Phát động cuộc thi viết “Nông nghiệp Hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững”
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội XIII) nhiệm kỳ 2021-2026. Đồng thời, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức tạo sự lan tỏa mạnh mẽ tới Nhân dân trên cả nước về nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ. Trong khuôn khổ Hội nghị Hữu cơ Châu Á lần thứ 8 tại Việt Nam do Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đăng cai tổ chức lần đầu tiên tại Việt Nam (được tổ chức tại Ninh Bình). Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đồng ý giao cho Tạp chí Hữu cơ Việt Nam/ Tạp chí điện tử Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam tổ chức Lễ phát động cuộc thi viết “Nông nghiệp hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” năm 2025 (⇒ THỂ LỆ).
Cuộc thi viết “Nông nghiệp Hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” được phát động, nhận tác phẩm dự thi từ 27/2 – 30/8/2025 và tổ chức công bố, trao giải vào tháng 9 năm 2025.
![]() |
TSKH. Hà Phúc Mịch, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng chấm giải cuộc thi viết “Nông nghiệp hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” năm 2025. |
TS Hà Phúc Mịch, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng chấm giải cuộc thi viết “Nông nghiệp hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” năm 2025 chia sẻ, Cuộc thi viết “Nông nghiệp hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” là cơ hội để tác giả chia sẻ những ý tưởng, kinh nghiệm và giải pháp sáng tạo trong việc phát triển nông nghiệp hữu cơ.
“Ban Tổ chức mong muốn nhận được những bài viết chất lượng, phản ánh chân thực thực trạng và đề xuất những hướng đi mới, góp phần thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ phát triển mạnh mẽ hơn”, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam bày tỏ hy vọng.
Sản phẩm báo chí dự thi là các tác phẩm về các chủ trương chính sách của Đảng, Chính phủ, địa phương về phát triển nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ. Trong đó trọng tâm là: Nâng cao vai trò, vị thế, năng lực làm chủ, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân, doanh nghiệp, HTX… tham gia phát triển nền nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ hiệu quả, bền vững theo hướng sinh thái, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp. Tuyên truyền để nâng cao nhận thức người tiêu dùng, vận dụng và ủng hộ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Đồng thời, nâng cao vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc phát triển nông nghiệp hữu cơ.
Các tác phẩm báo chí về phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững, tích hợp đa giá trị, nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia chuỗi sản xuất giá trị, nông nghiệp xanh, hữu cơ tuần hoàn, bảo vệ môi trường sinh thái, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, hội nhập quốc tế, gắn với đề án phát triển nông nghiệp, kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của địa phương.
![]() |
Nhà báo Đỗ Ngọc Thi, Phó Tổng biên tập phụ trách Tạp chí Hữu cơ Việt Nam, Trưởng ban Tổ chức cuộc thi “Nông nghiệp hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” năm 2025. |
Nhà báo Đỗ Ngọc Thi, Phó Tổng biên tập phụ trách Tạp chí Hữu cơ Việt Nam, Trưởng ban Tổ chức cuộc thi cho biết: Đây là một sự kiện quan trọng, nhằm khuyến khích sự quan tâm và đóng góp của cộng đồng vào việc phát triển nông nghiệp hữu cơ, hướng tới một nền kinh tế xanh và bền vững. Nông nghiệp hữu cơ không chỉ đơn thuần là một phương thức canh tác, mà còn là một triết lý sống, tôn trọng tự nhiên và bảo vệ sức khỏe con người. Việc áp dụng nông nghiệp hữu cơ giúp giảm thiểu việc sử dụng hóa chất, bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học, đồng thời cung cấp những sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng.
Thông qua các tác phẩm loại hình báo chí về các địa phương có những hướng đi mới trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong việc phát triển nông nghiệp hữu cơ, các hợp tác xã, các doanh nghiệp có cách làm hay, sáng tạo để đổi mới phương thức hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp hữu cơ.
Các tác phẩm báo chí tuyên truyền về gương những cá nhân điển hình, doanh nghiệp, doanh nhân giỏi năng động, sáng tạo trong cơ chế thị trường, dám nghĩ, dám làm, khai thác sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, lao động, đất đai… chủ động, đi đầu trong ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới, công nghệ 4.0 gắn với chuyển đổi số, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả, kinh tế cao trong phát triển nông nghiệp hữu cơ.
![]() |
Ông Nguyễn Đức Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng chấm giải cuộc thi viết “Nông nghiệp hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” năm 2025. |
Ông Nguyễn Đức Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam đánh giá cao việc Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ đã chỉ đạo và giao trách nhiệm cho Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ tổ chức Cuộc thi.
“Đây là một cuộc thi viết về một lĩnh vực ngách trong ngành nông nghiệp và ngành kinh tế, một nội dung, chủ để mang tính thời sự phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời cũng phù hợp với xu thế quốc tế, ông Nguyễn Đức Lợi cho biết thêm.
![]() |
Toàn cảnh buổi Lễ phát động cuộc thi viết “Nông nghiệp Hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” năm 2025. |
Cuộc thi viết “Nông nghiệp Hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” năm 2025 là cơ hội tác giả chia sẻ những ý tưởng, kinh nghiệm và giải pháp sáng tạo trong việc phát triển nông nghiệp hữu cơ. Ban tổ chức mong muốn nhận được những bài viết chất lượng, phản ánh chân thực thực trạng và đề xuất những hướng đi mới, góp phần thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ phát triển mạnh mẽ hơn.
![]() |
Các đại biểu chụp ảnh tại buổi lễ. |
Tác phẩm dự thi xin gửi về địa chỉ: Tạp chí Hữu cơ Việt Nam/ Tạp chí điện tử Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam (Cung Trí Thức Tp.Hà Nội, Phòng 806 tầng 8, số 1 Tôn Thất Thuyết – Cầu Giấy – Hà Nội). Điện thoại: 024.3333.3833 – Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vn ⇒ THỂ LỆ Cuộc thi viết “Nông nghiệp Hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” năm 2025. |
Theo nongnghiephuuco.vn
Thực hiện Ánh Dương
toasoan@tapchihuucovietnam.vn
Phát động cuộc thi viết về nông nghiệp hữu cơ
(Chinhphu.vn) – Ngày 27/2, Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, Tạp chí Hữu cơ Việt Nam tổ chức Lễ phát động cuộc thi viết với chủ đề “Nông nghiệp hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững”. Sự kiện nhằm lan tỏa thông điệp về một nền nông nghiệp xanh, sạch, gắn với mục tiêu phát triển bền vững mà Đảng và Nhà nước đang hướng tới.
TS Hà Phúc Mịch, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam – Ảnh VGP/Đỗ Hương
Cuộc thi được tổ chức trong bối cảnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (nhiệm kỳ 2021-2026), đồng thời hưởng ứng Hội nghị Hữu cơ Châu Á lần thứ 8 do Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đăng cai tại Ninh Bình. Đây là lần đầu tiên Việt Nam tổ chức sự kiện quốc tế quan trọng này, mở ra cơ hội khẳng định vai trò của nông nghiệp hữu cơ trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.
TS Hà Phúc Mịch, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam chia sẻ, Cuộc thi viết “Nông nghiệp hữu cơ – Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” là cơ hội để tác giả chia sẻ những ý tưởng, kinh nghiệm và giải pháp sáng tạo trong việc phát triển nông nghiệp hữu cơ.
“Ban Tổ chức mong muốn nhận được những bài viết chất lượng, phản ánh chân thực thực trạng và đề xuất những hướng đi mới, góp phần thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ phát triển mạnh mẽ hơn”, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam bày tỏ hy vọng.
Ông Nguyễn Đức Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam đánh giá cao việc Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ đã chỉ đạo và giao trách nhiệm cho Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ tổ chức Cuộc thi.
“Đây là một cuộc thi viết về một lĩnh vực ngách trong ngành nông nghiệp và ngành kinh tế, một nội dung, chủ để mang tính thời sự phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời cũng phù hợp với xu thế quốc tế, ông Lợi cho biết thêm.
