Author Archives: Vitad Agri

Nông nghiệp Thủ đô tạo bước chuyển mới

(HNM) – 6 tháng đầu năm 2020, ngành Nông nghiệp Thủ đô tăng trưởng 1,61% so với cùng kỳ năm trước. Trong bối cảnh quý I-2020 tăng trưởng âm và dịch Covid-19 tác động không nhỏ đến sản xuất, tiêu thụ nông sản, có thể xem đây là một nỗ lực đáng ghi nhận.

Tuy nhiên, để đạt mục tiêu tăng trưởng 4,12% trong năm 2020, ngành Nông nghiệp Thủ đô cần quyết liệt tạo bước chuyển mới trên cơ sở bám sát diễn biến thời tiết, kiểm soát tốt dịch bệnh, đẩy mạnh thu hút đầu tư…

Hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2020

Sáng ngày 29/6, tại trụ sở Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) diễn ra Hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm và triển khai kế hoạch 6 tháng cuối năm 2020. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường đã chủ trì Hội nghị cùng với sự tham gia của các Thứ trưởng và các đơn vị thuộc Bộ NN và PTNT.

 
Toàn cảnh hội nghị

 

Theo báo cáo, từ đầu năm đến nay, ngành nông nghiệp phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ đại dịch Covid-19, dịch bệnh lan tỏa cả thế giới làm “đứt, gãy” các chuỗi cung ứng trong và ngoài nước.  Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp còn phải đương đầu với tình hình xâm nhập mặn ở ĐBSCL, hạn hán một số nơi ở Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và ĐBSCL… 

Tuy nhiên nhìn lại 6 tháng đầu năm, với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Chính Phủ, sợ hỗ trợ của các cấp, các ngành và sự cố gắng, nỗ lực của toàn ngành, mức tăng trưởng 6 tháng vẫn duy trì ở mức khá: tốc độ tăng giá trị sản xuất toàn ngành ước đạt 1,18% so với cùng kỳ năm 2019; tốc độ tăng GDP ước đạt trên 1%;  tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 18,8 tỷ USD, giảm 2,6% so với cùng kỳ. 

Đặc biệt quý II, ngành nông nghiệp đã lấy lại được tốc độ tăng trưởng với giá trị sản xuất quý II toàn ngành tăng 2,19%; trong nước đảm bảo đáp ứng nhu cầu lương thực – thực phẩm tiêu dùng trong thời gian cao điểm dịch bệnh và vẫn đảm bảo phục vụ xuất khẩu. Ngoài ra, cơ cấu lại ngành tiếp tục được triển khai tích cực trên tất cả các lĩnh vực, đạt được những kết quả quan trọng; các khó khăn vướng mắc để thúc đẩy xuất khẩu đã được giải quyết; công tác phòng chống dịch bệnh trên cây trồng, tái đàn lợn được thực hiện tốt; và nguồn nước được điều tiết kịp thời phục vụ sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp và phòng chống cháy rừng.

 

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường phát biểu tại Hội nghị

Để đạt được mục tiêu đề ra của Chính phủ đòi hỏi phải có sự nỗ lực lớn hơn của toàn ngành nông nghiệp. Do đó, người đứng đầu ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khẳng định: Trong bối cảnh đó, toàn ngành phải đối phó kép để thực hiện nhiệm vụ rất nặng nề mà Chính phủ giao (tăng trưởng GDP từ 2,8 đến 3,2%).

Đặc biệt, bằng mọi giá phải hoàn thành hai mặt trận, đó là sản xuất lương thực và thực phẩm, qua đó đảm bảo khoảng 43,5 triệu tấn lúa gạo, đủ lương thực cho 100 triệu người dân Việt Nam và xuất khẩu từ 6,5 đến 6,7 triệu tấn. Đảm bảo nhu cầu sử dụng thịt, trứng, sữa, rau… cho nhu cầu trong nước và hướng tới xuất khẩu với tổng giá trị khoảng 42 tỷ USD.

“Chúng ta phải nhìn lại cục diện bất thuận, thách thức trong 6 tháng qua và các tháng tiếp theo, từ đó đề ra các chính sách, kế hoạch điều hành và hành động đồng bộ tất cả các khu vực, từ hành chính, sự nghiệp cho đến các doanh nghiệp. Phương châm là với thách thức kép thì phải quyết tâm và cố gắng thực hiện 2-3 lần”, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh.

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường khẳng định: Khi đứng trước khó khăn, thách thức lớn, chúng ta phải tập trung trí tuệ để đưa ra các giải pháp tháo gỡ, không bàn lùi, không thay đổi mục tiêu kế hoạch năm 2020 mà Chính phủ giao.

(Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)

Khoa học và công nghệ là đòn bẩy tạo sức bật cho sản xuất nông nghiệp

Đó là nhận định của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Quốc Doanh trong cuộc họp giữa Bộ KH&CN với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhằm đánh giá kết quả hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2016-2020 và định hướng xây dựng kế hoạch năm 2021, giai đoạn 2021-2025 diễn ra chiều ngày 23/6/2020 tại Trụ sở Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN).
 

Tham dự cuộc họp có Thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Công Tạc, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Quốc Doanh và các đơn vị chức năng của hai Bộ.

Phát biểu khai mạc buổi họp, Thứ trưởng Phạm Công Tạc nhấn mạnh: Năm 2020 là năm cuối cùng có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo hoàn thành các mục tiêu trong việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của giai đoạn 2016-2020, chuẩn bị tổng kết Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012; cũng như đánh giá kết quả đạt được việc triển khai phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ KH&CN giai đoạn 2016-2020 đã phê duyệt tại Quyết định số 1318/QĐ-BKHCN ngày 05/6/2015 của Bộ trưởng Bộ KH&CN. Hiện nay, Bộ KH&CN đang tiến hành tái cơ cấu các chương trình KH&CN quốc gia theo hướng phục vụ thiết thực các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, tăng cường tiềm lực quốc phòng và chờ Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ KH&CN giai đoạn 10 năm 2021 – 2030 và Bộ KH&CN phê duyệt các chương trình KH&CN quốc gia giai đoạn 2021-2030. Năm 2020 cũng là năm tổng kết nhiều chương trình phối hợp giai đoạn 2016-2020 giữa Bộ KH&CN với các bộ, ngành. Nội dung và mục tiêu các Chương trình phối hợp cần được rà soát và ký kết cho giai đoạn tiếp theo 2021-2025. Bộ KH&CN đã có văn bản hướng dẫn số 254/BKHCN-KHTC ngày 07/02/2020 về hướng dẫn xây dựng kế hoạch và dự toán ngân sách KH&CN năm 2020 gửi đến các Bộ, ngành đầu mối kế hoạch. Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 14/4/2020 về việc xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025. Do đó buổi họp hôm nay hai Bộ không chỉ đánh giá kết quả đạt được về hoạt động khoa học và công nghệ thời gian qua mà rất cần thiết phải chỉ ra được những vấn đề cần được ưu tiên triển khai trong năm 2021 và giai đoạn 2021-2025 để đưa vào kế hoạch năm và kế hoạch 5 năm.

Sau khi nghe báo cáo của Bộ KH&CN, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các ý kiến của các nhà quản lý, các nhà khoa học, hai Bộ thống nhất những nhiệm vụ cần tập trung triển khai trong năm tới và các năm tiếp theo là: Thống nhất kế hoạch tổng kết đánh giá hiệu quả Chương trình phối hợp giữa hai Bộ; ký kết chương trình phối hợp hoạt động KH&CN giữa hai Bộ cho giai đoạn 2021-2025. Thúc đẩy đánh giá việc tổ chức thực hiện các Chương trình KHCN cấp quốc gia kết thúc năm 2020; Đánh giá và đề xuất phê duyệt điều chỉnh chương trình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, chương trình sản phẩm quốc gia giai đoạn 2021-2025; Kiến nghị Thủ tướng Chính phủ bổ sung một số sản phẩm chủ lực của ngành nông nghiệp vào danh mục sản phẩm quốc gia; Tăng cường phối hợp trong công tác đo lường chất lượng, sở hữu trí tuệ ngành nông nghiệp; Chú trọng đẩy mạnh phối hợp giữa hai bộ về văn bản quy phạm pháp luật; Hai Bộ thống nhất sớm tập trung rà soát phục vụ tái cơ cấu các Chương trình KHCN cấp quốc gia trong lĩnh vực nông nghiệp theo tinh thần của NQ 01, 02 của Chính phủ… 

Phát biểu tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Quốc Doanh đã đánh giá cao những kết quả về khoa học công nghệ trong thời gian qua đối với ngành nông nghiệp. Khoa học công nghệ đã là đòn bẩy tạo sức bật cho sản xuất nông nghiệp, đảm bảo tăng trưởng đều và ổn định, mặc dù điều kiện thời tiết khắc nghiệt do biến đổi khí hậu, dịch bệnh triền miên. Thứ trưởng Lê Quốc Doanh cũng đánh giá cao sự phối hợp hoạt động về khoa học công nghệ giữa hai bộ và đề nghị thời gian tới, Bộ KH&CN cần tập trung nguồn lực cho những nghiên cứu công nghệ phục vụ sản xuất theo chuỗi giá trị (ưu tiên chế biến sâu) tạo giá trị gia tăng của hàng nông sản Việt Nam.

