Nông sản xuất khẩu: Nâng cao năng suất, chất lượng nhờ khoa học – công nghệ
Nông sản xuất khẩu: Nâng cao năng suất, chất lượng nhờ khoa học – công nghệ
Nông sản là một trong những ngành xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước. Để nâng cao năng suất, chất lượng các sản phẩm nông sản, thời gian qua các ngành, địa phương đã tích cực đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN).
Là lĩnh vực chiếm tỷ lệ nghiên cứu, ứng dụng lớn nhất của hầu hết địa phương, kết quả của ngành nông nghiệp đều có sự đóng góp của KH&CN thông qua việc khuyến khích phát triển sản xuất quy mô lớn, hợp tác liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị; ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ vào sản xuất; năng lực nghiên cứu, dự báo và thông tin thị trường được nâng cao để kịp thời định hướng tổ chức sản xuất, tiêu thụ nông sản.
Nhờ đó, KH&CN đang cho thấy vai trò ngày càng quan trọng nhằm nâng cao năng suất, chất lượng nông sản Việt Nam và là đòn bẩy để mặt hàng này vươn xa đến nhiều thị trường quốc tế. Đặc biệt, trong năm 2021, mặc dù gặp nhiều khó khăn do đại dịch Covid-19, ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất, kinh doanh nhưng xuất khẩu nông sản của Việt Nam vẫn đạt 48,6 tỷ USD. Điển hình, năm 2021, sản lượng vải thiều Lục Ngạn, Bắc Giang tiêu thụ và xuất khẩu sang thị trường “khó tính” như Nhật Bản, Pháp, CH. Czech, Australia, Mỹ, Đức… với sản lượng cao nhất từ trước đến nay.
Hay tại Sơn La, thị trường xuất khẩu nông sản của tỉnh này cũng ngày càng được mở rộng như Trung Quốc, Campuchia, Anh, Mỹ, Australia, Hàn Quốc, Nhật Bản… Từ chỗ là tỉnh miền núi có diện tích đất nương đồi trồng ngô lớn nhất nước, Sơn La đã nhanh chóng chuyển đổi sang trồng cây ăn quả trên đất dốc, trở thành vựa cây ăn quả lớn thứ hai của cả nước, với tổng diện tích trên 70.000 ha. Thu nhập bình quân trên 1 ha đạt từ 150 – 500 triệu đồng/ha, góp phần nâng cao mức sống của người dân và mở rộng phát triển sản xuất.
Cũng nhờ đẩy mạnh chuyển giao khoa học, kỹ thuật, sản xuất na Chi Lăng, Hữu Lũng tại Lạng Sơn đã đạt diện tích trên 3.500 ha, trong đó hơn 400 ha Na được chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP; tổng giá trị sản xuất ước đạt khoảng 1.200 tỷ đồng, bình quân thu nhập trên 1ha canh tác na đạt 275 triệu đồng/ha.
“Nhờ ứng dụng KH&CN, năng suất một số vật nuôi, cây trồng của Việt Nam đạt cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cụ thể, năng suất lúa cao nhất trong các nước ASEAN (trong đó cao hơn gấp rưỡi Thái Lan), cà phê có năng suất đứng thứ 2 trên thế giới (chỉ sau Brazil), năng suất hồ tiêu đứng đầu thế giới, cao su đứng thứ 2 thế giới (chỉ sau Ấn Độ), cá tra với năng suất 500 tấn/ha cũng cao nhất thế giới” – đại diện Bộ KH&CN cho biết.
Nhiều chuyên gia cho rằng, để tiến vào thị trường các nước, tận dụng cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA), các sản phẩm nông sản của Việt Nam phải đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường quốc tế về chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, mẫu mã đa dạng, giá thành hợp lý, đồng thời cũng phải đảm bảo khâu cung ứng kịp thời cho nhà nhập khẩu…
Ông Nguyễn Đình Phong – Phó giám đốc Sở Công Thương tỉnh Sơn La – cho biết, để các sản phẩm nông sản có thể mở rộng thị trường, tận dụng được các cơ hội từ các Hiệp định FTA, thì trước tiên các yếu tố đầu vào như vật tư, giống cây trồng cho đến quản lý, chăm sóc, bao gói, truy xuất nguồn gốc sản phẩm… đều phải đáp ứng tiêu chuẩn, sau đó mới đưa đi giới thiệu, xúc tiến tiêu thụ sản phẩm, tiếp cận thị trường.