Cuộc thi chính thức nhận tác phẩm dự thi từ ngày 27/2 đến hết ngày 30/8/2025. Lễ công bố và trao giải dự kiến diễn ra vào tháng 9/2025. Các bài viết tham gia cần tập trung vào những chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ và địa phương về phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ. Trong đó, trọng tâm là nâng cao vai trò, năng lực của người dân, doanh nghiệp, hợp tác xã trong việc xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái, ứng dụng công nghệ tiên tiến, cải thiện chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường. Đồng thời, các tác phẩm cần làm nổi bật trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc thúc đẩy mô hình này.
Nhà báo Đỗ Ngọc Thi, Phó Tổng biên tập phụ trách Tạp chí Hữu cơ Việt Nam, Trưởng ban Tổ chức cuộc thi – Ảnh VGP/Đỗ Hương
Không chỉ dừng lại ở chính sách, cuộc thi khuyến khích các bài viết phản ánh thực tiễn, như những mô hình nông nghiệp hữu cơ hiệu quả, tích hợp đa giá trị, tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu, ứng dụng chuyển đổi số và công nghệ 4.0. Những câu chuyện về các địa phương tiên phong tái cơ cấu ngành nông nghiệp, các doanh nghiệp, hợp tác xã đổi mới sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh cũng là nội dung được mong đợi. Đặc biệt, Ban tổ chức kỳ vọng nhận được các bài viết tôn vinh những tấm gương điển hình – những cá nhân, doanh nhân dám nghĩ, dám làm, khai thác hiệu quả nguồn lực, áp dụng khoa học kỹ thuật để đạt năng suất cao, góp phần khẳng định thương hiệu nông nghiệp hữu cơ Việt Nam.
Nhà báo Đỗ Ngọc Thi, Phó Tổng biên tập phụ trách Tạp chí Hữu cơ Việt Nam, Trưởng ban Tổ chức cuộc thi, chia sẻ: “Đây là cơ hội để cộng đồng cùng chung tay thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ, hướng tới một nền kinh tế xanh, bền vững. Nông nghiệp hữu cơ không chỉ là một phương thức canh tác mà còn là triết lý sống, tôn vinh giá trị tự nhiên, bảo vệ sức khỏe con người và môi trường sống. Chúng tôi hy vọng các tác phẩm dự thi sẽ mang đến những góc nhìn chân thực, sâu sắc, đồng thời đề xuất giải pháp thiết thực để nông nghiệp hữu cơ phát triển mạnh mẽ hơn.”
Theo thể lệ, các bài dự thi cần ghi rõ thông tin tác giả (họ tên, bút danh nếu có, địa chỉ, số điện thoại). Trường hợp là tác phẩm tập thể, phải liệt kê đầy đủ thông tin từng thành viên. Mỗi tác giả hoặc nhóm tác giả có thể gửi nhiều bài, mỗi bài tối đa 1.500 từ, kèm ảnh minh họa. Bài viết cần được đánh máy hoặc viết tay rõ ràng trên một mặt giấy. Tác phẩm dự thi gửi về Tạp chí Hữu cơ Việt Nam (Phòng 806, tầng 8, Cung Trí Thức TP. Hà Nội, số 1 Tôn Thất Thuyết, Cầu Giấy, Hà Nội) hoặc qua email: toasoan@tapchihuucovietnam.vn. Hotline liên hệ: 024.3333.3833.
Cuộc thi không chỉ là dịp để các nhà báo, cây bút chuyên và không chuyên chia sẻ ý tưởng, kinh nghiệm mà còn là cơ hội để cộng đồng nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của nông nghiệp hữu cơ. Với thông điệp “Vì sự tăng trưởng xanh, phát triển bền vững”, Ban tổ chức mong muốn sự kiện sẽ tạo dấu ấn mạnh mẽ, góp phần đưa nông nghiệp hữu cơ Việt Nam vươn xa trên bản đồ thế giới.
Đỗ Hương
Theo baochinhphu.vn
Arabica Hone – sản phẩm café đầy tiềm năng của Sơn La
Arabica HoneSơn La nổi tiếng với nhiều loại hoa quả như mận, bơ, cam, nhãn… nhưng theo chị Tòng Thị Mai – Chủ nhiệm Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp công nghệ cao Hữu Cơ phiêng Tam, tổ 3, bản Hìn thì thu nhập từ các loại hoa quả này kém xa thu nhập từ café.
Họp mặt triển khai dự án trồng và chế biến sản phẩm café Arabica Hone
Đầu năm 2025, tại Phòng họp 102, số 24 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam (VITAD-AGRI) đã long trọng đón tiếp phái đoàn Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp công nghệ cao Hữu Cơ phiêng Tam, bản Hìn, Sơn La đến làm việc về dự án triển khai dự án trồng và chế biến sản phẩm café Arabica Hone tại địa phương. Đến tham dự cuộc họp có ông Phạm Thế Quốc, người được xem là tiên phong trong việc đưa cây vải thiều lên Tây Nguyên đạt được kết quả mỹ mãn; TS Lê Đức Thọ, Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc Gia (Bộ Khoa học và Công nghệ), chuyên gia đào tạo kỹ thuật.
Tại đây, bà Tòng Thị Mai thay mặt Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp công nghệ cao Hữu Cơ phiêng Tam giới thiệu loại café mà hợp tác xã đã trồng, thu hoạch và chế xuất thành phẩm, dự kiến đăng ký nhãn hiệu Arabica Hone. Đây là loại café xuất xứ từ nước Đức, có tinh chất đậm đà, mùi thơm dễ chịu, được người dân Sơn La yêu thích, tạo công ăn việc làm cho nhiều người và thu nhập cao hơn trổng các loại cây khác, theo đó đến nay diện tích trồng café đã lên tới 280 ha, gấp hơn 3 lần diện tích trồng mận và các loại hoa quả khác. Hợp tác xã mong muốn sẽ xây dựng nên một thương hiệu có danh tiếng và phổ biến tại miền Bắc, dần vươn xa khắp cả nước và hướng tới xuất khẩu.
Logo sản phẩm café Arabica Hone
Ông Lò Văn Dũng, giám đốc công ty TNHH Xuất nhập khẩu du lịch và thương mại Quang Vinh – một thành viên của Hợp tác xã cung cấp một số thông tin quan trọng về thị trường tiêu thụ sản phẩm café Arabica Hone tại nhiều địa phương thuộc tỉnh Sơn La.
Bà Lèo Thị Ánh, người trực tiếp thu hoạch và chế biến café Arabica Hone cũng cung cấp một số hình ảnh và giới thiệu quy trình sản xuất loại café này, đồng thời giới thiệu sản phẩm thực tế, cho thấy đây là một loại đồ uống có sức hấp dẫn với mọi giới, mọi độ tuổi. Hương vị cafe dịu nhẹ, đặc trưng của Café đến từ châu Âu mà điển hình là CHLB Đức.
Café Arabica Hone được trồng, thu hoạch và chế biến tại bản Hìn
Phát biểu tại cuộc họp, TS Phạm Đình Nam, Viện trưởng Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam cho rằng đây là dự án đầy tiềm năng, nhất là trong tình hình hiện nay Nhà nước đang rất chú trọng và ưu tiên phát triển nông nghiệp hữu cơ, đã quy định trong thông tư 109/2019/TTg. Vì thế Hợp tác xã nên sớm triển khai đăng ký bảo hộ nhãn quyền, thay đổi bao bì sản phẩm theo logo mới, tập huấn cho bà con về công nghệ nông nghiệp hữu cơ, xây dựng phương án quảng bá sản phẩm: lập website, fanpage mạng xã hội và các nền tảng video hàng đầu như Youtube, Tik Tok… Hướng tới sản phẩm được trưng bày tại các trung tâm, Nhà khách lớn của Hà Nội như Nhà khách chính phủ, Trung tâm hội nghị quốc gia…
TS Phạm Đình Nam phát biểu tại cuộc họp
Cũng tại cuộc họp ông Phạm Thế Quốc đã chia sẻ những kinh nghiệm trồng vải thiều thành công ở Tây Nguyên; TS Lê Đức Thọ cũng giới thiệu một số công nghệ hiện đại trong trồng và chế xuất café trên thế giới có thể ứng dụng cho thực tiễn tại bản Hìn, Sơn La.
