hà nói và cho biết người nông dân đang gặp nhiều khó khăn do giá lúa gạo giảm mạnh, trong khi vẫn phải chịu nhiều rủi ro do biến đổi khí hậu và thời tiết. Theo ông, việc “được mùa mất giá, được giá mất mùa” đối với người nông dân, đặc biệt là người trồng lúa đã trở thành câu chuyện quen thuộc.
Phó thủ tướng nhìn nhận đây là vấn đề kéo dài nhiều năm qua. Nếu không có giải pháp hiệu quả, nguy cơ nông dân rời bỏ mảnh ruộng của mình. Vì vậy nhà nước cần có các giải pháp như các công cụ, chính sách, như điều chỉnh giá, cung cấp tín dụng… hỗ trợ kịp thời để bảo vệ quyền lợi của người nông dân. Các bộ, ngành liên quan đánh giá rõ ràng, cụ thể các thị trường nhập khẩu chính của gạo Việt Nam cũng như các đối thủ cạnh tranh, phối hợp chặt chẽ để triển khai giải pháp.
Về lâu dài, Phó thủ tướng chỉ đạo cần phải xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành toàn diện về lĩnh vực lúa gạo. Hệ thống này sẽ tích hợp thông tin từ nhiều khâu: sản xuất, khoa học công nghệ, chế biến, bảo quản, thị trường và dự báo… với mục tiêu cung cấp thông tin kịp thời và chính xác cho các bên liên quan, từ nông dân đến doanh nghiệp và cơ quan quản lý…
Đối với việc quản lý xuất khẩu lúa gạo, Phó thủ tướng đề nghị sửa đổi Nghị định 107/2018 của Chính phủ với những điều chỉnh quan trọng. Theo đó, các doanh nghiệp muốn được cấp phép xuất khẩu phải đáp ứng các tiêu chí nghiêm ngặt, bao gồm năng lực liên kết sản xuất, hệ thống kho bãi và năng lực tài chính…
Nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nông nghiệp, Phó thủ tướng đề nghị Ngân hàng nhà nước cần xem xét áp dụng chính sách cho vay ưu đãi tương tự vay mua nhà xã hội. Đồng thời, ông kiến nghị miễn thuế thu nhập cho lĩnh vực nông nghiệp trong hai năm, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư, phát triển. Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp Bộ Khoa học và Công nghệ cần xây dựng chiến lược ngăn chặn việc các nước khác sử dụng trái phép nhãn hiệu gạo Việt Nam.
Thu hoạch lúa tại Cần Thơ. Ảnh: An Bình
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong hai tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu gạo đạt khoảng 1,1 triệu tấn, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, giá trị kim ngạch chỉ đạt 613 triệu USD, giảm 13,6%. Giá gạo xuất khẩu trung bình giảm sâu, xuống còn 553,6 USD một tấn, thấp hơn 18,3% so với cùng kỳ năm 2024. Đầu tháng 3, giá gạo xuất khẩu tiếp tục giảm mạnh, chỉ còn: 310-367 USD mỗi tấn. Các thị trường lớn như Philippines, Bờ Biển Ngà và Ghana vẫn là những khách hàng chính của gạo Việt Nam, nhưng sức mua không còn sôi động như trước.
Giá gạo sụt giảm do nguồn cung thế giới tăng cao, nhu cầu nhập khẩu suy giảm và đặc biệt là việc Ấn Độ dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo, đẩy một lượng lớn gạo ra thị trường quốc tế…
Nhằm đảm bảo ổn định sản xuất và tiêu thụ lúa gạo trong bối cảnh thời tiết và thị trường diễn biến phức tạp, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề nghị các địa phương cần bám sát lịch thời vụ, đẩy nhanh tiến độ thu hoạch vụ Đông Xuân, đặc biệt ở các vùng ven biển có nguy cơ ảnh hưởng mặn cao. Bộ sẽ phối hợp các ngành liên quan theo dõi chặt chẽ biến động thị trường gạo thế giới, kịp thời thông tin cho doanh nghiệp và nông dân để điều chỉnh sản xuất và tiêu thụ phù hợp.
Về lâu dài, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục đẩy mạnh triển khai Đề án phát triển bền vững một triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh ở Đồng bằng sông Cửu Long…
Dự báo của Hiệp hội Lương thực Việt Nam, xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2025 sẽ gặp khó khăn, có thể chỉ đạt 7,5 triệu tấn, giảm so với mức kỷ lục hơn 9 triệu tấn năm 2024.
Đất nước ta – dải đất hình chữ S “tam sơn, tứ hải, nhất phần điền” – nơi đâu cũng in dấu chân của những người làm nông nghiệp. Tôi đã đi qua những cánh đồng lúa mênh mông miền Tây, những vườn cây trái trĩu quả Đông Nam bộ, những rẫy cà phê bạt ngàn trên cao nguyên đất đỏ bazan, những đồi chè xanh ngút ngàn Tây Bắc, những rừng quế, rừng hồi thơm nồng Trung du, đến những làng chài bấp bênh giữa biển khơi, những ruộng bậc thang uốn lượn trên triền núi cao. Mỗi nơi tôi đến, tôi đều thấy một Việt Nam nông nghiệp đầy khát vọng – nơi mà mồ hôi của bà con nhỏ xuống đất, để rồi nảy mầm thành mùa màng bội thu.
Tôi vẫn nhớ những ngày cùng bà con và cán bộ địa phương cười tươi khi nông sản được giá, khi những chuyến hàng xuất khẩu đầu tiên vươn ra thế giới.
Tôi vẫn nhớ những ánh mắt trăn trở của cán bộ trồng trọt, chăn nuôi khi hạn hán, xâm nhập mặn đe dọa đồng ruộng, khi dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi bùng phát, khi chứng kiến bà con phải đổ đi những mẻ cá, khi những ao tôm bạc trắng vì dịch bệnh.
Tôi vẫn nhớ những đêm dài không ngủ giữa đại dịch COVID-19, khi những container nông sản ùn ứ ở cửa khẩu, khi thị trường xuất khẩu đột ngột đóng băng, khi người nông dân đứng trước nguy cơ mất trắng mùa vụ.
Tôi vẫn nhớ những ngày cùng anh em chống chọi với cơn bão Yagi, khi những vườn cây bị quật ngã, khi những con tàu trở về tay trắng, khi từng dòng tin báo về mất mát từ khắp nơi khiến chúng tôi không thể chợp mắt.
Tôi vẫn nhớ những chiến sĩ kiểm lâm quên ăn quên ngủ, lao vào ngọn lửa dữ để bảo vệ màu xanh của đất nước. Và đã có những người ngã xuống, để những cánh rừng mãi mãi được xanh tươi.
Nhưng tôi cũng nhớ thật nhiều những ngày vui – khi bà con vượt qua hạn mặn, khi mô hình trồng trọt, chăn nuôi sinh thái nở rộ, khi lần đầu tiên người nông dân hiểu rằng làm nông nghiệp không chỉ để “làm ra sản phẩm”, mà là để “làm ra giá trị”.
Chúng ta đã cùng nhau chuyển mình từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp, từ tăng trưởng đơn giá trị sang tăng trưởng đa giá trị. Những mô hình tưởng chừng xa lạ, nay đã trở thành hình mẫu phát triển bền vững. Lúa – rươi, lúa – tôm, lúa – cá, lúa – vịt, những mô hình vừa thân thiện với môi trường, vừa nâng cao thu nhập. Nông nghiệp thuận thiên, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp du lịch, nông nghiệp thông minh – những thuật ngữ mà trước đây còn xa lạ – nay đã ăn sâu vào tư duy của người nông dân Việt Nam.
Và hơn hết, chúng ta đã cùng nhau đặt nền móng cho một nền nông nghiệp nhân văn, nơi mà người nông dân không chỉ làm chủ mảnh đất, mà còn làm chủ cuộc đời mình.