18 nhóm thực phẩm cần phải đăng ký trước khi sang Trung Quốc
18 nhóm thực phẩm cần phải đăng ký trước khi sang Trung Quốc
Theo Lệnh 248, doanh nghiệp sản xuất nước ngoài phải đăng ký khi xuất khẩu 18 nhóm thực phẩm vào thị trường Trung Quốc.
Cụ thể, nhóm thực phẩm là là thịt và các sản phẩm từ thịt, vỏ ruột, sản phẩm thủy sản, sản phẩm từ sữa, yến sào và sản phẩm từ tổ yến, sản phẩm từ ong, trứng và các sản phẩm từ trứng, chất béo và dầu thực phẩm, thực phẩm chế biến hỗn hợp từ bột mỳ, thực phẩm từ ngũ cốc.
Sản phẩm công nghiệp xay xát ngũ cốc và mạch nha, rau củ tươi và khô (rau tách nước, sấy), đậu khô, gia vị, các loại hạt (quả hạch) và hạt giống, trái cây sấy khô, hạt cà phê và hạt ca cao chưa rang, thực phẩm dinh dưỡng đặc biệt, thực phẩm chức năng.
Đối với sản phẩm không thuộc nhóm 18 loại trên, doanh nghiệp phải tự nộp hồ sơ đăng ký hoặc ủy thác đại lý thực hiện đăng ký.
Việc thực hiện đăng ký được thực hiện thông qua “Ứng dụng quản lý đăng ký doanh nghiệp sản xuất thực phẩm nước ngoài” trên cổng thông tin điện tử một cửa thương mại quốc tế của Tổng cục Hải quan Trung Quốc.
Thông tin mới nhất từ Văn phòng SPS Việt Nam cho biết, đến ngày 1/3/2022, Tổng cục Hải quan Trung Quốc đã cấp 1.776 mã sản phẩm nông sản, thực phẩm cho các doanh nghiệp Việt Nam để xuất khẩu sang thị trường này.
Nguồn: Lãng Hồng – Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam
EU tài trợ 1,5 triệu euro cho dự án thúc đẩy nông sản Việt đạt chứng nhận sinh thái, công bằng
EU đã quyết định tài trợ 1,5 triệu euro cho dự án Eco-Fair với mục tiêu thúc đẩy xây dựng ngành nông sản Việt Nam bền vững hơn.
Được biết, dự án Eco-Fair ra đời với sứ mệnh thay đổi hành vi của các tổ chức và cá nhân nhằm đưa ra những biện pháp tích cực về xã hội và cải thiện môi trường.
Theo TS Nguyễn Bảo Thoa, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và phát triển ngành nghề nông thôn (VIRI), Giám đốc dự án Eco-Fair, hiện dự án đã đào tạo hơn 1.000 doanh nghiệp, tiếp cận hơn 1 triệu người tiêu dùng, quảng bá về tiêu dùng bền vững, trong đó đã có 200 doanh nghiệp được đánh giá nhanh về việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên và sản xuất sạch hơn. Khi các doanh nghiệp được chứng nhận bền vững sẽ được kết nối với khách hàng có yêu cầu mua hàng bền vững trên toàn thế giới. Kỳ vọng doanh số cho các mặt hàng như gạo, điều, rau củ quả chế biến… sẽ tăng lên khoảng 30%.
Đặc biệt, dự án Eco-Fair đang mang đến cho Việt Nam một cơ hội rất tốt để hình thành ngành nông sản bền vững hơn, thông qua việc thu hút các bên liên quan trong chuỗi giá trị gồm khu vực tư nhân, các nhóm người tiêu dùng và nhà hoạch định chính sách để đạt được mục tiêu chuyển sang sản xuất và tiêu dùng bền vững hơn.