Thay mặt Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp công nghệ cao Hữu Cơ phiêng Tam, bà Tòng Thị Mai cảm ơn Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam đã tiếp đón và nhiệt tình tư vấn cho dự án, mong muốn được các chuyên gia hỗ trợ đào tạo nhân lực về công nghệ nông nghiệp hữu cơ và tư vấn, hỗ trợ đăng ký giấy chứng nhận các loại để Hợp tác xã có thể chủ động trồng và chế xuất café đạt tiêu chuẩn Organic hiện hành.
Đáp lại, ông Phạm Đình Nam, Viện trưởng Viện ứng dụng công nghệ và phát triển nông nghiệp Việt Nam cam kết Viện sẽ luôn đồng hành cùng Hợp tác xã thực hiện dự án, tin tưởng thương hiệu café Arabica Hone sẽ có chỗ đứng vững chắc trên thị trường café Việt Nam, vươn tầm khu vực, châu lục và thế giới.
Nội dung: Lê Ngọc Thành Vinh
Ảnh: Nguyễn Thị Bích Hồng
NÔNG NGHIỆP TUẦN HOÀN, MÔI TRƯỜNG BỀN VỮNG VÀ CẢM HỨNG PHÁT TRIỂN
Xuân Ất Tỵ 2025 đón chào sự kiện lịch sử quan trọng của ngành Nông nghiệp – Phát triển nông thôn và ngành Tài nguyên – Môi trường: Mái nhà chung mang tên Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Xuân Ất Tỵ 2025, năm của con rắn mang đến nhiều ý nghĩa sâu sắc về nông nghiệp, về môi trường.
Với nông nghiệp, rắn là “người bảo vệ thầm lặng”, là thiên địch giúp kiểm soát tự nhiên các loài phá hoại mùa màng như chuột, côn trùng, chim chóc. Với môi trường, rắn là “cảm biến sinh học” phản ứng sớm với biến đổi thời tiết, thiên tai, ô nhiễm và góp phần bảo vệ sự đa dạng sinh học, cân bằng hệ sinh thái, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cho thế hệ mai sau. Với văn hóa, văn minh lúa nước, rắn tượng trưng cho sự đổi mới và phát triển. Kết quả tốt đẹp, thành tựu vượt bậc, không đến từ sự an nhàn hay giữ nguyên theo cách cũ, mà đến từ sự “lột xác”, chủ động thay đổi, để đón nhận tương lai.
Rắn lột da để lớn lên. Con người thay đổi tư duy, hành động để thành công. Tổ chức, bộ máy sắp xếp lại để vận hành nhanh nhạy hơn, thông suốt hơn. Mục tiêu của việc hợp nhất hai Bộ, tổ chức lại các đơn vị bên trong, phân định chức năng nhiệm vụ hợp lý, khoa học, hướng đến sự tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả.

Giá trị xanh, bền vững không còn là xu hướng. Giảm phát thải, tối ưu hóa quy trình sản xuất, hạn chế tác động tiêu cực đến môi trường… không còn là khẩu hiệu, hay khuyến nghị cho tương lai, mà đã hiện diện trong mọi hoạt động của sản xuất, sinh hoạt hằng ngày.
Người tiêu dùng không chỉ quan tâm đến chất lượng, giá cả…, mà chú trọng cả về tổng thể quy trình sản xuất, cách thức sản phẩm nông nghiệp được tạo ra, về quá trình vận chuyển nông sản, từ cánh đồng, ao nuôi… đến bàn ăn, có bảo đảm các tiêu chuẩn về an toàn, thân thiện với môi trường? Và cả câu chuyện cảm xúc, độc đáo của chính người nông dân, của làng quê nông thôn, biết bảo vệ sức khỏe của bản thân, của cộng đồng, biết gìn giữ môi trường sống cho thế hệ mai sau.
Chính vì vậy, sự hợp lực của hai Ngành, sự gắn kết chức năng quản lý sản xuất và kinh tế nông nghiệp, phát triển nông thôn, với chức năng quản lý tổng hợp về tài nguyên và môi trường vừa thích ứng kịp thời với xu thế toàn cầu, vừa khởi tạo không gian giá trị mới theo xu hướng tuần hoàn và bền vững.

Từ góc độ kinh tế tuần hoàn, không gian giá trị mới cao hơn, bền vững hơn, mở ra cơ hội, dư địa phát triển cho ngành Nông nghiệp và Môi trường. Đi vào mô tả chi tiết, nông nghiệp tuần hoàn là “mô hình sản xuất nông nghiệp, trong đó tài nguyên như đất, nước, năng lượng, và chất thải được sử dụng hiệu quả và tái sử dụng liên tục. Mục tiêu là giảm thiểu chi phí, bảo vệ môi trường và tối ưu hóa năng suất. Trong mô hình này, chất thải nông nghiệp như phân bón, rơm rạ, hay phân động vật được tái chế hoặc tái sử dụng làm tài nguyên cho các hoạt động sản xuất tiếp theo, tạo ra một hệ sinh thái tự cung tự cấp và bền vững”.
Trong diễn giải về mô hình nông nghiệp tuần hoàn nêu trên, có những từ khóa đáng lưu ý như: “sản xuất nông nghiệp, tài nguyên, bảo vệ môi trường, tái chế chất thải nông nghiệp thành tài nguyên…”. Điều đó cho thấy, các chức năng quản lý nông nghiệp, điều hành sản xuất và chức năng quản lý tổng hợp về biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, trước đây được phân tách tương đối độc lập ở hai ngành khác nhau, thì giờ đây, đã nối kết lại trở thành một. Đúng là từ một trong hai (một việc có cả trong hai ngành), nay hợp nhất “hai là một”.

Những giá trị mới bắt đầu được hình thành từ sự hợp nhất này. Thay vì xử lý chất thải nông nghiệp tốn kém do phát sinh thêm chi phí, giờ được tái chế, tái sử dụng thành tài nguyên, tạo ra sản phẩm mới, nâng giá trị gia tăng cho sản xuất nông nghiệp và thương hiệu nông sản. Môi trường canh tác và sinh hoạt nhờ thế mà trở nên trong lành và an toàn hơn.
Trước đây, công tác quản lý tài nguyên dựa trên tài nguyên tái tạo được hay tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được, thì nông nghiệp tuần hoàn giờ đây có thể tạo ra những tài nguyên mới, với vòng đời mới, giá trị mới. Như vậy, tư duy kinh tế trong Nông nghiệp và Môi trường, một lần nữa, gắn kết với cách thức tiếp cận bao hàm các giá trị xanh, trách nhiệm, bền vững.

Chuyển từ tư duy sản xuất sang tư duy kinh tế, chuyển từ tư duy kinh tế tuyến tính sang tư duy kinh tế tuần hoàn với mục tiêu nông nghiệp xanh, môi trường xanh trong nền kinh tế xanh. Tư duy kinh tế tuyến tính theo mô hình “Khai thác – Sản xuất – Tiêu dùng – Thải bỏ”, dẫn đến hậu quả là tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức, rác thải gia tăng, môi trường ô nhiễm. Tư duy kinh tế tuần hoàn theo mô hình “Giảm thiểu – Tái sử dụng – Tái chế”, hay “Phụ phẩm của quy trình sản xuất này có thể trở thành nguyên liệu chính của quy trình sản xuất tiếp theo”, giúp giảm khai thác tài nguyên, giảm rác thải, tiết kiệm chi phí sản xuất, thúc đẩy sáng tạo, tối ưu hóa lợi nhuận ngắn hạn và lợi ích dài hạn.