Bốn năm qua, chúng ta cùng nhau gieo từng hạt giống. Có những hạt giống đã nảy mầm xanh tốt, có những chồi non vươn lên mạnh mẽ, nhưng cũng không ít hạt mầm vẫn còn nằm im dưới lớp đất, chờ ngày trổ nhánh, ra hoa. Nhưng tôi tin rằng, nếu chúng ta tiếp tục kiên trì chăm sóc, thì rồi cây sẽ lớn, hoa sẽ nở, trái sẽ ngọt. Bởi vì, như ông cha ta từng nói: “Chỉ có người phụ đất, chứ đất không bao giờ phụ người”. Và hơn hết, tất cả chúng ta đều đã sống trọn vẹn mỗi ngày, với những gì tốt nhất có thể, với tất cả tâm huyết, trách nhiệm và tình yêu dành cho nền nông nghiệp nước nhà.
Hôm nay, khi rời cương vị Bộ trưởng, tôi không xem đây là một lời chia tay, mà là một lời hẹn gặp lại – trên những cánh đồng, bên những khu vườn, nơi những con tàu đánh cá vẫn ngày đêm vươn khơi.
Cảm ơn những người nông dân bền bỉ bên tôi. Cảm ơn những đồng nghiệp, những người bạn đồng hành không quản ngại gian khó.
Có người từng nói: “Muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Muốn đi xa, hãy đi cùng nhau”. Và tôi tin, chúng ta đã cùng nhau đi một chặng đường rất xa. Nhưng con đường phía trước vẫn còn dài, và tôi sẽ luôn đồng hành, dõi theo từng bước đi của nền nông nghiệp và môi trường Việt Nam.
Ngày 27/2, Chi hội Nhà báo Tạp chí Hữu cơ Việt Nam tổ chức Đại hội Chi hội, tổng kết nhiệm kỳ và đề ra định hướng phát triển. Đại hội nhấn mạnh vai trò báo chí trong nông nghiệp hữu cơ, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng, chuyển đổi số và mở rộng hợp tác, hướng tới nền báo chí hiện đại, hiệu quả.
Ngày 27/2, tại Hà Nội, Chi hội Nhà báo Tạp chí Hữu cơ Việt Nam đã tổ chức Đại hội Chi hội, tổng kết công tác nhiệm kỳ vừa qua và đề ra phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới. Đại hội có sự tham dự của đông đảo hội viên, các nhà báo và khách mời, trong đó có bà Vũ Thị Hà – Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam, Trưởng Ban Công tác Hội Nhà báo Việt Nam; TSKH Hà Phúc Mịch – Bí thư Chi bộ, Chủ tịch Hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam; bà Đinh Thị Thu Trang – Phó Bí thư Chi bộ, Phó Chánh Văn phòng Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam. Đại hội đã tập trung thảo luận về những định hướng phát triển của báo chí trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập.
Ông Đỗ Ngọc Thi, Phó Tổng Biên tập phụ trách Tạp chí Hữu cơ Việt Nam phát biểu tại Đại hội – Ảnh: Cáp Vương.
Ông Đỗ Ngọc Thi, Phó Tổng Biên tập phụ trách Tạp chí Hữu cơ Việt Nam đã chỉ ra vai trò quan trọng của báo chí trong việc phản ánh chính xác, khách quan về sự phát triển của nông nghiệp hữu cơ và các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Ông khẳng định, trong bối cảnh hiện nay, báo chí cần thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, tận dụng các nền tảng số để nâng cao hiệu quả truyền thông và kết nối với độc giả. Đồng thời, ông cũng đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nội dung và tăng cường tính chuyên sâu của các bài viết.
Bà Vũ Thị Hà – Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam, Trưởng Ban Công tác Hội nhấn mạnh vai trò của báo chí trong việc tuyên truyền về nông nghiệp hữu cơ – Ảnh: Cáp Vương.
Đại hội cũng đã tiến hành tổng kết công tác nhiệm kỳ vừa qua. Báo cáo nêu rõ những thành tựu đã đạt được trong việc nâng cao chất lượng nội dung, mở rộng phạm vi ảnh hưởng của tạp chí và tăng cường kết nối với độc giả. Trong suốt nhiệm kỳ, Tạp chí Hữu cơ Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc cải thiện nội dung, xây dựng đội ngũ phóng viên chuyên nghiệp và mở rộng mạng lưới cộng tác viên. Những bài viết chuyên sâu, phân tích về xu hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ đã thu hút sự quan tâm của đông đảo bạn đọc, khẳng định vị thế của tạp chí trong hệ thống báo chí chuyên ngành.
Bên cạnh đó, báo cáo tổng kết cũng nhấn mạnh những thách thức mà tạp chí đang đối mặt. Sự phát triển nhanh chóng của báo chí điện tử và mạng xã hội đã khiến các tạp chí in gặp khó khăn trong việc duy trì độc giả. Tạp chí Hữu cơ Việt Nam phải tìm cách đổi mới hình thức, ứng dụng công nghệ hiện đại để tiếp cận công chúng tốt hơn. Ngoài ra, vấn đề tài chính cũng là một thách thức lớn khi các nguồn thu từ quảng cáo, hợp tác truyền thông còn hạn chế, đòi hỏi sự linh hoạt trong chiến lược phát triển kinh tế báo chí.
TSKH Hà Phúc Mịch – Bí thư Chi bộ, Chủ tịch Hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam nhấn mạnh mối liên kết chặt chẽ giữa báo chí và sự phát triển của ngành nông nghiệp hữu cơ – Ảnh: Cáp Vương.
Để đối phó với những khó khăn này, báo cáo đề xuất một số giải pháp trọng tâm như tiếp tục nâng cao chất lượng nội dung, phát triển tạp chí điện tử song hành với tạp chí in, đầu tư vào nền tảng số hóa và tăng cường hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước để mở rộng phạm vi tiếp cận.Trong khuôn khổ Đại hội, ông Lê Trường Giang trình bày tham luận về mối quan hệ giữa hoạt động của tạp chí và sự phát triển của chi hội nhà báo. Ông nhấn mạnh rằng chi hội nhà báo không chỉ đóng vai trò kết nối giữa các hội viên mà còn là nền tảng hỗ trợ để nâng cao chất lượng báo chí. Ông đề xuất tăng cường các hoạt động nghiệp vụ, tổ chức các buổi đào tạo chuyên môn và mở rộng hợp tác với các tổ chức báo chí khác để trao đổi kinh nghiệm. Ông cũng nhấn mạnh rằng báo chí không chỉ là kênh thông tin mà còn là cầu nối giữa doanh nghiệp, nhà khoa học và nông dân, góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp hữu cơ hiệu quả.
Tiếp nối chương trình, ông Nguyễn Vinh Thăng, đã trình bày tham luận về chủ đề “Báo chí công nghệ và vai trò hỗ trợ hội viên”. Ông nhấn mạnh rằng sự phát triển của báo chí công nghệ đang tạo ra những thay đổi lớn trong thói quen tiếp cận thông tin của công chúng. Việc áp dụng dữ liệu số hóa, sử dụng nền tảng di động và mạng xã hội đang trở thành xu hướng tất yếu. Ông cũng đề xuất việc đào tạo lại kỹ năng cho nhà báo, giúp họ sử dụng công nghệ một cách hiệu quả hơn trong tác nghiệp, đồng thời chú trọng đến việc kiểm chứng thông tin để đảm bảo tính chính xác và minh bạch.
Ông Lê Trường Giang trình bày tham luận về mối quan hệ giữa hoạt động của tạp chí với chi hội nhà báo – Ảnh: Cáp Vương
Phát biểu tại Đại hội, bà Vũ Thị Hà – Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam, Trưởng Ban Công tác Hội nhấn mạnh vai trò của báo chí trong việc tuyên truyền về nông nghiệp hữu cơ, đồng thời đề xuất tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ và hỗ trợ các hội viên thích ứng với xu thế báo chí hiện đại. Bà khẳng định việc đào tạo, cập nhật kiến thức mới sẽ giúp nâng cao chất lượng đội ngũ nhà báo chuyên sâu về lĩnh vực này.