Chính vì thế, với nguồn tài trợ của EU cho dự án Eco-Fair, các doanh nghiệp của Việt Nam thuộc các tiểu ngành như gạo, điều, rau củ chế biến, hoa quả chế biến, sản phẩm thủy sản chế biến, sản phẩm chế biến từ thịt gia cầm… có thể tham gia khóa học trực tuyến về sản xuất bền vững.
Dự án sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện sản xuất nông sản đạt chuẩn sinh thái, công bằng, qua đó góp phần vào chiến lược phát triển bền vững của doanh nghiệp. Cũng nhờ sự tư vấn của dự án, các doanh nghiệp sẽ nâng cao được hiệu quả của việc sử dụng tài nguyên và sản xuất sạch hơn, đổi mới sản phẩm bền vững, các chứng nhận sinh thái, công bằng, thiết kế bao bì, kết nối thị trường, tiếp cận tài chính xanh.
Hiện Việt Nam đã có một số doanh nghiệp, HTX hướng tới sản xuất sinh thái, thân thiên với môi trường. Có thể kể đến Hợp tác xã Điều hữu cơ True.coop (Ninh Thuận) được thành lập từ năm 2017 bởi ông Trương Thanh Viện. Đến nay, True.coop đã có 5.000ha vùng nguyên liệu điều đạt chuẩn hữu cơ theo tiêu chuẩn đánh giá của Tổ chức Organic USDA, EU va 1 triệu cây điều giống ươm được kiểm duyệt nguồn gốc, xuất xứ.
Hay doanh nghiệp xã hội Minh Phú thực hiện các dự án chứng nhận vùng nuôi tôm sinh thái, hữu cơ trong rừng đước tại huyện Ngọc Hiển (Cà Mau) vừa bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn, phát triển nghề nuôi tôm rừng truyền thống vừa thúc đẩy phát triển các giá trị văn hóa của nghề nuôi tôm; xây dựng hình ảnh thương hiệu và nâng cao giá trị tôm sinh thái, hữu cơ như đặc sản của địa phương. Hiện Minh Phú có 9.722ha nuôi tôm sinh thái hữu cơ với 2.010 hộ tham gia và đã xuất khẩu tôm hữu cơ đến nhiều thị trường khó tính như Mỹ, EU, Canada…
Nguồn: Hà Dũng (t/h)
Ngành nông nghiệp cần thay đổi để thích ứng với biến đổi khí hậu
Ngành nông nghiệp cần thay đổi để thích ứng với biến đổi khí hậu
Trong năm 2021, thiên tai không dồn dập, khốc liệt như năm 2020 nhưng cũng đã xảy ra 18/22 loại hình thiên tai với 9 cơn bão, 3 áp thấp nhiệt đới trên biển Đông; 326 trận dông, lốc, mưa lớn; 139 trận động đất; 170 trận lũ, lũ quét, sạt lở đất.
Đồng thời, dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp và kéo dài từ cuối năm 2019, nhiều địa phương phải thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16. Dịch bệnh đã tác động đến hầu hết các hoạt động kinh tế xã hội, trong đó ảnh hưởng lớn đến công tác phòng, chống thiên tai.
Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp rất dễ bị tổn thương trước thiên tai. Hàng năm thiên tai đều gây ảnh hưởng, thiệt hại lớn trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên thiệt hại đó cũng một phần đến từ việc lập kế hoạch chưa tốt, chưa có phương án phòng chống, thích ứng với thiên tai.

Thiên tai ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp. Ảnh Minh Họa
Cũng theo báo cáo của các địa phương, thiên tai năm 2021 đã làm 108 người chết, mất tích, trên 306 nhà bị sập đổ; gần 9.000 nhà bị hư hỏng, tốc mái. Tổng thiệt hại kinh tế ước tính trên 5.200 tỷ đồng, trong đó lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn bị thiệt hại nặng nề.
Cụ thể, diện tích sản xuất lúa bị ảnh hưởng là trên 94.000 ha, trong đó khoảng 2.648 ha bị thiệt hại trên 70%. Diện tích cây rau màu khác bị ảnh hưởng khoảng là 40.000 ha, trong đó diện tích bị thiệt hại trên 70% khoảng 7.800 ha. Diện tích cây công nghiệp, cây ăn quả bị ảnh hưởng khoảng là 12.500 ha, trong đó có khoảng 200 ha bị thiệt hại trên 70%.