Nói một cách giản đơn, tư duy tuyến tính có thể được hình dung như từng đoạn thẳng tăng trưởng, phân định rõ ràng điểm đầu (thường là khai thác), điểm cuối (thường là thải loại), mang tính thời điểm, tùy theo giai đoạn, lúc xuống lúc lên, khi thấp khi cao. Còn tư duy tuần hoàn có thể được hình dung như đường tròn kết nối xuyên suốt – kết quả của quy trình này là đầu vào của quy trình tiếp đến, như đường xoắn ốc phát triển tích hợp và tích lũy đa tầng giá trị.

Tư duy kinh tế tuần hoàn không chỉ là một chiến lược sản xuất nông nghiệp, mà còn là một triết lý quản lý tối ưu hóa tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Với mục tiêu giảm thiểu lãng phí và tối đa hóa giá trị các nguồn lực đa dạng, tư duy tuần hoàn không chỉ mang đến lợi ích kinh tế, đem lại thu nhập tăng thêm cho người nông dân, mà còn góp phần bảo vệ hệ sinh thái và xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại.
Điều này tương tự với các hệ sinh thái tự nhiên, nơi mà các nguồn lực được tuần hoàn và tái tạo mà không bị lãng phí. Các mô hình nông nghiệp tuần hoàn kết hợp giữa trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và các công nghệ xử lý chất thải để giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Yếu tố tài nguyên và môi trường được kết hợp ngay trong từng đề án, chiến lược, nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực nông nghiệp.
Khi tư duy tuần hoàn trong quản trị ngành Nông nghiệp và Môi trường vận hành thông suốt, việc đề xuất cơ chế chính sách thúc đẩy kinh tế xanh sẽ thuận lợi và thuyết phục hơn. Các nghiên cứu khoa học nông nghiệp gắn với môi trường sẽ tạo ra sản phẩm nghiên cứu đồng bộ, đa mục tiêu. Các mô hình sản xuất nông nghiệp được đa dạng hóa, các yếu tố tác động môi trường được tính toán tổng thể, khuyến khích sự kết hợp giữa trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản. Tích hợp và nối kết dữ liệu viễn thám, khí tượng thủy văn, ứng dụng trí tuệ nhân tạo sẽ giải quyết những vấn đề mùa vụ trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, lâm nghiệp và kiểm soát chất lượng rừng, đa dạng sinh học, tích hợp dữ liệu đa tầng cho lĩnh vực thủy lợi, phòng chống thiên tai, hạn hán và kiểm soát hạn mặn.


Trong ngành Nông nghiệp và Môi trường, tài nguyên đất đai, nước và năng lượng luôn có giới hạn, khó tái tạo. Tư duy “ít hơn để được nhiều hơn” – đầu vào tối thiểu, kết quả tối đa, hướng đến việc sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả nhất, giảm thiểu lãng phí và khuyến khích tái sử dụng tài nguyên: tái sử dụng nước, phân bón từ chất thải nông nghiệp, hoặc năng lượng tái tạo từ sinh khối. Tư duy “ít hơn để được nhiều hơn” mở rộng không gian quản lý chuỗi cung ứng hiệu quả, không chỉ quan tâm đến sản xuất, mà còn đảm bảo các nguồn lực và sản phẩm được sử dụng và tái sử dụng hiệu quả.
Quản trị ngành Nông nghiệp và Môi trường càng được cải tiến theo hướng toàn diện, mang tính hệ thống và gắn kết chặt chẽ. Bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên và đảm bảo an ninh lương thực cho thế hệ tương lai, trở thành mục tiêu nhất quán và xuyên suốt.

Đề án 1 triệu hec-ta chuyên canh lúa chất lượng cao, giảm phát thải, gắn với tăng trưởng xanh, nông nghiệp tuần hoàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long là minh chứng sinh động cho sự gắn kết giữa Nông nghiệp và Môi trường. Ngành hàng lúa gạo dù tăng trưởng và phát triển thần kỳ, nhưng đã phát sinh nhiều hệ lụy: suy thoái môi trường đất, nước, không khí. Khi kết hợp mục tiêu sản xuất lúa với mục tiêu gìn giữ môi trường, ngành hàng lúa gạo, từ thâm dụng tài nguyên, đã chuyển sang cải thiện và tái tạo tài nguyên, bảo đảm chất lượng môi trường.
Kinh tế tuần hoàn trong ngành hàng lúa gạo sẽ tạo ra những giá trị mới từ rơm rạ, tạo ra ngành trồng nấm trên rơm rạ, vật liệu xây dựng, năng lượng từ rơm rạ… Một phần rơm rạ được băm và vùi trở lại ruộng đồng, tạo thành nguồn phân hữu cơ cho vụ mùa sau. Tất cả phụ phẩm của ngành hàng lúa gạo đều được sử dụng hiệu quả, sẽ không còn tình trạng đốt đồng gây phát thải, làm ô nhiễm môi trường.

Đơn ngành hẹp, tuần hoàn hẹp, giá trị thấp. Đa ngành rộng, tuần hoàn rộng, giá trị cao. Đa ngành, đa lĩnh vực, tuần hoàn, bền vững, giá trị vượt trội đến từ sự gắn kết chặt chẽ, cộng sinh giữa Nông nghiệp và Môi trường. Cuộc cách mạng về sắp xếp bộ máy sẽ dẫn đến cuộc cách mạng về tư duy quản trị hệ thống và hành động hệ thống trong ngành Nông nghiệp và Môi trường.
Cảm hứng phát triển nhờ hợp lực ngành Nông nghiệp và Môi trường cần được lan tỏa sâu rộng đến cộng đồng doanh nghiệp lĩnh vực nông nghiệp – môi trường, đến hợp tác xã, đến bà con nông dân, đến cộng đồng dân cư nông thôn. Xã hội cần đến những hợp tác xã đa dịch vụ nông nghiệp – môi trường lớn mạnh hơn, có chất lượng hoạt động tốt hơn. Xã hội cần đến những “cánh đồng lớn” – lớn về tư duy, lớn về tinh thần liên kết – hợp tác, không còn phân mảnh ruộng anh ruộng tôi, mà đồng đều về chất lượng, đồng lòng về cách nghĩ, cách làm, đồng thuận về yêu cầu, tiêu chuẩn, quy trình canh tác, không gây tác động xấu cho môi trường. Xã hội cần đến những sản phẩm nông nghiệp đại diện cho những người nông dân năng động, trách nhiệm, mạnh dạn thay đổi, biết làm giàu cho chính mình, biết nghĩ đến người xung quanh và con cháu mai sau.
Trước hết và trên hết, hợp lực Nông nghiệp và Môi trường xoay quanh mục tiêu cốt lõi: khơi thông cảm hứng phát triển liên ngành, liên lĩnh vực, cân bằng giữa bảo tồn và tăng trưởng, hài hòa tam giác bền vững kinh tế – xã hội – môi trường, cải thiện chất lượng sống từ nông thôn đến thành thị, giúp người nông dân ngày càng thịnh vượng hơn.
Tôm sú, cua ghẹ Việt Nam tăng trưởng mạnh
Tôm sú, cua ghẹ Việt Nam tăng trưởng mạnh
Thông tin trên được bà Kim Thu – Chuyên gia thị trường tôm (thuộc Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam) cung cấp.
Tôm sú đứng vững trên thị trường châu Âu nhờ Hiệp định EVFTA
Tôm sú được coi là sản phẩm cao cấp nhờ màu sắc, hương vị đặc biệt, kích cỡ lớn và thường được yêu thích ở các thị trường ngách tại EU như Hà Lan, Bỉ, Đức, Pháp.