Bà Vũ Thị Hà cũng ghi nhận những nỗ lực của Hội Nhà báo trong năm qua, với nhiều lớp học thiết thực, đáp ứng nhu cầu của hội viên. Đặc biệt, bà bày tỏ sự tin tưởng vào những bước tiến vượt bậc của Tạp chí Hữu cơ Việt Nam, dưới sự lãnh đạo và hỗ trợ của Hiệp hội, cam kết tổ chức các giải báo chí một cách khách quan, công khai và minh bạch, hiệu quả. Bà nhấn mạnh sự quan tâm và tạo điều kiện của Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam đối với Tạp chí, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay. Bà Vũ Thị Hà đề nghị Tạp chí cần tiếp tục thực hiện nghiêm túc Luật Báo chí và 10 điều quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam, để phát huy tốt vai trò của mình trong việc thông tin và định hướng dư luận.
TSKH Hà Phúc Mịch – Bí thư Chi bộ, Chủ tịch Hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam, cũng có bài phát biểu quan trọng, nhấn mạnh mối liên kết chặt chẽ giữa báo chí và sự phát triển của ngành nông nghiệp hữu cơ. Ông cho rằng báo chí cần đóng vai trò không chỉ là kênh thông tin mà còn là cầu nối thúc đẩy chính sách và thị trường nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam, góp phần nâng cao nhận thức của người dân và doanh nghiệp về lĩnh vực này. Báo cáo nêu rõ những thành tựu đã đạt được trong việc nâng cao chất lượng nội dung, mở rộng phạm vi ảnh hưởng của tạp chí và tăng cường kết nối với độc giả. Trong thời gian qua, Tạp chí Hữu cơ Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc cải thiện nội dung, xây dựng đội ngũ phóng viên chuyên nghiệp và mở rộng mạng lưới cộng tác viên. Những bài viết chuyên sâu, phân tích về xu hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ đã thu hút sự quan tâm của đông đảo bạn đọc, khẳng định vị thế của tạp chí trong hệ thống báo chí chuyên ngành.
Ông Nguyễn Vinh Thăng, đã trình bày tham luận về chủ đề: Thực tiễn hoạt động và phát triển “báo chí công nghệ” trong công tác hỗ trợ hội viên – Ảnh: Cáp Vương.
Đại hội đã thống nhất các phương hướng hoạt động trong nhiệm kỳ tới, bao gồm việc đẩy mạnh chuyển đổi số, nâng cao chất lượng nội dung và mở rộng mạng lưới hợp tác để nâng cao hiệu quả hoạt động báo chí. Với sự đồng lòng của các hội viên, Chi hội Nhà báo Tạp chí Hữu cơ Việt Nam hứa hẹn sẽ tiếp tục phát triển vững mạnh, đóng góp tích cực vào sự nghiệp báo chí và ngành nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam.
Bà Vũ Thị Hà – Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam và ông Tạ Hữu Thuật – Chuyên viên Hội Nhà báo Việt Nam tặng hoa Đại hội – Ảnh: Cáp Vương
Tại đại hội đã tiến hành bầu Ban Thư ký Chi hội Nhà báo Tạp chí Nông nghiệp Hữu cơ, nhằm đảm bảo sự lãnh đạo và điều hành hiệu quả trong nhiệm kỳ mới. Ông Đỗ Ngọc Thi và bà Vũ Thị Hoa đã được bầu vào Ban Thư ký chi hội Nhà báo Tạp chí Hữu cơ Việt Nam. Ban Thư ký mới được kỳ vọng sẽ tiếp tục phát huy vai trò kết nối, hỗ trợ các hội viên trong hoạt động nghiệp vụ, nâng cao chất lượng tác phẩm báo chí và mở rộng hợp tác với các đơn vị liên quan.
Nhân dịp này, các hội viên đã được trao Huy hiệu Hội Nhà báo Việt Nam. Đây không chỉ là sự động viên quan trọng mà còn là sự khích lệ để đội ngũ nhà báo là Hội viên Chi hội nhà báo Tạp chí Hữu cơ tiếp tục nỗ lực, sáng tạo, không ngừng nâng cao chất lượng thông tin, góp phần vào sự phát triển nền báo chí hiện đại và phát triển nông nghiệp hữu cơ một cách hiệu quả hơn trong thời gian tới.
Sáng 27/2/2025, tại Hà Nội, Tạp chí Hữu cơ Việt Nam tổ chức Lễ phát động cuộc thi viết “Nông nghiệp Hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững”.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội XIII) nhiệm kỳ 2021-2026. Đồng thời, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức tạo sự lan tỏa mạnh mẽ tới Nhân dân trên cả nước về nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ. Trong khuôn khổ Hội nghị Hữu cơ Châu Á lần thứ 8 tại Việt Nam do Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đăng cai tổ chức lần đầu tiên tại Việt Nam (được tổ chức tại Ninh Bình). Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đồng ý giao cho Tạp chí Hữu cơ Việt Nam/ Tạp chí điện tử Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam tổ chức Lễ phát động cuộc thi viết“Nông nghiệp hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” năm 2025 (⇒ THỂ LỆ).
Cuộc thi viết“Nông nghiệp Hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” được phát động, nhận tác phẩm dự thi từ 27/2 – 30/8/2025 và tổ chức công bố, trao giải vào tháng 9 năm 2025.
TSKH. Hà Phúc Mịch, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng chấm giải cuộc thi viết “Nông nghiệp hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” năm 2025.
TS Hà Phúc Mịch, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng chấm giải cuộc thi viết “Nông nghiệp hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” năm 2025 chia sẻ, Cuộc thi viết “Nông nghiệp hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” là cơ hội để tác giả chia sẻ những ý tưởng, kinh nghiệm và giải pháp sáng tạo trong việc phát triển nông nghiệp hữu cơ.
“Ban Tổ chức mong muốn nhận được những bài viết chất lượng, phản ánh chân thực thực trạng và đề xuất những hướng đi mới, góp phần thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ phát triển mạnh mẽ hơn”, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam bày tỏ hy vọng.
Sản phẩm báo chí dự thi là các tác phẩm về các chủ trương chính sách của Đảng, Chính phủ, địa phương về phát triển nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ. Trong đó trọng tâm là: Nâng cao vai trò, vị thế, năng lực làm chủ, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân, doanh nghiệp, HTX… tham gia phát triển nền nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ hiệu quả, bền vững theo hướng sinh thái, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp. Tuyên truyền để nâng cao nhận thức người tiêu dùng, vận dụng và ủng hộ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Đồng thời, nâng cao vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc phát triển nông nghiệp hữu cơ.
Các tác phẩm báo chí về phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững, tích hợp đa giá trị, nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia chuỗi sản xuất giá trị, nông nghiệp xanh, hữu cơ tuần hoàn, bảo vệ môi trường sinh thái, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, hội nhập quốc tế, gắn với đề án phát triển nông nghiệp, kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của địa phương.
Nhà báo Đỗ Ngọc Thi, Phó Tổng biên tập phụ trách Tạp chí Hữu cơ Việt Nam, Trưởng ban Tổ chức cuộc thi “Nông nghiệp hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” năm 2025.
Nhà báo Đỗ Ngọc Thi, Phó Tổng biên tập phụ trách Tạp chí Hữu cơ Việt Nam, Trưởng ban Tổ chức cuộc thi cho biết: Đây là một sự kiện quan trọng, nhằm khuyến khích sự quan tâm và đóng góp của cộng đồng vào việc phát triển nông nghiệp hữu cơ, hướng tới một nền kinh tế xanh và bền vững. Nông nghiệp hữu cơ không chỉ đơn thuần là một phương thức canh tác, mà còn là một triết lý sống, tôn trọng tự nhiên và bảo vệ sức khỏe con người. Việc áp dụng nông nghiệp hữu cơ giúp giảm thiểu việc sử dụng hóa chất, bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học, đồng thời cung cấp những sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng.