Thiên tai đã làm thiệt hại trên 1.280 ha rừng. Hơn 94.000 tàu thuyền đánh bắt cá trên biển thường xuyên bị ảnh hưởng bởi gió bão, gió mạnh. Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản bị ảnh hưởng và thiệt hại là 3.670ha, trong đó trên 1.300 ha bị thiệt hại hoàn toàn; 130 tàu thuyền bị hư hại.
Cũng do ảnh hưởng của thiên tai làm hơn 6.962 con gia súc và 368.000 con gia cầm bị chết, cuốn trôi. Khoảng 10,4 km đê cấp IV trở xuống bị sự cố; 11,4km kè bị hư hỏng; 67 km bờ sông, bờ biển bị thiệt hại; 271 km kênh mương bị sạt, trôi, bồi lấp; 12 trạm bơm, 101 cống và 75 công trình thủy lợi khác bị hư hỏng; 174 hồ chứa nhỏ bị thiệt hại; 6 công trình cấp nước bị hư hại.
Trước tình hình nền kinh tế nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng bị ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai, trong năm 2021, Tổng cục Phòng, chống thiên tai đã phối hợp cùng các đơn vị và các địa phương rà soát, thống kê đầy đủ thiệt hại, hỗ trợ kịp thời cho người dân theo quy định tại Nghị định số 02 của Chính phủ.
Ngoài ra, các đơn vị cũng đã hỗ trợ 97.000 liều vacxin phòng Covid-19, 87.000 lít và 113 tấn hóa chất phòng, chống dịch với tổng giá trị 23,387 tỷ đồng cho 8 tỉnh (Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình, TT.Huế, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Gia Lai).
Đồng thời hỗ trợ 110 tấn giống lúa cho tỉnh Phú Yên và đang lấy ý kiến Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư về hỗ trợ 100 tấn giống lúa, 30 tấn giống Ngô cho Quảng Trị trước khi trình Thủ tướng Chính phủ.
Cùng với đó, hướng dẫn người dân khôi phục sản xuất, vệ sinh môi trường, chuẩn bị ao đầm, chuồng trại, khôi phục sản xuất. Khắc phục khẩn cấp các công trình đê điều, chống sạt lở bị thiệt hại do bão, mưa lũ. Khôi phục công trình thủy lợi nội đồng bị hư hỏng, bảo đảm việc phân phối, tưới nước mặt ruộng. Tổ chức nạo vét khẩn cấp các cửa lấy nước, hệ thống kênh mương bị bồi lấp.
Về lâu dài, để có thể sản xuất nông nghiệp thích ứng với thiên tai, giảm thiểu thiệt hại hàng năm do thiên tai gây ra, Ban Chỉ đạo quốc gia về Phòng, chống thiên tai cũng như các Bộ ngành, địa phương cần nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu sản xuất, giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao phù hợp với điều kiện tự nhiên và đặc điểm thiên tai từng vùng, miền, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Theo đó, đầu tư củng cố, nâng cấp, hoàn thiện hệ thống đê điều, hồ đập bảo đảm chủ động phòng, chống lũ, bão theo mức thiết kế. Bổ sung, nâng cấp hệ thống trữ nước, tiêu thoát nước, phòng chống ngập úng; công trình kiểm soát nguồn nước phòng chống hạn hán, xâm nhập mặn. Xây dựng, củng cố công trình phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển.
Tiếp tục xây dựng, nâng cấp khu neo đậu tàu, thuyền tránh trú bão theo quy hoạch được phê duyệt, gắn kết với dịch vụ hậu cần, thông tin nghề cá, bao gồm cả các khu vực hải đảo. Xây dựng quy hoạch phòng chống thiên tai và thủy lợi gắn với quy hoạch sử dụng đất và phù hợp với phát triển kinh tế, xã hội, diễn biến thiên tai, sử dụng nước thượng nguồn, biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Nguồn: Xuân Hiền (T/h) – Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ
Phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn năm 2020-2030
Ngày 2/11, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) tổ chức Hội nghị triển khai Đề án Phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn năm 2020-2030
ề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020 – 2030 do Bộ NN&PTNT trình Chính phủ và vừa được phê duyệt bắt nguồn từ chính thực tiễn, phương thức và định hướng chung của Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Đề án nhằm thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia và phát huy tiềm năng thế mạnh về nông nghiệp hữu cơ của các vùng miền và địa phương, góp phần định vị và nâng cao thương hiệu sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trên bản đồ nông nghiệp thế giới; đưa Việt Nam trở thành quốc gia có trình độ sản xuất nông nghiệp hữu cơ ngang bằng các nước tiên tiến trên thế giới.