Trong quý I/2022, XK tôm sú của Việt Nam sang thị trường EU ghi nhận tăng trưởng đột phá 107% với giá trị XK đạt 24 triệu USD
Bà Kim Thu chia sẻ: Tôm sú được tiêu thụ tại các thị trường bán lẻ và dịch vụ thực phẩm tại châu Âu. Năm 2020 và đầu năm 2021, tiêu thụ tôm sú tại EU chững lại do ảnh hưởng của dịch Covid-19, các nhà hàng quán ăn đóng cửa để phòng dịch.
Thế nhưng, từ giữa năm 2021, thị trường dần dần mở cửa trở lại nên nhu cầu tiêu thụ tôm sú tại thị trường EU phục hồi và dự kiến vẫn duy trì ở mức cao trong năm 2022.
“Lĩnh vực bán buôn và bán lẻ tại thị trường EU ưa chuộng các sản phẩm như tôm sú HLSO và tôm sú bóc vỏ cỡ 16/20 – 51/60, tôm sú HOSO cỡ 21/26. Lĩnh vực tái chế biến có nhu cầu cao với các sản phẩm tôm sú HOSO, HLSO, lột vỏ đóng block cỡ 16/20 – 51/60.
Trong phân khúc bán lẻ, các sản phẩm tôm sú lột vỏ đông lạnh chủ yếu được bán dưới dạng túi 250g – 1kg. Tôm sú HOSO semi IQF hoặc IQF được bán dưới dạng túi 250g – 1kg hoặc hộp carton từ 500g – 1kg. Phần lớn các tổ chức bán lẻ bán tôm đông lạnh dưới nhãn của riêng họ”, bà Thu tâm sự.
Hiện nay, các nhà cung cấp tôm sú cho thị trường EU gồm Bangladesh, Việt Nam, Madagascar, Indonesia, Ấn Độ và Myanmar. Các sản phẩm cạnh tranh với tôm sú trên thị trường EU như tôm chân trắng, tôm đỏ Argentina và tôm sú khai thác tự nhiên.
Theo bà Thu, trong quý đầu năm nay, xuất khẩu (XK) tôm sú của Việt Nam sang thị trường EU ghi nhận tăng trưởng đột phá 107% với giá trị XK đạt 24 triệu USD. XK tôm sú Việt Nam sang EU bắt đầu tăng trong năm 2021, các năm trước đó, XK vẫn ghi nhận giảm. Năm 2021, XK tôm sú Việt Nam sang EU đạt 98,5 triệu USD, tăng 36% so với năm 2020.
Các sản phẩm tôm sú Việt Nam chủ yếu XK sang EU trong quý đầu năm nay gồm tôm sú nguyên con tươi đông lạnh, tôm sú PD tươi đông lạnh, tôm sú bỏ đầu EZP tươi đông lạnh, tôm sú bỏ đầu HLSO EZP tươi đông lạnh, tôm sú IQF tươi đông lạnh, tôm sú PDTO hấp chín IQF, tôm sú HOSO tươi đông lạnh, tôm sú CPTO hấp đông lạnh…
Bà Thu nhấn mạnh: “Tôm sú Việt Nam trên thị trường EU có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn các nhà cung cấp đối thủ. Cùng với lợi thế từ Hiệp định EVFTA, tôm sú Việt Nam còn nhiều cơ hội tăng trưởng tại thị trường này. Với sản phẩm tôm sú đi châu Âu, doanh nghiệp cần phải đảm bảo được nhiều yêu cầu về chất lượng, truy xuất nguồn gốc, chuỗi hành trình sản phẩm và chứng nhận của bên thứ ba”.
Xuất khẩu cua ghẹ quý I/2022 đạt 52 triệu USD
Trong khi đó, tiếp nối sự tăng trưởng trong quý 4/2021, XK cua ghẹ của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng tốt trong quý I/2022. Giá trị XK cua ghẹ trong quý này đạt gần 52 triệu USD, tăng 62% so với cùng kỳ năm 2021. Đây là mức cao nhất trong 5 qua, tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm 2019, thời điểm trước khi xảy ra đại dịch Covid-19.
Số liệu thống kê xuất khẩu cua ghẹ Việt Nam
Cụ thể, Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản và Pháp là top 4 thị trường đơn lẻ nhập khẩu (NK) nhiều nhất cua ghẹ của Việt Nam. Trong đó, Pháp chiếm hơn 91% tổng giá trị XK.
Theo bà Thu, sau khi sụt giảm trong năm 2021, XK cua ghẹ của Việt Nam sang Trung Quốc và Hồng Kông tăng cao liên tục trong 3 tháng đầu năm 2022. Giá trị XK cua ghẹ sang thị trường này trong quý I/2022 đạt hơn 20 triệu USD, tăng 104% so với cùng kỳ.
Nguyên nhân chính là do các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã thích nghi tốt với chính sách “zero Covid” của nước này. Sự tăng trưởng cao này đã đưa Trung Quốc trở thành thị trường NK cua ghẹ lớn nhất của Việt Nam
Với thị trường Nhật Bản, XK cua ghẹ của Việt Nam đang tiếp tục tăng trưởng trong quý này. Giá trị xuất khẩu cua ghẹ sang thị trường Nhật Bản đạt gần 19 triệu USD, tăng 18% so với cùng kỳ.
Nhật Bản hiện đang là nước NK nhiều nhất cua ghẹ của Việt Nam trong khối thị trường tham gia Hiệp định CPTPP. Và cũng là nước duy trì được sự tăng trưởng NK cua ghẹ liên tục trong 3 tháng đầu năm 2022. Trong khi đó, XK cua ghẹ sang Australia và Singapore lại có sự sụt giảm liên tục trong quý này.
Bà Thu cho biết thêm, tại khối thị trường EU, XK cua ghẹ của Việt Nam cũng phục hồi sau khi sụt giảm vào năm ngoái. Tuy nhiên, XK sang các thị trường trong khối không ổn định. Pháp hiện đang là thị trường NK cua ghẹ lớn nhất của Việt Nam trong khối thị trường này, đạt gần 1,7 triệu USD, tăng 38%.
Trên thị trường cua EU, các doanh nghiệp XK cua của Việt Nam phải cạnh tranh với các sản phẩm cua đến từ Anh, Na Uy, Madagascar, Trung Quốc, Indonesia. Các sản phẩm cạnh tranh với cua trên thị trường này gồm tôm hùm và surimi.
Đáng chú ý, XK cua ghẹ của Việt Nam sang Mỹ tăng trưởng liên tục trong quý I/2022. Giá trị XK cua ghẹ của Việt Nam sang thị trường này trong 3 tháng đầu năm 2022 đạt gần 19 triệu USD, tăng 78% so với cùng kỳ.
Mỹ đã mở cửa hoàn toàn trở lại điều này đã giúp nhu cầu tiêu thụ cua ghẹ tăng. Bên cạnh đó, chi phí sản xuất và chi phí vận chuyển đường biển tăng đã đẩy giá XK tăng lên.
Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/tom-su-cua-ghe-viet-nam-tang-truong-manh
Trái cây được mùa nhưng còn đó nỗi lo tiêu thụ, giá cả
Trái cây được mùa nhưng còn đó nỗi lo tiêu thụ, giá cả
Quý II/2022 là thời điểm nhiều loại cây trái khắp cả nước, đặc biệt là các tỉnh Nam Bộ bước vào vụ thu hoạch, nhưng việc tiêu thụ cùng với giá cả đang là vấn đề lớn.
Trái cây Nam Bộ sắp vào vụ thu hoạch nhưng khâu tiêu thụ và giá cả là vấn đề không dễ giải quyết
Đây cũng chính là lý do để Bộ NN-PTNT tổ chức Hội nghị trực tuyến “Thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ nông sản tại các tỉnh, thành Nam Bộ” vào ngày 8/5.