Thông qua các tác phẩm loại hình báo chí về các địa phương có những hướng đi mới trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong việc phát triển nông nghiệp hữu cơ, các hợp tác xã, các doanh nghiệp có cách làm hay, sáng tạo để đổi mới phương thức hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp hữu cơ.
Các tác phẩm báo chí tuyên truyền về gương những cá nhân điển hình, doanh nghiệp, doanh nhân giỏi năng động, sáng tạo trong cơ chế thị trường, dám nghĩ, dám làm, khai thác sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, lao động, đất đai… chủ động, đi đầu trong ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới, công nghệ 4.0 gắn với chuyển đổi số, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả, kinh tế cao trong phát triển nông nghiệp hữu cơ.
Ông Nguyễn Đức Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng chấm giải cuộc thi viết “Nông nghiệp hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” năm 2025.
Ông Nguyễn Đức Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam đánh giá cao việc Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ đã chỉ đạo và giao trách nhiệm cho Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ tổ chức Cuộc thi.
“Đây là một cuộc thi viết về một lĩnh vực ngách trong ngành nông nghiệp và ngành kinh tế, một nội dung, chủ để mang tính thời sự phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời cũng phù hợp với xu thế quốc tế, ông Nguyễn Đức Lợi cho biết thêm.
Toàn cảnh buổi Lễ phát động cuộc thi viết “Nông nghiệp Hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” năm 2025.
Cuộc thi viết “Nông nghiệp Hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” năm 2025 là cơ hội tác giả chia sẻ những ý tưởng, kinh nghiệm và giải pháp sáng tạo trong việc phát triển nông nghiệp hữu cơ. Ban tổ chức mong muốn nhận được những bài viết chất lượng, phản ánh chân thực thực trạng và đề xuất những hướng đi mới, góp phần thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ phát triển mạnh mẽ hơn.
Các đại biểu chụp ảnh tại buổi lễ.
Tác phẩm dự thi xin gửi về địa chỉ:
Tạp chí Hữu cơ Việt Nam/ Tạp chí điện tử Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam
(Cung Trí Thức Tp.Hà Nội, Phòng 806 tầng 8, số 1 Tôn Thất Thuyết – Cầu Giấy – Hà Nội).
Điện thoại: 024.3333.3833 – Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vn
⇒ THỂ LỆCuộc thi viết “Nông nghiệp Hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” năm 2025.
(Chinhphu.vn) – Ngày 27/2, Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, Tạp chí Hữu cơ Việt Nam tổ chức Lễ phát động cuộc thi viết với chủ đề “Nông nghiệp hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững”. Sự kiện nhằm lan tỏa thông điệp về một nền nông nghiệp xanh, sạch, gắn với mục tiêu phát triển bền vững mà Đảng và Nhà nước đang hướng tới.
TS Hà Phúc Mịch, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam – Ảnh VGP/Đỗ Hương
Cuộc thi được tổ chức trong bối cảnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (nhiệm kỳ 2021-2026), đồng thời hưởng ứng Hội nghị Hữu cơ Châu Á lần thứ 8 do Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đăng cai tại Ninh Bình. Đây là lần đầu tiên Việt Nam tổ chức sự kiện quốc tế quan trọng này, mở ra cơ hội khẳng định vai trò của nông nghiệp hữu cơ trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.
TS Hà Phúc Mịch, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam chia sẻ, Cuộc thi viết “Nông nghiệp hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” là cơ hội để tác giả chia sẻ những ý tưởng, kinh nghiệm và giải pháp sáng tạo trong việc phát triển nông nghiệp hữu cơ.
“Ban Tổ chức mong muốn nhận được những bài viết chất lượng, phản ánh chân thực thực trạng và đề xuất những hướng đi mới, góp phần thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ phát triển mạnh mẽ hơn”, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam bày tỏ hy vọng.
Ông Nguyễn Đức Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam đánh giá cao việc Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ đã chỉ đạo và giao trách nhiệm cho Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ tổ chức Cuộc thi.
“Đây là một cuộc thi viết về một lĩnh vực ngách trong ngành nông nghiệp và ngành kinh tế, một nội dung, chủ để mang tính thời sự phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời cũng phù hợp với xu thế quốc tế, ông Lợi cho biết thêm.
Cuộc thi chính thức nhận tác phẩm dự thi từ ngày 27/2 đến hết ngày 30/8/2025. Lễ công bố và trao giải dự kiến diễn ra vào tháng 9/2025. Các bài viết tham gia cần tập trung vào những chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ và địa phương về phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ. Trong đó, trọng tâm là nâng cao vai trò, năng lực của người dân, doanh nghiệp, hợp tác xã trong việc xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái, ứng dụng công nghệ tiên tiến, cải thiện chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường. Đồng thời, các tác phẩm cần làm nổi bật trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc thúc đẩy mô hình này.
Nhà báo Đỗ Ngọc Thi, Phó Tổng biên tập phụ trách Tạp chí Hữu cơ Việt Nam, Trưởng ban Tổ chức cuộc thi – Ảnh VGP/Đỗ Hương
Không chỉ dừng lại ở chính sách, cuộc thi khuyến khích các bài viết phản ánh thực tiễn, như những mô hình nông nghiệp hữu cơ hiệu quả, tích hợp đa giá trị, tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu, ứng dụng chuyển đổi số và công nghệ 4.0. Những câu chuyện về các địa phương tiên phong tái cơ cấu ngành nông nghiệp, các doanh nghiệp, hợp tác xã đổi mới sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh cũng là nội dung được mong đợi. Đặc biệt, Ban tổ chức kỳ vọng nhận được các bài viết tôn vinh những tấm gương điển hình – những cá nhân, doanh nhân dám nghĩ, dám làm, khai thác hiệu quả nguồn lực, áp dụng khoa học kỹ thuật để đạt năng suất cao, góp phần khẳng định thương hiệu nông nghiệp hữu cơ Việt Nam.
Nhà báo Đỗ Ngọc Thi, Phó Tổng biên tập phụ trách Tạp chí Hữu cơ Việt Nam, Trưởng ban Tổ chức cuộc thi, chia sẻ: “Đây là cơ hội để cộng đồng cùng chung tay thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ, hướng tới một nền kinh tế xanh, bền vững. Nông nghiệp hữu cơ không chỉ là một phương thức canh tác mà còn là triết lý sống, tôn vinh giá trị tự nhiên, bảo vệ sức khỏe con người và môi trường sống. Chúng tôi hy vọng các tác phẩm dự thi sẽ mang đến những góc nhìn chân thực, sâu sắc, đồng thời đề xuất giải pháp thiết thực để nông nghiệp hữu cơ phát triển mạnh mẽ hơn.”
Theo thể lệ, các bài dự thi cần ghi rõ thông tin tác giả (họ tên, bút danh nếu có, địa chỉ, số điện thoại). Trường hợp là tác phẩm tập thể, phải liệt kê đầy đủ thông tin từng thành viên. Mỗi tác giả hoặc nhóm tác giả có thể gửi nhiều bài, mỗi bài tối đa 1.500 từ, kèm ảnh minh họa. Bài viết cần được đánh máy hoặc viết tay rõ ràng trên một mặt giấy. Tác phẩm dự thi gửi về Tạp chí Hữu cơ Việt Nam (Phòng 806, tầng 8, Cung Trí Thức TP. Hà Nội, số 1 Tôn Thất Thuyết, Cầu Giấy, Hà Nội) hoặc qua email: toasoan@tapchihuucovietnam.vn. Hotline liên hệ: 024.3333.3833.