Đây cũng là chỉ đạo xuyên suốt của Trung ương, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ những năm qua. Và ngành nông nghiệp đang tích cực triển khai chủ trương này. Bên cạnh đó, nông nghiệp hữu cơ đang là xu thế phát triển và sẽ phát triển nhanh trong thời gian tới do đảm bảo cung cấp được các sản phẩm tốt hơn cho sức khỏe con người và cho xã hội.
Theo Bộ NN&PTNT, tính đến nay, diện tích canh tác hữu cơ tại Việt Nam tăng từ 53.350 ha năm 2016 lên khoảng 237.693 ha năm 2019. Cả nước có 46/63 tỉnh thành đang thực hiện và có phong trào sản xuất hữu cơ. Số nông dân tham gia sản xuất hữu cơ là 17.168 người.
Số lượng doanh nghiệp sản xuất hữu cơ là 97 doanh nghiệp; tham gia xuất khẩu là 60 doanh nghiệp với kim ngạch khoảng 335 triệu USD/năm. Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ Việt Nam được tiêu thụ trong nước và hiện đã xuất khẩu đi 180 nước trên thế giới, trong đó có Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật, Đức, Anh, Hàn Quốc, Nga, Singapore, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Italia… là những thị trường tiêu thụ nông sản hữu cơ lớn nhất trên thế giới.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam cho biết, hội nghị nhằm phổ biến, quán triệt các nội dung chính của Đề án Phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020 – 2030 giúp các đơn vị quản lý của Bộ, các địa phương, hiệp hội ngành hàng, người sản xuất và doanh nghiệp nắm được quan điểm phát triển, các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của Nhà nước về phát triển nông nghiệp hữu cơ. Qua đó triển khai xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ của Đề án phù hợp với chức năng của đơn vị và điều kiện thực tế của địa phương.
Theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam, hiện nay rất nhiều hợp tác xã và hộ dân triển khai các mô hình nông nghiệp hữu cơ. Tuy nhiên để họ hiểu nông nghiệp hữu cơ như thế nào, các tiêu chuẩn ra sao thì còn thiếu nhiều kiến thức.

Bộ NN&PTNT đã tham mưu Chính phủ ban hành Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030 nhằm tiến tới từng bước đưa Việt Nam trở thành quốc có trình độ sản xuất nông nghiệp hữu cơ ngang bằng các nước tiên tiến. Để làm được việc này, theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam, bên cạnh diện tích tiếp tục phải thâm canh, tăng năng suất đảm bảo an ninh lương thực thì từng địa phương căn cứ vào diện tích đất, cũng như mặt hàng nông nghiệp chủ lực để chỉ đạo phát triển nông nghiệp hữu cơ. Mặt khác, các tỉnh cũng cần tập trung công tác đào tạo và nâng cao năng lực sản xuất để các hợp tác xã và hộ dân triển khai các mô hình nông nghiệp hữu cơ hiểu rõ nông nghiệp hữu cơ như thế nào, tiêu chuẩn-quy chuẩn ra sao. Do đó, sau đợt này, bộ sẽ tổ chức các đợt tập huấn nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý các cấp từ cấp sở, cấp địa phương và người sản xuất về các tiêu chuẩn hữu cơ, nhất là Tiêu chuẩn TCVN 11041:2017 – Tiêu chuẩn quốc gia về nông nghiệp hữu cơ.
Ngoài ra Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ hướng dẫn các quy trình sản xuất hướng đến nông nghiệp hữu cơ và đạt chuẩn nông nghiệp hữu cơ đến từng địa phương. Bởi lẽ, quy trình đầu tư để chuyển đổi từ sản xuất thông thường sang sản xuất nông nghiệp hữu cơ là rất tốn kém, không phải nơi nào cũng làm được, nên cần phải triển khai từng bước.