Trên cơ sở dự báo tiêu thụ sẽ gặp khó khăn do Trung Quốc tiếp tục duy trì chính sách “zero Covid”, các biện pháp phòng dịch của nước này làm chậm tiến độ xuất khẩu, gây ùn ứ tại cửa khẩu, ảnh hưởng đến tiêu thụ trong nước. Ngoài ra, năng lực chế biến trái cây trong nước còn hạn chế, chủ yếu xuất khẩu trái tươi, nếu gặp điều kiện khó khăn khi xuất khẩu, lúc đó việc tiêu thụ sẽ vô cùng khó khăn, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, ông Lê Thanh Tùng đưa ra những trở ngại trong việc tiêu thụ trái cây quý II/2022.
Cùng quan điểm với ông Lê Thanh Tùng, ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN-PTNT), cho biết trong 2 tháng qua, các cửa khẩu chính tại Quảng Ninh, Lào Cai đóng cửa do Trung Quốc phát hiện Covid-19 đã gây áp lực lớn đến xuất khẩu nông sản Việt Nam.
Chưa kể, những đợt phía Trung Quốc kiểm tra trực tuyến về công tác kiểm soát Covid-19 cho thấy nhiều doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam còn chủ quan, chưa tuân thủ quy định về phòng dịch khi đưa hàng sang nước bạn. Việc ách tắc trong xuất khẩu rau quả cũng nằm ở khâu kiểm tra Covid-19, không phải do kiểm dịch thực vật nên doanh nghiệp cần phải kiểm soát chặt quy trình sản xuất, tránh lây nhiễm chéo Covid-19 trên bao bì, sản phẩm, thành container…
Còn đối với thị trường EU, dù rau quả Việt Nam đang được hưởng lợi do ưu đãi thuế quan nên tăng trưởng tốt trong năm qua. Tuy nhiên trong thời gian gần đây phát sinh vấn đề EU tăng tần suất kiểm tra đối với thanh long và rau gia vị từ 10% lên 20% khiến lượng xuất khẩu sụt giảm.
Trước những khó khăn kể trên, ông Lê Thanh Tùng kiến nghị đẩy mạnh đánh giá cấp mã số vùng trồng cây ăn quả để tăng cường quản lý vùng trồng, nắm sát sản lượng, chất lượng từng loại quả; chỉ đạo rải vụ trái cây (thanh long, xoài, nhãn, chôm chôm, sầu riêng) linh hoạt phù hợp với tình hình tiêu thụ. Đồng thời, tiếp tục kết nối doanh nghiệp thu mua trái cây; phát triển mảng bảo quản và chế biến.
Về việc ách tắc ở cửa khẩu, ông Lê Thanh Hòa khuyến nghị các địa phương, doanh nghiệp theo dõi, cập nhật thông tin ở cửa khẩu để điều phối trái cây lên biên cho hợp lý.
Trước những ý kiến, giải pháp của các đại biểu đưa ra, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan đã đưa ra ý kiến chỉ đạo. Theo Tư lệnh ngành Nông nghiệp, các địa phương không nên “than vãn” mà cần tìm giải pháp để hướng đến sản xuất nông nghiệp bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông dân.
“Cần tổ chức lại sản xuất để thích ứng với những thay đổi của thị trường, đừng để khi cửa khẩu với Trung Quốc thông thì mọi việc lại quay về như cũ. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp vẫn còn tư duy nước đến chân mới nhảy, vẫn suy nghĩ Trung Quốc là thị trường dễ tính nên không chịu thay đổi để thích ứng. Cần nhìn vào cách ngành rau quả Thái Lan thích ứng với chính sách “zero Covid” của Trung Quốc nên xuất khẩu của họ ít bị ảnh hưởng. Họ tìm cách đáp ứng được quy định để kiểm soát Covid-19 trong chuỗi sản xuất trái cây trong khi Việt Nam chỉ có thể hy vọng đàm phán để Trung Quốc nới lỏng quy định”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan thẳng thẳn góp ý.
Cuối cùng Bộ trưởng Lê Minh Hoan chia sẻ quy luật thị trường không phải lúc nào cũng như ý muốn, vì thế các mô hình sản xuất nông nghiệp cần tiết kiệm chi phí, giúp tăng hiệu quả kinh doanh cần được lan tỏa, nhân rộng.
Được biết, theo ước tính của Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), tổng sản lượng cây ăn quả chính tại Nam Bộ trong quý II/2022 sẽ đạt khoảng 1,5 triệu tấn, cao hơn quý I khoảng 137.000 tấn do một số loại quả vào mùa như: thanh long, chuối, nhãn, chôm chôm, sầu riêng… Vì thế đây sẽ là một áp lực trong khâu tiêu thụ cũng như giá cả.
Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/trai-cay-duoc-mua-nhung-con-do-noi-lo-tieu-thu-gia-ca
Khoảng 70 thương nhân Trung Quốc đăng ký mua vải thiều
Khoảng 70 thương nhân Trung Quốc đăng ký mua vải thiều
BẮC GIANG – Sắp đến vụ thu hoạch vải thiều, nên thời điểm này nhiều thương nhân Trung Quốc đã chủ động đăng ký đến Bắc Giang để thu mua quả vải.
Năm 2021, người dân Bắc Giang thắng lợi vụ vải thiều
Theo Sở Công Thương, đến thời điểm này có gần 70 thương nhân Trung Quốc đăng ký đến Bắc Giang để thu mua vải thiều năm 2022. Hiện cơ quan chức năng của tỉnh đang tham mưu, hướng dẫn những thương nhân này thực hiện thủ tục nhập cảnh theo trình tự quy định của pháp luật.
Vải thiều Bắc Giang có chất lượng cao, mã đẹp được người tiêu dùng Trung Quốc ưa chuộng. Nhiều năm qua, thương nhân Trung Quốc đã phối hợp chặt chẽ với chủ các điểm cân, thương nhân của Việt Nam thu mua, đưa vải thiều tiêu thụ vào thị trường tỷ dân này.
Việc thương nhân Trung Quốc sang thu mua vải thiều của Bắc Giang sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho tiêu thụ sản phẩm.
Ngành nông nghiệp Bắc Giang cho biết, năm nay, tình hình thời tiết thuận lợi, dự báo vải thiều Bắc Giang chất lượng tốt hơn năm trước, sản lượng toàn tỉnh ước đạt hơn 160.000 tấn.
Đến nay, Bắc Giang đã xây dựng hai phương án tiêu thụ vải thiều. Nếu tình hình dịch như hiện nay sẽ thực hiện kịch bản 50/50 (tiêu thụ 50% thị trường nội địa, còn lại xuất khẩu), trong đó sẽ tăng sản lượng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, Trung Đông và Liên minh châu Âu (EU).
Còn nếu Trung Quốc tiếp tục thực hiện chính sách “Zero Covid” sẽ xuất khẩu 30%, còn lại tiêu thị nội địa, trong đó đẩy mạnh tiêu thụ tại các trung tâm thương mại và sấy khô.
Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/khoang-70-thuong-nhan-trung-quoc-dang-ky-mua-vai-thieu
Việt Nam tập trung xuất khẩu gạo ngon tới thị trường ASEAN
Việt Nam tập trung xuất khẩu gạo ngon tới thị trường ASEAN
Với dân số gần 700 triệu người, ASEAN là thị trường cực kì quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam.
ASEAN là thị trường lớn nhập khẩu gạo của Việt Nam
Dân số đông, có vị trí địa lý trong khu vực, cùng với những nét tương đồng về văn hóa, ASEAN là một thị trường cực kì quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam.
Trong số các nước nhập khẩu gạo của Việt Nam, Philippines là thị trường lớn nhất. Năm 2021, Philippines là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam với lượng nhập khẩu đạt 2,45 triệu tấn, đạt kim ngạch trên 1,25 tỷ USD, giá trung bình 509,7 USD/tấn, tăng 10,7% về lượng, tăng 18,5% về kim ngạch và tăng 7,1% về giá so với năm 2020. Philippines cũng chiếm 39,4% trong tổng lượng và chiếm 38% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Quý I/2022 tiếp tục ghi nhận kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam sang Philippines với 672.136 tấn, tương đương 311,08 triệu USD, giá trung bình 462,8 USD/tấn, tăng mạnh 63,3% về lượng, tăng 41,4% về kim ngạch, chiếm 44,7% trong tổng lượng và chiếm 42,6% trong tổng kim ngạch gạo xuất khẩu.