Phát biểu bế mạc cuộc họp, Thứ trưởng Phạm Công Tạc nêu rõ: Một đất nước với quá nửa dân số sản xuất nông nghiệp nên khoa học công nghệ phải ưu tiên phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngoài các chương trình cấp quốc gia đang triển khai có thể hình thành các chương trình khoa học công nghệ cấp Bộ theo các lĩnh vực cần được ưu tiên. Bộ Nông nghiệp xem xét ưu tiên các Đề án đầu tư đưa vào kế hoạch trung hạn để triển khai các nhiệm vụ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại các Quyết định số 1670/QĐ-TTg, Quyết định số 1671/QĐ-TTg như: Vườn thực vật quốc gia, các phòng thí nghiệm trọng điểm… Triển khai các nhiệm vụ nhằm phòng chống dịch hại châu chấu sa mạc và các bệnh dịch hại cây trồng; Tập trung cho việc hoàn thiện và ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông sản.Từ nay đến cuối năm 2020 hai Bộ phối hợp chặt chẽ hơn nữa để đánh giá tổng kết Chương trình phối hợp hoạt động KH&CN, các chương trình quốc gia khác về nông nghiệp và phát triển nông thôn./.

(Nguồn: Bộ Khoa học và Công nghệ)

Đẩy mạnh việc phát triển tài sản trí tuệ trong nông nghiệp

Thực hiện Chương trình công tác Đoàn và phong trào thanh niên năm 2020 của Ban chấp hành Đoàn thanh niên Bộ Khoa học và Công nghệ; hướng đến chào mừng Đại hội Đảng bộ Bộ Khoa học và Công nghệ, được sự đồng ý của Đảng ủy, Đoàn thanh niên Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Đoàn thanh niên Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện Khoa học sở hữu trí tuệ, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (KHNNVN) phối hợp triển khai Trạm khai thác thông tin và sử dụng dịch vụ sở hữu công nghiệp (gọi tắt là IPPlatform) và tổ chức “Ngày hội sở hữu trí tuệ” cho đoàn viên, thanh niên, nghiên cứu viên trẻ trong lĩnh vực nông nghiệp năm 2020.


 Các đại biểu cắt băng khai mạc.

Về phía đoàn khối các cơ quan Trung ương có đồng chí Trần Hữu, Ủy viên Ban thường vụ Trung ương Đoàn, Bí thư Đoàn.

Về phía Bộ Khoa học và Công nghệ có đồng chí Phương Tuyến, Chánh văn phòng Đảng – Đoàn thể; đồng chí Phạm Quang Minh, Phó Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Viên Nam; đồng chí Nguyễn Hữu Cẩn, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ; đồng chí Lê Vũ Tiến, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn, Bí thư Đoàn Bộ; đại diện Vụ Khoa học và Công nghệ các ngành kinh tế, kỹ thuật; các đồng chí Ủy viên Ban thường vụ, Ban Chấp hành Đoàn Bộ.

Về phía Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có đồng chí Nguyễn Hoàng Linh, Phó Bí thư Đoàn Bộ, đồng chí Đào Ngọc Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi và các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ, Ủy viên Ban Chấp hành Đoàn bộ.

Về phía Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam có đồng chí Đào Thế Anh, Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam; đồng chí Phạm Văn Thuận, Ủy viên Ban Thường Vụ Đảng ủy Viện, Trưởng ban Tổ chức hành chính; đồng chí Lã Tuấn Nghĩa, Ủy viên Ban thường vụ Đảng ủy Viện, Giám đốc Trung tâm Tài nguyên thực vật; đồng chí Hoàng Thị Hiền, Chủ tịch công đoàn Viện cùng đại diện Lãnh đạo các ban, các Viện và trung tâm trực thuộc Viện.

Khai trương Trạm khai thác thông tin và sử dụng dịch vụ sở hữu công nghiệp. 

Các sản phẩm được trưng bày tại gian hàng là các sản phẩm khoa học công nghệ được thực hiện bởi trí óc và bàn tay của những nhà khoa học từ hai Bộ (các đơn vị đầu mối của Viện KHNNVN, và gian hàng của Đoàn thanh niên Viện ƯDCN, Viện NLNTVN, Viện KHSHTT) là đúc kết của kinh nghiệm và thực tiễn nghiên cứu sau nhiều năm của các tập thể. Rất nhiều sản phẩm trong triển lãm đã và sắp được bảo hộ Giống, thiết bị kỹ thuật và sở hữu công nghiệp. Thông qua triển lãm này, ban tổ chức mong muốn các đơn vị có thể chia sẻ với nhau về các nghiên cứu ứng dụng của đơn vị mình, đồng thời tìm hiểu thêm về tầm quan trọng của bảo hộ các tài sản trí tuệ, qua đó, lãnh đạo các đơn vị cũng sẽ có thêm cái nhìn tổng quát hơn để có thể quản trị những tài sản trí tuệ của đơn vị mình.