Một vấn đề nữa được Thứ trưởng Trần Thanh Nam nhấn mạnh, đó là làm sao để phối hợp với các ngành trong việc quản lý các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ khi đưa ra thị trường về nhãn mác, chất lượng. “Vừa qua, chúng tôi thử đi tìm hiểu một số nơi cho thấy có những mặt hàng được dán nhãn mác nông nghiệp hữu cơ nhưng lại chưa được chứng nhận nông nghiệp hữu cơ. Đây là vấn đề hiện nay cần phải chấn chỉnh. Việc này không chỉ riêng một mình Bộ NN&PTNT làm được mà đòi hỏi các ngành, nhất là các cơ quan quản lý thị trường cùng tham gia phối hợp”.
Vì vậy, trong thời gian tới, Bộ sẽ hỗ trợ về cơ sở pháp lý, tạo điều kiện để giúp đỡ các tổ chức chứng nhận hữu cơ trong nước để họ nâng cao năng lực đồng thời định hướng cho họ liên kết với các tổ chức chứng nhận quốc tế để từng bước nâng cao vị thế, trình độ, năng lực của các tổ chức chứng nhận trong nước ngang bằng các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nguồn: Bộ NN&PTNT
VITAD-AGRI và VCCI đã phối hợp tổ chức buổi tập huấn hội thảo” Doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nông sản- Hành động tiếp cận EVFTA” ngày 30/7/2020
Để giúp các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu nông sản chủ động bắt kịp, tận dụng tốt cơ hội ngay từ khi hiệp định có hiệu lực, VITAD-AGRI và VCCI đã phối hợp tổ chức buổi tập huấn hội thảo” Doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nông sản- Hành động tiếp cận EVFTA”.
Mục đích của buổi Tập huấn- Hội thảo là nhằm trang bị các kiến thức cần thiết của EVFTA liên quan đến xản xuất và xuất khẩu nông sản sang thị trường EU; Tạo lập liên kết chuỗi giữa sản xuất và xuất nhập khẩu nông sản; Đề xuất các chính sách nhằm chủ động, đẩy nhanh quá trình và nâng cao hiệu quả thực thi EVFTA trong sản xuất và xuất khẩu nông sản.
Các mục tiêu cụ thể:
- Xác định rõ các ngành hàng nông sản và các yêu cầu đặt ra với từng mặt hàng nông sản xuất khẩu sang thị trường EU (gồm i) Ngành hàng trồng trọt; ii) Ngành hàng chăn nuôi và iii) Ngành hàng thủy hải sản).
- Xác định và đề xuất những giải pháp, chính sách và lộ trình nhằm đẩy nhanh xuất khẩu nông sản sang thị trường EU (Theo từng ngành hàng)..
- Tạo lập liên kết chuỗi giữa doanh nghiệp sản xuất với doanh nghiệp xuất nhập khẩu nông sản sang thị trường EU (Theo từng ngành hàng).
- Các mục tiêu sẽ được giải đáp, hướng dẫn cụ thể với những nội dung sau:
– Lộ trình thuế về 0% đối với các sản phẩm NN xuất khẩu của VN;
– Những sản phẩm hưởng thuế ưu đãi nhưng áp dụng hạn ngạch XK;
– Trình tự thủ tục thực hiện quy định nguồn gốc xuất xứ hàng hóa XK;
– Yêu cầu, thủ tục về quy định an toàn thực phẩm, kiểm dịch động thức vật đối với nông sản XK;
– Quy định về chỉ dẫn địa lý và bảo hộ sở hữu trí tuệ, xây dựng thương hiệu;
– Yêu cầu về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
– Những ngành hàng nông sản XK có lợi thế canh tranh cao nhờ VEFTA, những khó khăn và giải pháp
Một số hình ảnh tại buổi Hội thảo, Tập huấn “Doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nông sản-Hành động tiếp cận EVFTA” ngày 30/7/2020

Giảm thiểu tác động của COVID-19 đối với thương mại và thị trường thực phẩm
Đây là tuyên bố chung của Tổng giám đốc Tổ chức Lương Nông Liên hiệp quốc (FAO) QU Dongyu, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) Tedros Adhanom Ghebreyesus và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) Roberto Azevedo.