Ngoài Philippines, gạo Việt Nam còn được xuất khẩu sang các thị trường quan trọng khác trong ASEAN như: Malaysia, Singapore, Indonesia, Brunei. Trong đó, thị trường Malaysia tăng trưởng mạnh với số liệu tháng 1/2022 là 34.925 tấn, tương đương 16,07 triệu USD, tăng 163,4% về lượng và 156% về kim ngạch so với tháng 12/2021.
Hiện gạo xuất khẩu sang Philippines và các nước ASEAN khác chủ yếu là gạo trắng phẩm cấp thường, độ tấm từ 20-25%, chủ yếu cạnh tranh bằng giá. Về mặt chiến lược, ngành gạo của Việt Nam đang giảm dần sản xuất và xuất khẩu các loại gạo trắng thường, tăng tỉ trọng sản xuất lúa gạo chất lượng cao từ 35-40% lên 75-80% vào năm 2020.
Việc này giúp tăng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam lên rất nhanh trong những năm gần đây, đặc biệt từ sau năm 2020. Tuy nhiên, với sự chuyển dịch này, gạo Việt Nam lại gặp khó khăn do không thể cạnh tranh về giá với các nước chuyên sản xuất gạo giá rẻ như Myanmar, Pakistan và Ấn Độ.
Vì vậy, hiện cơ cấu gạo xuất khẩu của Việt Nam đang tiếp tục chuyển dịch theo hướng gia tăng các loại gạo thơm, gạo đặc sản, gạo japonica, gạo trắng phẩm cấp cao với giá bán và giá trị gia tăng cao hơn. Mục tiêu xuất khẩu gạo cũng được điều chỉnh, dự kiến chỉ còn khoảng 4 triệu tấn vào năm 2030.
Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo sang các nước ASEAN, ngành gạo còn phải rà soát lại nhu cầu nhập khẩu của từng thị trường trong ASEAN, xác định những thị trường tiêu thụ gạo phẩm cấp thường với giá rẻ, thị trường tiêu thụ gạo cao cấp, gạo thơm…
Cuối cùng, Việt Nam cần tận dụng các hiệp định thương mại với các nước trong khu vực, cải thiện trình độ công nghệ để tăng khả năng cạnh tranh, tăng cường thương mại dịch vụ và đầu tư.
Nhằm tư vấn, giải đáp các vấn đề doanh nghiệp quan tâm liên quan đến việc xuất, nhập khẩu sản phẩm lúa gạo sang thị trường ASEAN nắm bắt được các thông tin như: Nhu cầu thị trường, yêu cầu đối với chất lượng và phẩm cấp hàng hóa, phương thức thanh toán, cách thức vận chuyển, bảo hiểm hàng xuất nhập khẩu, giải quyết các vấn đề bất cập có thể phát sinh trong quá trình xuất nhập khẩu, ngày 5/5/2022, Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công thương) phối hợp với các Thương vụ Việt Nam tại ASEAN tổ chức phiên tư vấn xuất khẩu sản phẩm lúa gạo sang thị trường ASEAN diễn ra tại TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Trong phiên tư vấn, ông Phạm Thế Cường, Tham tán thương mại Việt Nam tại Indonesia sẽ thông tin về tình hình thị trường gạo Indonesia và các cơ hội cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Bà Lê Thị Phương Hoa, Tham tán thương mại Việt Nam tại Lào sẽ chia sẻ về mặt hàng gạo tại thị trường Lào; Bà Trần Lê Dung, Bí thứ thứ nhất phụ trách Thương vụ Việt Nam tại Malaysia sẽ nêu một số vấn đề cần lưu ý khi xuất khẩu gạo sang Malaysia; Ông Cao Xuân Thắng, đại diện Thương vụ Việt Nam tại Singapore sẽ giới thiệu tình hình thị trường gạo Singapore niên vụ 2021 – 2022; Ông Nguyễn Thành Huy, Phụ trách Thương vụ Việt Nam tại Thái Lan sẽ chia sẻ một số kinh nghiệm gieo trồng, thu hoạch gạo của Thái Lan với doanh nghiệp Việt Nam.
Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/viet-nam-tap-trung-xuat-khau-gao-ngon-toi-thi-truong-asean
Thị trường tiêu thụ nông lâm và thủy sản được khơi thông, mở rộng
Thị trường tiêu thụ nông lâm và thủy sản được khơi thông, mở rộng
Theo Tổng cục Thống kê, sản xuất nông nghiệp trong tháng 4/2022 tập trung chăm sóc cây trồng vụ đông xuân tại các địa phương phía Bắc; thu hoạch lúa, hoa màu vụ đông xuân và gieo trồng lúa hè thu tại các địa phương phía Nam.
Chăn nuôi trong tháng 4 đang khởi sắc dần sau khi dịch Covid-19 được phục hồi
Chăn nuôi đang trong đà hồi phục, nhưng gặp khó khăn do giá thức ăn chăn nuôi tăng cao. Thời tiết trong tháng thuận lợi cho việc trồng rừng, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác đạt 1,6 triệu m3, tăng 5,9%.
Bên cạnh đó, nuôi trồng thủy sản phát triển khá cả ở thả nuôi mới và thu hoạch sản phẩm. Dịch Covid-19 đã được kiểm soát nên thị trường tiêu thụ sản phẩm nông sản, lâm sản, thủy sản được khơi thông, mở rộng.
Cụ thể, về nông nghiệp: Tính đến ngày 15/4, cả nước gieo cấy được 2.990,5 nghìn ha lúa đông xuân; gieo trồng được 375,5 nghìn ha ngô; 52,8 nghìn ha khoai lang; 12,6 nghìn ha đậu tương; 110 nghìn ha lạc; 584,4 nghìn ha rau đậu.
Chăn nuôi trâu, bò trong tháng 4 phát triển ổn định. Ước tính đến cuối tháng 4, tổng số lợn tăng 5,5% so với cùng thời điểm năm 2021; tổng số bò tăng 1,3%; tổng số trâu giảm 1,9%; tổng số gia cầm tăng 2,2%.
Tính đến ngày 24/4, cả nước không còn dịch tai xanh và dịch lở mồm long móng; dịch cúm gia cầm còn ở 5 địa phương; dịch tả lợn châu Phi còn ở 27 địa phương và dịch viêm da nổi cục còn ở 4 địa phương chưa qua 21 ngày.
Bảng thống kê về sản xuất nông lâm, thủy sản tháng 4/2022
Về lâm nghiệp: Trong tháng 4, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước ước đạt 30,3 nghìn ha, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước ước đạt 67,2 nghìn ha, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 34,8 triệu cây, tăng 6,8%; sản lượng gỗ khai thác đạt 4,7 triệu m3, tăng 4,4%; sản lượng củi khai thác đạt 6,2 triệu ste, tăng 0,7%.
Tình hình thiệt hại rừng 4 tháng đầu giảm so cùng kỳ năm trước. Diện tích rừng bị thiệt hại trong tháng 4 ước tính 118,6 ha, giảm 0,1% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Diện tích rừng bị cháy là 4,3 ha, giảm 77,5%; diện tích rừng bị chặt phá là 114,3 ha, tăng 14,6%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, diện tích rừng bị thiệt hại là 361,8 ha, giảm 25,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Diện tích rừng bị cháy là 13,7 ha, giảm 89,8% (diện tích rừng bị cháy cùng kỳ năm trước là 134 ha); diện tích rừng bị chặt phá là 348,1 ha, giảm 0,4%.