Chương trình được tổ chức nhằm phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của đoàn viên, thanh niên trong công tác nghiên cứu khoa học, kết nối chuỗi giá trị trong sở hữu tài sản trí tuệ giữa nhà quản lý, nhà khoa học và doanh nghiệp giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Khoa học và Công nghệ.

Toàn cảnh Hội thảo “Quản trị tài sản trí tuệ và công cụ khai thác thông tin sở hữu công nghệp phục vụ hoạt động tạo dựng, bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ trong nông nghiệp”.
 

Tại Hội thảo “Quản trị tài sản trí tuệ và công cụ khai thác thông tin sở hữu công nghệp phục vụ hoạt động tạo dựng, bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ trong nông nghiệp”, nhiều vấn đề nóng liên quan đến công tác tạo dựng, xác lập tài sản trí tuệ được đưa ra thảo luận.

Theo đánh giá của Viện Khoa học sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ, thực trạng tài sản trí tuệ hiện nay tại các viện nghiên cứu có chất lượng thấp; mối liên kết giữa các ngành công nghiệp, viện nghiên cứu còn yếu; khả năng quản trị công tác xác lập quyền chưa đủ mạnh; hiệu lực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ còn hạn chế.

Ông Nguyễn Hữu Cẩn, Phó Viện trưởng Viện Khoa học sở hữu trí tuệ, chỉ ra rằng nếu không quản trị tốt tài sản trí tuệ sẽ dẫn đến những tổn thất nặng nề cho viện nghiên cứu cũng như các nhà khoa học như: Lãng phí tài nguyên trí tuệ, vốn trí tuệ; giảm sút, triệt tiêu hiệu quả đầu tư sáng tạo; đánh mất cơ hội, giảm sút khả năng cạnh tranh, giảm thiểu động lực phát triển; tổn thất uy tín, tài chính do vướng vào các tranh chấp, rắc tối pháp lý với người khác.

Các đại biểu trao đổi thảo luận tại Hội thảo. 

Cũng tại Hội thảo, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đã nêu ra những khó khăn, hạn chế trong hoạt động sở hữu trí tuệ của đơn vị: Hoạt động tạo lập, quản lý và phát triển tài sản trí tuệ chưa được quan tâm đúng mức với tốc độ và yêu cầu hội nhập, phát triển kinh tế xã hội; hoạt động khai thác các giá trị của sở hữu trí tuệ chưa được quan tâm; Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam và các đơn vị thành viên hầu hết không có cán bộ chuyên trách về bảo hộ, quản lý và phát triển tài sản trí tuệ.

Nhận thức về sở hữu trí tuệ của các cán bộ nghiên cứu chưa đồng đều và đầy đủ trong điều kiện Viện chuyển hướng sang tự chủ về tài chính. Thiếu tư vấn về thủ tục bảo hộ sở hữu trí tuệ. Chưa xác định được phương án thực hiện hoạt động sở hữu trí tuệ phù hợp trong bối cảnh không có nguồn ngân sách riêng để duy trì và thúc đẩy hoạt động này.
 

Kí kết thỏa thuận hợp tác về sở hữu trí tuệ giữa Viện Khoa học sở hữu trí tuệ và Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. 

Trong khuôn khổ chương trình “Ngày hội Sở hữu trí tuệ” năm 2020, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam và Viện Khoa học sở hữu trí tuệ đã tổ chức lễ kí kết thỏa thuận hợp tác về sở hữu trí tuệ và khai trương trạm khai thác thông tin sở hữu công nghiệp IPPlatform.

Platform là nền tảng công cộng miễn phí, cho phép tất cả người dùng tra cứu thông tin về sở hữu công nghiệp, dịch vụ hỗ trợ đăng kí sở hữu trí tuệ, cập nhật thông tin về tài sản trí tuệ, và đăng thông báo mua bán các tài sản trí tuệ trên sàn giao dịch. Nó tích hợp toàn bộ cơ sở dữ liệu của Cục Sở hữu Trí tuệ (Bộ KH&CN), đồng thời có thêm cơ sở dữ liệu do người dùng tự cung cấp (được kiểm chứng) và liên kết với một số cơ sở dữ liệu từ Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO và các cơ quan sáng chế Mỹ, châu Âu, Nhật Bản…