Cuộc thi không chỉ là dịp để các nhà báo, cây bút chuyên và không chuyên chia sẻ ý tưởng, kinh nghiệm mà còn là cơ hội để cộng đồng nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của nông nghiệp hữu cơ. Với thông điệp “Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững”, Ban tổ chức mong muốn sự kiện sẽ tạo dấu ấn mạnh mẽ, góp phần đưa nông nghiệp hữu cơ Việt Nam vươn xa trên bản đồ thế giới.
Arabica HoneSơn La nổi tiếng với nhiều loại hoa quả như mận, bơ, cam, nhãn… nhưng theo chị Tòng Thị Mai – Chủ nhiệm Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp công nghệ cao Hữu Cơ phiêng Tam, tổ 3, bản Hìn thì thu nhập từ các loại hoa quả này kém xa thu nhập từ café.
Họp mặt triển khai dự án trồng và chế biến sản phẩm café Arabica Hone
Đầu năm 2025, tại Phòng họp 102, số 24 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam (VITAD-AGRI) đã long trọng đón tiếp phái đoàn Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp công nghệ cao Hữu Cơ phiêng Tam, bản Hìn, Sơn La đến làm việc về dự án triển khai dự án trồng và chế biến sản phẩm café Arabica Hone tại địa phương. Đến tham dự cuộc họp có ông Phạm Thế Quốc, người được xem là tiên phong trong việc đưa cây vải thiều lên Tây Nguyên đạt được kết quả mỹ mãn; TS Lê Đức Thọ, Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc Gia (Bộ Khoa học và Công nghệ), chuyên gia đào tạo kỹ thuật.
Tại đây, bà Tòng Thị Mai thay mặt Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp công nghệ cao Hữu Cơ phiêng Tam giới thiệu loại café mà hợp tác xã đã trồng, thu hoạch và chế xuất thành phẩm, dự kiến đăng ký nhãn hiệu Arabica Hone. Đây là loại café xuất xứ từ nước Đức, có tinh chất đậm đà, mùi thơm dễ chịu, được người dân Sơn La yêu thích, tạo công ăn việc làm cho nhiều người và thu nhập cao hơn trổng các loại cây khác, theo đó đến nay diện tích trồng café đã lên tới 280 ha, gấp hơn 3 lần diện tích trồng mận và các loại hoa quả khác. Hợp tác xã mong muốn sẽ xây dựng nên một thương hiệu có danh tiếng và phổ biến tại miền Bắc, dần vươn xa khắp cả nước và hướng tới xuất khẩu.
Logo sản phẩm café Arabica Hone
Ông Lò Văn Dũng, giám đốc công ty TNHH Xuất nhập khẩu du lịch và thương mại Quang Vinh – một thành viên của Hợp tác xã cung cấp một số thông tin quan trọng về thị trường tiêu thụ sản phẩm café Arabica Hone tại nhiều địa phương thuộc tỉnh Sơn La.
Bà Lèo Thị Ánh, người trực tiếp thu hoạch và chế biến café Arabica Hone cũng cung cấp một số hình ảnh và giới thiệu quy trình sản xuất loại café này, đồng thời giới thiệu sản phẩm thực tế, cho thấy đây là một loại đồ uống có sức hấp dẫn với mọi giới, mọi độ tuổi. Hương vị cafe dịu nhẹ, đặc trưng của Café đến từ châu Âu mà điển hình là CHLB Đức.
Café Arabica Hone được trồng, thu hoạch và chế biến tại bản Hìn
Phát biểu tại cuộc họp, TS Phạm Đình Nam, Viện trưởng Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam cho rằng đây là dự án đầy tiềm năng, nhất là trong tình hình hiện nay Nhà nước đang rất chú trọng và ưu tiên phát triển nông nghiệp hữu cơ, đã quy định trong thông tư 109/2019/TTg. Vì thế Hợp tác xã nên sớm triển khai đăng ký bảo hộ nhãn quyền, thay đổi bao bì sản phẩm theo logo mới, tập huấn cho bà con về công nghệ nông nghiệp hữu cơ, xây dựng phương án quảng bá sản phẩm: lập website, fanpage mạng xã hội và các nền tảng video hàng đầu như Youtube, Tik Tok… Hướng tới sản phẩm được trưng bày tại các trung tâm, Nhà khách lớn của Hà Nội như Nhà khách chính phủ, Trung tâm hội nghị quốc gia…
TS Phạm Đình Nam phát biểu tại cuộc họp
Cũng tại cuộc họp ông Phạm Thế Quốc đã chia sẻ những kinh nghiệm trồng vải thiều thành công ở Tây Nguyên; TS Lê Đức Thọ cũng giới thiệu một số công nghệ hiện đại trong trồng và chế xuất café trên thế giới có thể ứng dụng cho thực tiễn tại bản Hìn, Sơn La.
Thay mặt Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp công nghệ cao Hữu Cơ phiêng Tam, bà Tòng Thị Mai cảm ơn Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam đã tiếp đón và nhiệt tình tư vấn cho dự án, mong muốn được các chuyên gia hỗ trợ đào tạo nhân lực về công nghệ nông nghiệp hữu cơ và tư vấn, hỗ trợ đăng ký giấy chứng nhận các loại để Hợp tác xã có thể chủ động trồng và chế xuất café đạt tiêu chuẩn Organic hiện hành.
Đáp lại, ông Phạm Đình Nam, Viện trưởng Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam cam kết Viện sẽ luôn đồng hành cùng Hợp tác xã thực hiện dự án, tin tưởng thương hiệu café Arabica Hone sẽ có chỗ đứng vững chắc trên thị trường café Việt Nam, vươn tầm khu vực, châu lục và thế giới.
Xuân Ất Tỵ 2025 đón chào sự kiện lịch sử quan trọng của ngành Nông nghiệp – Phát triển nông thôn và ngành Tài nguyên – Môi trường: Mái nhà chung mang tên Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Xuân Ất Tỵ 2025, năm của con rắn mang đến nhiều ý nghĩa sâu sắc về nông nghiệp, về môi trường.
Với nông nghiệp, rắn là “người bảo vệ thầm lặng”, là thiên địch giúp kiểm soát tự nhiên các loài phá hoại mùa màng như chuột, côn trùng, chim chóc. Với môi trường, rắn là “cảm biến sinh học” phản ứng sớm với biến đổi thời tiết, thiên tai, ô nhiễm và góp phần bảo vệ sự đa dạng sinh học, cân bằng hệ sinh thái, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cho thế hệ mai sau. Với văn hóa, văn minh lúa nước, rắn tượng trưng cho sự đổi mới và phát triển. Kết quả tốt đẹp, thành tựu vượt bậc, không đến từ sự an nhàn hay giữ nguyên theo cách cũ, mà đến từ sự “lột xác”, chủ động thay đổi, để đón nhận tương lai.
Rắn lột da để lớn lên. Con người thay đổi tư duy, hành động để thành công. Tổ chức, bộ máy sắp xếp lại để vận hành nhanh nhạy hơn, thông suốt hơn. Mục tiêu của việc hợp nhất hai Bộ, tổ chức lại các đơn vị bên trong, phân định chức năng nhiệm vụ hợp lý, khoa học, hướng đến sự tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả.
Giá trị xanh, bền vững không còn là xu hướng. Giảm phát thải, tối ưu hóa quy trình sản xuất, hạn chế tác động tiêu cực đến môi trường… không còn là khẩu hiệu, hay khuyến nghị cho tương lai, mà đã hiện diện trong mọi hoạt động của sản xuất, sinh hoạt hằng ngày.
Người tiêu dùng không chỉ quan tâm đến chất lượng, giá cả…, mà chú trọng cả về tổng thể quy trình sản xuất, cách thức sản phẩm nông nghiệp được tạo ra, về quá trình vận chuyển nông sản, từ cánh đồng, ao nuôi… đến bàn ăn, có bảo đảm các tiêu chuẩn về an toàn, thân thiện với môi trường? Và cả câu chuyện cảm xúc, độc đáo của chính người nông dân, của làng quê nông thôn, biết bảo vệ sức khỏe của bản thân, của cộng đồng, biết gìn giữ môi trường sống cho thế hệ mai sau.