Hàng triệu người trên thế giới phụ thuộc vào thương mại quốc tế để đảm bảo an ninh lương thực và sinh kế. Khi các quốc gia ban hành các biện pháp nhằm ngăn chặn đại dịch COVID-19 đang gia tăng, cần phải thận trọng để giảm thiểu tác động tiềm ẩn đối với nguồn cung thực phẩm hoặc hậu quả không lường trước được đối với thương mại và an ninh lương thực toàn cầu.
Khi hành động để bảo vệ sức khỏe và hạnh phúc của người dân, các quốc gia cần đảm bảo rằng mọi biện pháp liên quan đến thương mại không làm gián đoạn chuỗi cung ứng thực phẩm. Những gián đoạn bao gồm cản trở sự di chuyển của các công nhân nông nghiệp và thực phẩm, kéo dài sự chậm trễ ở biên giới đối với hàng hóa dẫn đến sự hư hỏng của thực phẩm và làm gia tăng lãng phí thực phẩm. Hạn chế thương mại thực phẩm cũng có thể được liên kết với mối quan tâm phi lý về an toàn thực phẩm. Nếu một kịch bản như vậy xảy ra sẽ phá vỡ chuỗi cung ứng thực phẩm, với những hậu quả đặc biệt rõ rệt đối với những người dễ bị tổn thương và những người không đủ ăn.
Bất ổn về nguồn thực phẩm sẵn có có thể châm ngòi cho một làn sóng hạn chế xuất khẩu, tạo ra sự thiếu hụt trên thị trường toàn cầu. Những phản ứng như vậy có thể làm thay đổi cân bằng cung và cầu thực phẩm, dẫn đến tăng giá và biến động giá. Chúng tôi đã học được từ các cuộc khủng hoảng trước đây rằng các biện pháp như vậy đặc biệt gây tổn hại cho các nước thu nhập thấp, thiếu lương thực và các nỗ lực của các tổ chức nhân đạo trong việc mua thực phẩm cho những người có nhu cầu cấp thiết.
Chúng ta phải ngăn chặn sự lặp lại của các biện pháp gây tổn hại như vậy. Chính những lúc như thế này, hợp tác quốc tế trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Giữa các lần giãn cách xã hội vì COVID-19, mọi nỗ lực phải được thực hiện để đảm bảo hoạt động giao dịch diễn ra tự do nhất có thể, đặc biệt tránh thiếu lương thực. Tương tự, điều tối quan trọng là các nhà sản xuất thực phẩm và công nhân ở khâu chế biến và bán lẻ được bảo vệ để giảm thiểu sự lây lan của bệnh và duy trì chuỗi cung ứng thực phẩm. Người tiêu dùng, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương nhất, phải được duy trì khả năng tiếp cận thực phẩm trong cộng đồng theo các yêu cầu an toàn nghiêm ngặt.
Chúng tôi cũng phải đảm bảo rằng thông tin về các biện pháp thương mại liên quan đến thực phẩm, mức độ sản xuất, tiêu thụ và nguồn cung dự trữ, cũng như về giá cả lương thực luôn có sẵn cho tất cả mọi người trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội. Điều này làm giảm lo ngại và cho phép các nhà sản xuất, người tiêu dùng và thương nhân đưa ra quyết định sáng suốt. Trên hết, điều này giúp hạn chế ‘mua hoảng loạn ‘và tích trữ thực phẩm và các mặt hàng thiết yếu khác.
Bây giờ là lúc để thể hiện sự đoàn kết, hành động có trách nhiệm và tuân thủ mục tiêu chung của chúng tôi là tăng cường an ninh lương thực, an toàn thực phẩm và dinh dưỡng, cải thiện phúc lợi chung của tất cả người dân trên toàn thế giới. Chúng tôi phải đảm bảo rằng phản ứng của chúng tôi với COVID-19 không vô tình tạo ra sự thiếu hụt không đáng có các mặt hàng thiết yếu và làm trầm trọng thêm tình trạng đói và suy dinh dưỡng.
(Nguồn: Bộ NN&PTNT)