Theo PGS.TS Đào Thế Anh, Phó giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, bối cảnh nghiên cứu trong ngành nông nghiệp đã có sự chuyển dịch. “Trước đây, các sản phẩm khoa học công nghệ như giống, quy trình kỹ thuật chúng tôi nghiên cứu ra chưa có thị trường mà chủ yếu để phục vụ yêu cầu của nhà nước, tức dành cho người nông dân sử dụng, đa phần là miễn phí thông qua hệ thống khuyến nông. Tuy vậy, hiện nay chúng ta đã bước sang giai đoạn thị trường hóa các sản phẩm khoa học công nghệ. Sản xuất nông nghiệp không phải chỉ có nông dân mà đã có sự tham gia của các doanh nghiệp,”. Như vậy, trong tương lai nhu cầu của doanh nghiệp về các tài sản trí tuệ sẽ tăng lên, đồng nghĩa với việc các viện nghiên cứu phải đẩy mạnh hơn quá trình thiết lập quyền bảo hộ tài sản trí tuệ của mình để trở thành người cung cấp ‘vốn chất xám’ hiệu quả.

Sự kiện này là bước đầu phối hợp giữa Đoàn Thanh niên Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về công tác nghiên cứu khoa học và công tác sở hữu trí tuệ. Thỏa thuận hợp tác sẽ tập trung vào công tác đào tạo, huấn luyện các nhà khoa học của Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam trong việc tạo dựng, phát triển tài sản trí tuệ.
( Nguồn: Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam)

Thúc đẩy phát triển sản xuất chè bền vững

Ngày 12/6/2020, tại tỉnh Thái Nguyên, Bộ Nông nghiệp và PTNT tổ chức Hội nghị thúc đẩy phát triển sản xuất chè bền vững. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Lê Quốc Doanh chủ trì Hội nghị. Hội nghị nhằm đánh giá hiện trạng sản xuất, tiêu thụ cây chè cả nước trong thời gian qua; định hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu chè trong thời gian tới.

Toàn cảnh Hội nghị Thúc đẩy phát triển sản xuất chè bền vững

 

Việt Nam là một quốc gia trồng, sản xuất và chế biến chè, có diện tích và sản lượng chè đứng thứ 5 nhưng năng suất lại đứng hàng thứ 3 trong tổng số 50 quốc gia sản xuất chè trên thế giới. Đến nay, nước ta có 34 tỉnh, thành phố trồng chè với tổng diện tích 123 nghìn ha chè, năng suất đạt gần 95 tạ/ha, cao hơn năm 2018 là 4,4 tạ/ha, sản lượng đạt 1,02 triệu tấn chè búp tươi. Khối lượng xuất khẩu đạt 136 nghìn tấn, giá trị đạt 235 triệu USD. Những năm qua, chè là cây được sản xuất khá bền vững, góp phần tích cực giảm nghèo cho nhân dân miền núi, đặc biệt ở một số vùng sản xuất chè đặc sản, là cây làm giàu cho nhân dân.

Thái Nguyên, hiện là tỉnh có diện tích chè lớn nhất cả nước, diện tích trồng chè hiện nay ước đạt 22.500ha; năng suất ước đạt 119 tạ/ha, sản lượng chè búp tươi đạt trên 230 nghìn tấn. Những năm qua, tỉnh Thái Nguyên đã đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu giống chè, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất. Đến nay, hầu hết diện tích chè của tỉnh đã được sản xuất theo hướng an toàn, hữu cơ; khâu chế biến cũng được chú trọng, đa dạng hóa sản phẩm. Cùng với đó, tỉnh đã đẩy mạnh xây dựng, xúc tiến thương mại, tiêu thụ chè; các sản phẩm chè của tỉnh đã được khẳng định trên thị trường trong nước và quốc tế, nhờ đó đã giúp xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho các hộ sản xuất chè.

Tuy nhiên, nhiều đại biểu dự Hội nghị cho rằng, dư địa phát triển chè còn rất lớn, đặc biệt là việc nâng giá trị gia tăng của chè; nhận thức, đầu tư, chỉ đạo và tổ chức sản xuất chè giữa các tỉnh khác nhau, có những nơi một héc-ta chè đạt giá trị tù 500 đến 800 triệu đồng/năm, nhưng có những nơi chưa đạt đến 100 triệu đồng/ha/năm; liên kết sản xuất, chế biến chưa đạt yêu cầu; gắn sản xuất chè với du lịch còn yếu.

Tại hội nghị, tham luận của các địa phương tập trung đề xuất các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn về công tác giống, khâu sản xuất, khâu chế biến, phát triển thị trường… với ngành chè. Một số ý kiến gợi mở từ phía Cục Bảo vệ thực vật, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cũng được trình bày tại hội nghị.