Chính vì vậy, sự hợp lực của hai Ngành, sự gắn kết chức năng quản lý sản xuất và kinh tế nông nghiệp, phát triển nông thôn, với chức năng quản lý tổng hợp về tài nguyên và môi trường vừa thích ứng kịp thời với xu thế toàn cầu, vừa khởi tạo không gian giá trị mới theo xu hướng tuần hoàn và bền vững.
Từ góc độ kinh tế tuần hoàn, không gian giá trị mới cao hơn, bền vững hơn, mở ra cơ hội, dư địa phát triển cho ngành Nông nghiệp và Môi trường. Đi vào mô tả chi tiết, nông nghiệp tuần hoàn là “mô hình sản xuất nông nghiệp, trong đó tài nguyên như đất, nước, năng lượng, và chất thải được sử dụng hiệu quả và tái sử dụng liên tục. Mục tiêu là giảm thiểu chi phí, bảo vệ môi trường và tối ưu hóa năng suất. Trong mô hình này, chất thải nông nghiệp như phân bón, rơm rạ, hay phân động vật được tái chế hoặc tái sử dụng làm tài nguyên cho các hoạt động sản xuất tiếp theo, tạo ra một hệ sinh thái tự cung tự cấp và bền vững”.
Trong diễn giải về mô hình nông nghiệp tuần hoàn nêu trên, có những từ khóa đáng lưu ý như: “sản xuất nông nghiệp, tài nguyên, bảo vệ môi trường, tái chế chất thải nông nghiệp thành tài nguyên…”. Điều đó cho thấy, các chức năng quản lý nông nghiệp, điều hành sản xuất và chức năng quản lý tổng hợp về biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, trước đây được phân tách tương đối độc lập ở hai ngành khác nhau, thì giờ đây, đã nối kết lại trở thành một. Đúng là từ một trong hai (một việc có cả trong hai ngành), nay hợp nhất “hai là một”.
Những giá trị mới bắt đầu được hình thành từ sự hợp nhất này. Thay vì xử lý chất thải nông nghiệp tốn kém do phát sinh thêm chi phí, giờ được tái chế, tái sử dụng thành tài nguyên, tạo ra sản phẩm mới, nâng giá trị gia tăng cho sản xuất nông nghiệp và thương hiệu nông sản. Môi trường canh tác và sinh hoạt nhờ thế mà trở nên trong lành và an toàn hơn.
Trước đây, công tác quản lý tài nguyên dựa trên tài nguyên tái tạo được hay tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được, thì nông nghiệp tuần hoàn giờ đây có thể tạo ra những tài nguyên mới, với vòng đời mới, giá trị mới. Như vậy, tư duy kinh tế trong Nông nghiệp và Môi trường, một lần nữa, gắn kết với cách thức tiếp cận bao hàm các giá trị xanh, trách nhiệm, bền vững.
Chuyển từ tư duy sản xuất sang tư duy kinh tế, chuyển từ tư duy kinh tế tuyến tính sang tư duy kinh tế tuần hoàn với mục tiêu nông nghiệp xanh, môi trường xanh trong nền kinh tế xanh. Tư duy kinh tế tuyến tính theo mô hình “Khai thác – Sản xuất – Tiêu dùng – Thải bỏ”, dẫn đến hậu quả là tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức, rác thải gia tăng, môi trường ô nhiễm. Tư duy kinh tế tuần hoàn theo mô hình “Giảm thiểu – Tái sử dụng – Tái chế”, hay “Phụ phẩm của quy trình sản xuất này có thể trở thành nguyên liệu chính của quy trình sản xuất tiếp theo”, giúp giảm khai thác tài nguyên, giảm rác thải, tiết kiệm chi phí sản xuất, thúc đẩy sáng tạo, tối ưu hóa lợi nhuận ngắn hạn và lợi ích dài hạn.
Nói một cách giản đơn, tư duy tuyến tính có thể được hình dung như từng đoạn thẳng tăng trưởng, phân định rõ ràng điểm đầu (thường là khai thác), điểm cuối (thường là thải loại), mang tính thời điểm, tùy theo giai đoạn, lúc xuống lúc lên, khi thấp khi cao. Còn tư duy tuần hoàn có thể được hình dung như đường tròn kết nối xuyên suốt – kết quả của quy trình này là đầu vào của quy trình tiếp đến, như đường xoắn ốc phát triển tích hợp và tích lũy đa tầng giá trị.
Tư duy kinh tế tuần hoàn không chỉ là một chiến lược sản xuất nông nghiệp, mà còn là một triết lý quản lý tối ưu hóa tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Với mục tiêu giảm thiểu lãng phí và tối đa hóa giá trị các nguồn lực đa dạng, tư duy tuần hoàn không chỉ mang đến lợi ích kinh tế, đem lại thu nhập tăng thêm cho người nông dân, mà còn góp phần bảo vệ hệ sinh thái và xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại.
Điều này tương tự với các hệ sinh thái tự nhiên, nơi mà các nguồn lực được tuần hoàn và tái tạo mà không bị lãng phí. Các mô hình nông nghiệp tuần hoàn kết hợp giữa trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và các công nghệ xử lý chất thải để giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Yếu tố tài nguyên và môi trường được kết hợp ngay trong từng đề án, chiến lược, nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực nông nghiệp.
Khi tư duy tuần hoàn trong quản trị ngành Nông nghiệp và Môi trường vận hành thông suốt, việc đề xuất cơ chế chính sách thúc đẩy kinh tế xanh sẽ thuận lợi và thuyết phục hơn. Các nghiên cứu khoa học nông nghiệp gắn với môi trường sẽ tạo ra sản phẩm nghiên cứu đồng bộ, đa mục tiêu. Các mô hình sản xuất nông nghiệp được đa dạng hóa, các yếu tố tác động môi trường được tính toán tổng thể, khuyến khích sự kết hợp giữa trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản. Tích hợp và nối kết dữ liệu viễn thám, khí tượng thủy văn, ứng dụng trí tuệ nhân tạo sẽ giải quyết những vấn đề mùa vụ trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, lâm nghiệp và kiểm soát chất lượng rừng, đa dạng sinh học, tích hợp dữ liệu đa tầng cho lĩnh vực thủy lợi, phòng chống thiên tai, hạn hán và kiểm soát hạn mặn.
Trong ngành Nông nghiệp và Môi trường, tài nguyên đất đai, nước và năng lượng luôn có giới hạn, khó tái tạo. Tư duy “ít hơn để được nhiều hơn” – đầu vào tối thiểu, kết quả tối đa, hướng đến việc sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả nhất, giảm thiểu lãng phí và khuyến khích tái sử dụng tài nguyên: tái sử dụng nước, phân bón từ chất thải nông nghiệp, hoặc năng lượng tái tạo từ sinh khối. Tư duy “ít hơn để được nhiều hơn” mở rộng không gian quản lý chuỗi cung ứng hiệu quả, không chỉ quan tâm đến sản xuất, mà còn đảm bảo các nguồn lực và sản phẩm được sử dụng và tái sử dụng hiệu quả.
Quản trị ngành Nông nghiệp và Môi trường càng được cải tiến theo hướng toàn diện, mang tính hệ thống và gắn kết chặt chẽ. Bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên và đảm bảo an ninh lương thực cho thế hệ tương lai, trở thành mục tiêu nhất quán và xuyên suốt.
Đề án 1 triệu hec-ta chuyên canh lúa chất lượng cao, giảm phát thải, gắn với tăng trưởng xanh, nông nghiệp tuần hoàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long là minh chứng sinh động cho sự gắn kết giữa Nông nghiệp và Môi trường. Ngành hàng lúa gạo dù tăng trưởng và phát triển thần kỳ, nhưng đã phát sinh nhiều hệ lụy: suy thoái môi trường đất, nước, không khí. Khi kết hợp mục tiêu sản xuất lúa với mục tiêu gìn giữ môi trường, ngành hàng lúa gạo, từ thâm dụng tài nguyên, đã chuyển sang cải thiện và tái tạo tài nguyên, bảo đảm chất lượng môi trường.