Về thủy sản: Sản lượng thủy sản tháng 4 ước đạt 736,4 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 380,4 nghìn tấn, tăng 5,8%; sản lượng thủy sản khác ước đạt 356 nghìn tấn, giảm 0,6%
Tính chung 4 tháng đầu năm, sản lượng thủy sản ước tính đạt 2.600 nghìn tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Sản lượng nuôi trồng đạt 1.368,4 nghìn tấn, tăng 5,3%; sản lượng khai thác đạt 1.231,6 nghìn tấn, giảm 1% (sản lượng khai thác biển đạt 1.177,3 nghìn tấn, giảm 1,1%).
Nguồn: https://nongnghiephuucovn.vn/thi-truong-tieu-thu-nong-lam-va-thuy-san-duoc-khoi-thong-mo-rong
Nông nghiệp hữu cơ: Xu hướng mới gia tăng giá trị nông sản
Việc nhân rộng các mô hình sử dụng phân bón hữu cơ không những nâng cao sản lượng, giúp nông dân tiết kiệm chi phí mà còn giúp cải tạo đất, bảo vệ môi trường.
Nâng cao năng suất và thu nhập, tiết kiệm chi phí đồng thời giúp cải tạo đất, bảo vệ môi trường là hiệu quả mang lại từ những mô hình sản xuất theo hướng hữu cơ và hữu cơ đã và đang được tỉnh Vĩnh Phúc quan tâm đầu tư trong giai đoạn 2021-2025.
Những ngày này, cánh đồng su su ngay dưới chân núi Tam Đảo ở xã Hồ Sơn, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc luôn tấp nập người dân thu hái, vận chuyển su su. Từ sau Tết Nguyên đán đến nay, giá su su luôn ở mức cao nên bà con nông dân nơi đây rất phấn khởi.
Bà Lê Thị Chín, thôn Làng Hạ, xã Hồ Sơn chia sẻ, với 2 sào su su sau hơn 1 năm tham gia mô hình theo hướng hữu cơ của Tập đoàn Quế Lâm với tiêu chuẩn “5 không”: Không thuốc diệt cỏ, không thuốc trừ sâu, không chất bảo quản, không chất kích thích sinh trưởng, không dư lượng hóa chất độc hại. Khi vào vụ, bình quân 2 ngày/lần gia đình sẽ thu hoạch ngọn su su.
Mô hình trồng su su hữu cơ ở Vĩnh Phúc.
Nếu những ruộng su su canh tác theo phương pháp thông thường chỉ thu được 35 – 40kg/sào/lần hái thì ruộng nhà bà Chín cho sản lượng từ 45 – 50kg. Với giá bán bình quân 14.000 đồng/kg, mỗi tháng bà Chín có thể thu cả chục triệu đồng, trong khi mỗi vụ su su có thể thu hoạch kéo dài từ 7 – 8 tháng.
“Trước đây bón phân vô cơ và những loại phân thông thường chi phí từ 2 – 3 triệu/sào, còn bón phân bón hữu cơ chỉ hơn 1 triệu/sào nhưng giá su su bán ra lúc nào cũng cao hơn. Su su bán chợ có nhiều giá từ 10.000 – 15.000 đồng/kg nhưng su su trồng theo hướng hữu cơ lúc nào giá cũng cao nhất. Về chăm bón, phân hữu cơ không gây hại như bón phân vô cơ mà cây lại sinh trưởng tốt, chất lượng rau ngon”, bà Chín cho biết.
Trước nhu cầu sử dụng sản phẩm hữu cơ của người dân trên địa bàn ngày càng tăng, những năm qua, tỉnh Vĩnh Phúc đã có nhiều chính sách hỗ trợ người dân sản xuất an toàn. Chỉ tính riêng trong năm 2021, Vĩnh Phúc đã cấp kinh phí 45 tỷ đồng hỗ trợ nông dân xây dựng các mô hình trồng trọt an toàn, theo hướng hữu cơ, xử lý rơm rạ, môi trường.
Mặc dù vậy, theo ông Lê Văn Dũng, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Vĩnh Phúc, để sản phẩm nông nghiệp theo hướng hữu cơ ngày càng phát triển, có chỗ đứng trên thị trường, Bộ NN&PTNT cần ủy quyền cho Sở NN&PTNT các địa phương đứng ra cấp mã số vùng trồng cho các vùng sản xuất trên cơ sở thống nhất theo chỉ đạo của Bộ.
“Ngay cả sản phẩm tiêu thụ tại thị trường nội địa cũng cần có mã số vùng trồng, do vậy, nếu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ủy quyền cho các Sở thực hiện thì tiến độ sẽ nhanh hơn rất nhiều lần”, ông Dũng đề xuất.
Từ cách làm của doanh nghiệp trong gần 20 năm qua, ông Khắc Ngọc Bá, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Quế Lâm cho rằng, phát triển canh tác theo hướng hữu cơ là đòi hỏi tất yếu để cung cấp những sản phẩm sạch, an toàn cho người tiêu dùng, vì mục tiêu bảo vệ sức khỏe cộng đồng; định hướng sản xuất hữu cơ tạo ra giá trị nhân văn, là xu thế của tương lai cũng là mục tiêu hướng đến của doanh nghiệp.
“Doanh nghiệp đang phối hợp với nhiều địa phương chuyển giao công nghệ cho bà con nông dân sử dụng chế phẩm sinh học, từ đó có thể sản xuất phân hữu cơ từ chính những phụ phẩm nông nghiệp xung quanh vốn đang bị vứt bỏ một cách lãng phí. Nếu địa phương nào có lãnh đạo và ngành chuyên môn quan tâm, các mô hình sản xuất hữu cơ sẽ phát triển nhanh và có sự lan tỏa mạnh mẽ”, ông Bá cho biết.
Theo các chuyên gia, trong bối cảnh giá phân bón tăng tới 200% thì giá phân bón hữu cơ chỉ tăng 20% – 30%, bởi vậy việc nhân rộng các mô hình sử dụng phân bón hữu cơ không những giúp nông dân tiết kiệm chi phí mà còn giúp cải tạo đất, bảo vệ môi trường.
Giám sát sinh trưởng su su theo hướng hữu cơ ở Tam Đảo.
Bà Phạm Thị Vượng, nguyên Viện trưởng Viện Bảo vệ thực vật cho biết, thực tế sản xuất những mô hình sử dụng phân bón hữu cơ ở nhiều địa phương đã giúp tăng đáng kể hiệu quả sử dụng đất, mật độ số giun trong đất tăng cao, các chủng vi sinh vật có ích cũng tăng, hàm lượng kim loại nặng giảm, sản phẩm không còn dư lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật.
“Từ thực tế hiệu quả mô hình trồng su su theo hướng hữu cơ ở Hồ Sơn, ban đầu chỉ có 1 hộ tham gia nhưng chỉ sau 1 năm diện tích đã tăng lên 20 ha. Canh tác theo hướng hữu cơ bà con nông dân sẽ được 1 chữ “L” là lãi, và 2 chữ “H” đó là hạnh phúc và hồi sinh vì không lạm dụng phân bón vô cơ, thuốc trừ sâu, người tiêu dùng được ăn sản phẩm sạch, an toàn”, bà Vượng chia sẻ.
Trong Chỉ thị về sử dụng phân bón tiết kiệm, cân đối và hiệu quả, Bộ NN&PTNT đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo Sở NN&PTNT tập huấn, truyền thông, hướng dẫn người dân sử dụng phân bón cân đối và hiệu quả, tăng cường sản xuất, sử dụng phân bón hữu cơ, thay thế phân bón vô cơ bằng phân bón hữu cơ theo tỷ lệ phù hợp.
Đối với các doanh nghiệp thực hiện cam kết về sản xuất, sử dụng phân bón cân đối, tiết kiệm, hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp; chủ động tham gia liên kết sản xuất để hỗ trợ, khuyến khích nông dân tăng cường sử dụng phân bón hữu cơ./.