Quan điểm chung của các đơn vị tự chung lại, là phát triển cây chè đạt hiệu quả cao gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp.

Để việc phát triển sản xuất ngành chè đảm bảo thực sự bền vững thì quy mô diện tích trồng chè phải phù hợp với yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu, địa bàn bố trí phù hợp với sinh thái và truyền thống canh tác, đồng thời phải có khả năng cạnh tranh về hiệu quả kinh tế với các cây trồng khác trên địa bàn.

Các đại biểu thăm mô hình sản xuất chè tại xã Tân Cương, thành phố Thái Nguyên

Phát biểu ý kiến tại Hội nghị, Thứ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Quốc Doanh đề nghị: Những năm tới đây giữ ổn định diện tích cây chè, nhưng phải nâng cao giá trị gia tăng của chè và sản phẩm trà. Do đó, các địa phương cần đánh giá lại thực trạng sản xuất, kinh doanh, đầu tư, chỉ đạo, tổ chức sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu. Nhằm nâng cao chất lượng trà, cần đẩy mạnh chế biến, liên kết; phân khúc sản phẩm trà, từ đó gắn với chọn giống và chế biến trà; chú ý phát triển, nâng cao chất lượng các sản phẩm mới, nhưng đồng thời cũng phải nâng cao chất lượng sản phầm trà truyền thống.

Thứ trưởng Lê Quốc Doanh giao trách nhiệm cho Cục Trồng trọt xây dựng đề án phát triển cây chè bền vững trong điều kiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, trong đó xác định mục tiêu rõ ràng, có chính sách đối với cây chè. Các cục, vụ, viện, trường đại học liên quan có trách nhiệm nghiên cứu, đề xuất các vấn đề liên quan nhằm phát triển cây chè.

Phát triển sản xuất giống phục vụ cơ cấu lại ngành nông nghiệp

Ngày 3/6, tại trụ sở Bộ NN-PTNT, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh chủ trì cuộc họp triển khai Chương trình phát triển nghiên cứu, sản xuất giống phục vụ cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021 – 2030.

Mới đây, ngày 28/5/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 703/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Phát triển nghiên cứu, sản xuất giống phục vụ cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021-2030, giao Bộ Nông nghiệp và PTNT chủ trì thực hiện Chương trình.

Với mục tiêu chung là nâng cao năng lực nghiên cứu, sản xuất giống cây nông lâm nghiệp, giống vật nuôi và giống thủy sản theo hướng công nghiệp hiện đại nhằm cung cấp đủ giống có chất lượng cho sản xuất; góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng trung bình toàn ngành giai đoạn 2021-2030 từ 2,7-3%/năm; kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2025 đạt 50-55 tỷ USD, năm 2030 đạt 55-60 tỷ USD; thực hiện có hiệu quả định hướng cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.

Theo đó, đến năm 2030, ngành trồng trọt đảm bảo sử dụng 90% giống lúa xác nhận và hạt lai F1; sử dụng giống ngô lai đạt trên 95%; 100% diện tích (chè, cao su, chuối), 80-90% diện tích (cà phê, điều), 70-80% diện tích (cam, bưởi), 40-50% diện tích (hồ tiêu, sắn) trồng mới được sử dụng giống đúng tiêu chuẩn; trên 95% giống nấm được sử dụng đạt tiêu chuẩn cấp 1; sản xuất giống rau trong nước đáp ứng 25-30% nhu cầu. Ngành lâm nghiệp, tỷ lệ cây giống cung cấp cho trồng rừng được kiểm soát nguồn gốc giống đạt 95%. Ngành chăn nuôi đảm bảo cung cấp giống tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất đối với lợn đạt 95%, gia cầm đạt 85-90%. Ngành thủy sản đảm bảo chủ động cung cấp 100% nhu cầu giống cho đối tượng thủy sản nuôi chủ lực; tôm thẻ chân trắng bố mẹ được sản xuất trong nước đáp ứng 30% nhu cầu; 100% giống tôm thẻ chân trắng, 100% giống cá tra và 50-60% giống tôm sú được kiểm soát chất lượng và sạch một số bệnh.

Chương trình tập trung vào 3 nhiệm vụ chính là (i) phát triển khoa học công nghệ về giống (bao gồm bảo tồn, lưu giữ nguồn gen, nuôi giữ giống gốc, chọn tạo giống); (ii) phát triển sản xuất giống; (iii) hoàn thiện hệ thống giống và ưu tiên triển khai thực hiện trên những đối tượng cây trồng, vật nuôi chủ lực quốc gia theo văn bản quy định của cấp có thẩm quyền. Đối với các cây trồng, vật nuôi khác; căn cứ yêu cầu thực tiễn, các bộ và địa phương xem xét, quyết định hỗ trợ theo chính sách của Chương trình này trong từng giai đoạn cụ thể.