Kinh tế tuần hoàn trong ngành hàng lúa gạo sẽ tạo ra những giá trị mới từ rơm rạ, tạo ra ngành trồng nấm trên rơm rạ, vật liệu xây dựng, năng lượng từ rơm rạ… Một phần rơm rạ được băm và vùi trở lại ruộng đồng, tạo thành nguồn phân hữu cơ cho vụ mùa sau. Tất cả phụ phẩm của ngành hàng lúa gạo đều được sử dụng hiệu quả, sẽ không còn tình trạng đốt đồng gây phát thải, làm ô nhiễm môi trường.
Đơn ngành hẹp, tuần hoàn hẹp, giá trị thấp. Đa ngành rộng, tuần hoàn rộng, giá trị cao. Đa ngành, đa lĩnh vực, tuần hoàn, bền vững, giá trị vượt trội đến từ sự gắn kết chặt chẽ, cộng sinh giữa Nông nghiệp và Môi trường. Cuộc cách mạng về sắp xếp bộ máy sẽ dẫn đến cuộc cách mạng về tư duy quản trị hệ thống và hành động hệ thống trong ngành Nông nghiệp và Môi trường.
Cảm hứng phát triển nhờ hợp lực ngành Nông nghiệp và Môi trường cần được lan tỏa sâu rộng đến cộng đồng doanh nghiệp lĩnh vực nông nghiệp – môi trường, đến hợp tác xã, đến bà con nông dân, đến cộng đồng dân cư nông thôn. Xã hội cần đến những hợp tác xã đa dịch vụ nông nghiệp – môi trường lớn mạnh hơn, có chất lượng hoạt động tốt hơn. Xã hội cần đến những “cánh đồng lớn” – lớn về tư duy, lớn về tinh thần liên kết – hợp tác, không còn phân mảnh ruộng anh ruộng tôi, mà đồng đều về chất lượng, đồng lòng về cách nghĩ, cách làm, đồng thuận về yêu cầu, tiêu chuẩn, quy trình canh tác, không gây tác động xấu cho môi trường. Xã hội cần đến những sản phẩm nông nghiệp đại diện cho những người nông dân năng động, trách nhiệm, mạnh dạn thay đổi, biết làm giàu cho chính mình, biết nghĩ đến người xung quanh và con cháu mai sau.
Trước hết và trên hết, hợp lực Nông nghiệp và Môi trường xoay quanh mục tiêu cốt lõi: khơi thông cảm hứng phát triển liên ngành, liên lĩnh vực, cân bằng giữa bảo tồn và tăng trưởng, hài hòa tam giác bền vững kinh tế – xã hội – môi trường, cải thiện chất lượng sống từ nông thôn đến thành thị, giúp người nông dân ngày càng thịnh vượng hơn.
Thông tin trên được bà Kim Thu – Chuyên gia thị trường tôm (thuộc Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam) cung cấp.
Tôm sú đứng vững trên thị trường châu Âu nhờ Hiệp định EVFTA
Tôm sú được coi là sản phẩm cao cấp nhờ màu sắc, hương vị đặc biệt, kích cỡ lớn và thường được yêu thích ở các thị trường ngách tại EU như Hà Lan, Bỉ, Đức, Pháp.
Trong quý I/2022, XK tôm sú của Việt Nam sang thị trường EU ghi nhận tăng trưởng đột phá 107% với giá trị XK đạt 24 triệu USD
Bà Kim Thu chia sẻ: Tôm sú được tiêu thụ tại các thị trường bán lẻ và dịch vụ thực phẩm tại châu Âu. Năm 2020 và đầu năm 2021, tiêu thụ tôm sú tại EU chững lại do ảnh hưởng của dịch Covid-19, các nhà hàng quán ăn đóng cửa để phòng dịch.
Thế nhưng, từ giữa năm 2021, thị trường dần dần mở cửa trở lại nên nhu cầu tiêu thụ tôm sú tại thị trường EU phục hồi và dự kiến vẫn duy trì ở mức cao trong năm 2022.
“Lĩnh vực bán buôn và bán lẻ tại thị trường EU ưa chuộng các sản phẩm như tôm sú HLSO và tôm sú bóc vỏ cỡ 16/20 – 51/60, tôm sú HOSO cỡ 21/26. Lĩnh vực tái chế biến có nhu cầu cao với các sản phẩm tôm sú HOSO, HLSO, lột vỏ đóng block cỡ 16/20 – 51/60.
Trong phân khúc bán lẻ, các sản phẩm tôm sú lột vỏ đông lạnh chủ yếu được bán dưới dạng túi 250g – 1kg. Tôm sú HOSO semi IQF hoặc IQF được bán dưới dạng túi 250g – 1kg hoặc hộp carton từ 500g – 1kg. Phần lớn các tổ chức bán lẻ bán tôm đông lạnh dưới nhãn của riêng họ”, bà Thu tâm sự.
Hiện nay, các nhà cung cấp tôm sú cho thị trường EU gồm Bangladesh, Việt Nam, Madagascar, Indonesia, Ấn Độ và Myanmar. Các sản phẩm cạnh tranh với tôm sú trên thị trường EU như tôm chân trắng, tôm đỏ Argentina và tôm sú khai thác tự nhiên.
Theo bà Thu, trong quý đầu năm nay, xuất khẩu (XK) tôm sú của Việt Nam sang thị trường EU ghi nhận tăng trưởng đột phá 107% với giá trị XK đạt 24 triệu USD. XK tôm sú Việt Nam sang EU bắt đầu tăng trong năm 2021, các năm trước đó, XK vẫn ghi nhận giảm. Năm 2021, XK tôm sú Việt Nam sang EU đạt 98,5 triệu USD, tăng 36% so với năm 2020.
Các sản phẩm tôm sú Việt Nam chủ yếu XK sang EU trong quý đầu năm nay gồm tôm sú nguyên con tươi đông lạnh, tôm sú PD tươi đông lạnh, tôm sú bỏ đầu EZP tươi đông lạnh, tôm sú bỏ đầu HLSO EZP tươi đông lạnh, tôm sú IQF tươi đông lạnh, tôm sú PDTO hấp chín IQF, tôm sú HOSO tươi đông lạnh, tôm sú CPTO hấp đông lạnh…
Bà Thu nhấn mạnh: “Tôm sú Việt Nam trên thị trường EU có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn các nhà cung cấp đối thủ. Cùng với lợi thế từ Hiệp định EVFTA, tôm sú Việt Nam còn nhiều cơ hội tăng trưởng tại thị trường này. Với sản phẩm tôm sú đi châu Âu, doanh nghiệp cần phải đảm bảo được nhiều yêu cầu về chất lượng, truy xuất nguồn gốc, chuỗi hành trình sản phẩm và chứng nhận của bên thứ ba”.
Xuất khẩu cua ghẹ quý I/2022 đạt 52 triệu USD
Trong khi đó, tiếp nối sự tăng trưởng trong quý 4/2021, XK cua ghẹ của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng tốt trong quý I/2022. Giá trị XK cua ghẹ trong quý này đạt gần 52 triệu USD, tăng 62% so với cùng kỳ năm 2021. Đây là mức cao nhất trong 5 qua, tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm 2019, thời điểm trước khi xảy ra đại dịch Covid-19.
Số liệu thống kê xuất khẩu cua ghẹ Việt Nam
Cụ thể, Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản và Pháp là top 4 thị trường đơn lẻ nhập khẩu (NK) nhiều nhất cua ghẹ của Việt Nam. Trong đó, Pháp chiếm hơn 91% tổng giá trị XK.
Theo bà Thu, sau khi sụt giảm trong năm 2021, XK cua ghẹ của Việt Nam sang Trung Quốc và Hồng Kông tăng cao liên tục trong 3 tháng đầu năm 2022. Giá trị XK cua ghẹ sang thị trường này trong quý I/2022 đạt hơn 20 triệu USD, tăng 104% so với cùng kỳ.
Nguyên nhân chính là do các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã thích nghi tốt với chính sách “zero Covid” của nước này. Sự tăng trưởng cao này đã đưa Trung Quốc trở thành thị trường NK cua ghẹ lớn nhất của Việt Nam
Với thị trường Nhật Bản, XK cua ghẹ của Việt Nam đang tiếp tục tăng trưởng trong quý này. Giá trị xuất khẩu cua ghẹ sang thị trường Nhật Bản đạt gần 19 triệu USD, tăng 18% so với cùng kỳ.
Nhật Bản hiện đang là nước NK nhiều nhất cua ghẹ của Việt Nam trong khối thị trường tham gia Hiệp định CPTPP. Và cũng là nước duy trì được sự tăng trưởng NK cua ghẹ liên tục trong 3 tháng đầu năm 2022. Trong khi đó, XK cua ghẹ sang Australia và Singapore lại có sự sụt giảm liên tục trong quý này.
Bà Thu cho biết thêm, tại khối thị trường EU, XK cua ghẹ của Việt Nam cũng phục hồi sau khi sụt giảm vào năm ngoái. Tuy nhiên, XK sang các thị trường trong khối không ổn định. Pháp hiện đang là thị trường NK cua ghẹ lớn nhất của Việt Nam trong khối thị trường này, đạt gần 1,7 triệu USD, tăng 38%.
Trên thị trường cua EU, các doanh nghiệp XK cua của Việt Nam phải cạnh tranh với các sản phẩm cua đến từ Anh, Na Uy, Madagascar, Trung Quốc, Indonesia. Các sản phẩm cạnh tranh với cua trên thị trường này gồm tôm hùm và surimi.
Đáng chú ý, XK cua ghẹ của Việt Nam sang Mỹ tăng trưởng liên tục trong quý I/2022. Giá trị XK cua ghẹ của Việt Nam sang thị trường này trong 3 tháng đầu năm 2022 đạt gần 19 triệu USD, tăng 78% so với cùng kỳ.
Mỹ đã mở cửa hoàn toàn trở lại điều này đã giúp nhu cầu tiêu thụ cua ghẹ tăng. Bên cạnh đó, chi phí sản xuất và chi phí vận chuyển đường biển tăng đã đẩy giá XK tăng lên.
Trái cây được mùa nhưng còn đó nỗi lo tiêu thụ, giá cả
Quý II/2022 là thời điểm nhiều loại cây trái khắp cả nước, đặc biệt là các tỉnh Nam Bộ bước vào vụ thu hoạch, nhưng việc tiêu thụ cùng với giá cả đang là vấn đề lớn.
Trái cây Nam Bộ sắp vào vụ thu hoạch nhưng khâu tiêu thụ và giá cả là vấn đề không dễ giải quyết
Đây cũng chính là lý do để Bộ NN-PTNT tổ chức Hội nghị trực tuyến “Thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ nông sản tại các tỉnh, thành Nam Bộ” vào ngày 8/5.
Trên cơ sở dự báo tiêu thụ sẽ gặp khó khăn do Trung Quốc tiếp tục duy trì chính sách “zero Covid”, các biện pháp phòng dịch của nước này làm chậm tiến độ xuất khẩu, gây ùn ứ tại cửa khẩu, ảnh hưởng đến tiêu thụ trong nước. Ngoài ra, năng lực chế biến trái cây trong nước còn hạn chế, chủ yếu xuất khẩu trái tươi, nếu gặp điều kiện khó khăn khi xuất khẩu, lúc đó việc tiêu thụ sẽ vô cùng khó khăn, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, ông Lê Thanh Tùng đưa ra những trở ngại trong việc tiêu thụ trái cây quý II/2022.
Cùng quan điểm với ông Lê Thanh Tùng, ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN-PTNT), cho biết trong 2 tháng qua, các cửa khẩu chính tại Quảng Ninh, Lào Cai đóng cửa do Trung Quốc phát hiện Covid-19 đã gây áp lực lớn đến xuất khẩu nông sản Việt Nam.
Chưa kể, những đợt phía Trung Quốc kiểm tra trực tuyến về công tác kiểm soát Covid-19 cho thấy nhiều doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam còn chủ quan, chưa tuân thủ quy định về phòng dịch khi đưa hàng sang nước bạn. Việc ách tắc trong xuất khẩu rau quả cũng nằm ở khâu kiểm tra Covid-19, không phải do kiểm dịch thực vật nên doanh nghiệp cần phải kiểm soát chặt quy trình sản xuất, tránh lây nhiễm chéo Covid-19 trên bao bì, sản phẩm, thành container…
Còn đối với thị trường EU, dù rau quả Việt Nam đang được hưởng lợi do ưu đãi thuế quan nên tăng trưởng tốt trong năm qua. Tuy nhiên trong thời gian gần đây phát sinh vấn đề EU tăng tần suất kiểm tra đối với thanh long và rau gia vị từ 10% lên 20% khiến lượng xuất khẩu sụt giảm.
Trước những khó khăn kể trên, ông Lê Thanh Tùng kiến nghị đẩy mạnh đánh giá cấp mã số vùng trồng cây ăn quả để tăng cường quản lý vùng trồng, nắm sát sản lượng, chất lượng từng loại quả; chỉ đạo rải vụ trái cây (thanh long, xoài, nhãn, chôm chôm, sầu riêng) linh hoạt phù hợp với tình hình tiêu thụ. Đồng thời, tiếp tục kết nối doanh nghiệp thu mua trái cây; phát triển mảng bảo quản và chế biến.
Về việc ách tắc ở cửa khẩu, ông Lê Thanh Hòa khuyến nghị các địa phương, doanh nghiệp theo dõi, cập nhật thông tin ở cửa khẩu để điều phối trái cây lên biên cho hợp lý.
Trước những ý kiến, giải pháp của các đại biểu đưa ra, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan đã đưa ra ý kiến chỉ đạo. Theo Tư lệnh ngành Nông nghiệp, các địa phương không nên “than vãn” mà cần tìm giải pháp để hướng đến sản xuất nông nghiệp bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông dân.
“Cần tổ chức lại sản xuất để thích ứng với những thay đổi của thị trường, đừng để khi cửa khẩu với Trung Quốc thông thì mọi việc lại quay về như cũ. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp vẫn còn tư duy nước đến chân mới nhảy, vẫn suy nghĩ Trung Quốc là thị trường dễ tính nên không chịu thay đổi để thích ứng. Cần nhìn vào cách ngành rau quả Thái Lan thích ứng với chính sách “zero Covid” của Trung Quốc nên xuất khẩu của họ ít bị ảnh hưởng. Họ tìm cách đáp ứng được quy định để kiểm soát Covid-19 trong chuỗi sản xuất trái cây trong khi Việt Nam chỉ có thể hy vọng đàm phán để Trung Quốc nới lỏng quy định”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan thẳng thẳn góp ý.
Cuối cùng Bộ trưởng Lê Minh Hoan chia sẻ quy luật thị trường không phải lúc nào cũng như ý muốn, vì thế các mô hình sản xuất nông nghiệp cần tiết kiệm chi phí, giúp tăng hiệu quả kinh doanh cần được lan tỏa, nhân rộng.
Được biết, theo ước tính của Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), tổng sản lượng cây ăn quả chính tại Nam Bộ trong quý II/2022 sẽ đạt khoảng 1,5 triệu tấn, cao hơn quý I khoảng 137.000 tấn do một số loại quả vào mùa như: thanh long, chuối, nhãn, chôm chôm, sầu riêng… Vì thế đây sẽ là một áp lực trong khâu tiêu thụ cũng như giá cả.