Chương trình được triển khai thực hiện trên quy mô cả nước. Nguồn ngân sách Trung ương ưu tiên đầu tư, hỗ trợ đầu tư cho các cơ quan Trung ương và các địa phương chưa tự cân đối ngân sách; những địa phương đã tự cân đối ngân sách, chủ động tổ chức thực hiện đầu tư các dự án theo mục tiêu, nội dung Chương trình.

Thời gian thực hiện Chương trình từ năm 2021 đến hết năm 2030, chia theo 2 kỳ kế hoạch (2021 – 2025 và 2026 – 2030). Tổng mức vốn thực hiện Chương trình là 103.050 tỷ đồng.

Tại cuộc họp, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh cho biết, tính mới của chương trình lần này là nếu trước kia chỉ tập trung vào lưu giữ giống gốc, phát triển giống chủ yếu ở khối công lập như các viện, trường thì sang giai đoạn tới sẽ đầu tư sâu cho khối doanh nghiệp, tư nhân, thiết kế theo chuỗi từ nguồn gen phục vụ chọn tạo đến chương trình chọn tạo giống cho những đối tượng chủ lực phục vụ tái cơ cấu.

Thứ hai là chương trình sẽ huy động đa dạng nguồn lực của xã hội với cơ cấu vốn rất rõ phần nào của trung ương, của địa phương đặc biệt là của các doanh nghiệp và các thành phần khác kể cả nông dân.
Về những tồn tại hiện nay, trực tiếp Thứ trưởng đã đi khảo sát và chỉ đạo Cục Trồng trọt phối hợp với các đơn vị, các địa phương để làm sao kiểm soát được tính đúng giống và chất lượng của giống cây dài ngày đặc biệt là cây ăn quả có múi: “Không thể để cho tình trạng nhà nhà, người làm giống như hiện nay mà phải có chứng nhận cho các vườn ươm và phải thanh tra, kiểm tra được việc này.

Giai đoạn tới, Bộ sẽ đầu tư cho các viện nghiên cứu, các trung tâm giống của các địa phương để có hệ thống sản xuất theo đúng chuẩn từ vườn giống gốc đến các mắt ghép đảm bảo khi xuất bán cây giống phải hoàn toàn sạch bệnh, đặc biệt là bệnh do virus”.

(Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)

Ngành Khoa học và Công nghệ bàn giải pháp giúp doanh nghiệp, người dân phục hồi sản xuất

Phát biểu tại Hội nghị Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) ngày 29/5/2020, Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh đánh giá cao những kết quả hoạt động KH&CN trong cả nước thời gian qua đã kịp thời có những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người dân ứng phó thành công với đại dịch Covid-19. Rất nhiều công việc, địa phương đã thể hiện tính chủ động, đi đầu giải quyết, hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân phục hồi và phát triển sản xuất khi dịch Covid-19 được khống chế. Bộ trưởng cũng đánh giá cao ý kiến của Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đã tham mưu cho ngành KH&CN những công việc rất cụ thể trong thời gian tới.
 

 

Tham dự Hội nghị có đồng chí Chu Ngọc Anh, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN; đồng chí Phạm Công Tạc, Thứ trưởng Bộ KH&CN; đồng chí Lê Xuân Định, Thứ trưởng Bộ KH&CN; đồng chí Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội DNNVV và vừa Việt Nam;

Tại Điểm cầu của các Địa phương: đồng chí Lê Văn Quý, Phó Chủ tịch UBND Tỉnh Điện Biên; đồng chí Lâm Thị Sang, Phó Chủ tịch UBND Tỉnh Bạc Liêu; đại diện lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ KH&CN;

Tham dự hội nghị còn có Ban Giám đốc Sở và lãnh đạo các phòng, ban, đơn vị thuộc Sở KH&CN của 63 tỉnh, thành phố và đại diện Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa của các địa phương, các cơ quan thông tấn báo chí trung ương và địa phương.

KH&CN: chủ động, đi đầu, phát huy thế mạnh
 

Thứ trưởng Phạm Công Tạc phát biểu tại Hội nghị.

 Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Phạm công Tạc cho biết, năm 2019 hoạt động khoa học và công nghệ của toàn ngành nói chung và của các địa phương nói riêng, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Mặc dù nền kinh tế thế giới bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19 nhưng Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng dương. Để duy trì sản xuất, phục vụ phát triển KT-XH trong năm 2020 và những năm tiếp theo thì vai trò của KH&CN, vai trò của Hiệp hội DNNVV rất quan trọng.

 “Hội nghị trực tuyến hôm nay, Bộ KH&CN, Hiệp Hội DNVVN cùng các địa phương tập trung trao đổi, thảo luận và thống nhất hành động thực hiện một số giải pháp KH&CN mang tính cấp bách để hỗ trợ, phục vụ doanh nghiệp, người dân phục hồi và phát triển sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm” – Thứ trưởng chia sẻ.

Theo ông  Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội DNNVV, Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc việc ngăn chặn và kiểm soát đại dịch Covid-19, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, người dân đều đã được khôi phục trở lại bình thường. Đây là thắng lợi của cả nước đặc biệt là của Bộ KH&CN. Có thể thấy, tác động của KH&CN trong giai đoạn Covid-19 là rất đáng kể, hỗ trợ nhiều cho doanh nghiệp, người dân và người lao động trong công việc và sinh hoạt hàng ngày như trao đổi thông tin, giảng dạy, mua sắm và thanh toán trực tuyến…

Đại diện cộng đồng DNNVV, ông Nguyễn Văn Thân cũng chỉ ra hai cơ hội tốt bứt phá nền kinh tế sau đại dịch, trong đó đều gắn liền với vai trò của ngành KH&CN. Theo ông Thân, trong tình hình hội nhập kinh tế thế giới mà trong đó vai trò của KH&CN là vô cùng quan trọng như việc thúc đẩy ứng dụng KH&CN để kích thích tiêu dùng nội địa, vai trò của quản lý nhà nước trong truy xuất nguồn gốc, những vướng mắc trong cộng đồng doanh nghiệp đối mặt khi đăng ký quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) cũng như những khó khăn của các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và nghị định 13 về hỗ trợ doanh nghiệp… là rất cần thiết.
 

Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính (Bộ KH&CN) Nguyễn Nam Hải phát biểu tại Hội nghị.
 

Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ Đinh Hữu Phí phát biểu tại Hội nghị.
 

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Nguyễn Hoàng Linh phát biểu tại Hội nghị. 

Tại Hội nghị, đại diện một số đơn vị thuộc Bộ đã có những báo cáo liên quan đến một số nhiệm vụ trọng tâm gắn với hoạt động KH&CN địa phương tập trung vào: Hoạt động phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo và phát triển doanh nghiệp KH&CN; Những nội dung trọng tâm về sở hữu trí tuệ liên quan đến hoạt động của các Sở Khoa học và Công nghệ; Các nội dung về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) đề xuất đưa vào báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ tỉnh, thành phố nhiệm kỳ 2020-2025; Một số nhiệm vụ trọng tâm về hoạt động tiêu chuẩn đo lương chất lượng của địa phương trong giai đoạn tới.

Nhiều Giám đốc Sở KH&CN đã đánh giá cao những nỗ lực của Bộ KH&CN trong việc tạo hành lang pháp lý cho KH&CN phát triển, đặc biệt thể hiện cao độ trong tình hình dịch bệnh Covid-19. Đề xuất, kiến nghị nhằm ”hiến kế” tháo gỡ những khó khăn trong hoạt động KH&CN tại địa phương liên quan liên đến giải pháp phát triển doanh nghiệp KH&CN theo Nghị định 13; việc thực hiện Quyết định số 100/QĐ-TTg ngày 09/01/2019 về phê duyệt Đề án triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc. Đề xuất những giải pháp để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh trong thời gian tới,….

Những vấn đề liên quan đến Chương trình nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa. Đặc biệt là Công tác phối hợp với Hiệp hội DNNVV Việt Nam và Hiệp hội DNNVV các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để triển khai Đề án 100 và các nhiệm vụ hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới, ứng dụng công nghệ;

Nhiều ý kiến cũng đề xuất có phương án cụ thể triển khai Chiến lược Sở hữu trí tuệ đến năm 2030 và giải quyết khó khăn vướng mắc trong hoạt động bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho các sản phẩm OCOP, sản phẩm chủ lực, đặc hữu…; Triển khai đề án 844 và hỗ trợ cho nhóm doanh nghiệp hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp KH&CN; Tìm kiếm các giải pháp huy động nguồn lực đầu tư cho KH&CN, nhất là từ doanh nghiệp; Nội dung nhiệm vụ và giải pháp về KH,CN&ĐMST trong văn kiện Đại hội Đảng bộ cấp tỉnh, thành phố nhiệm kỳ 2020-2025, các nghị quyết/chương trình/đề án/kế hoạch… để triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ cấp tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025; Nội dung trọng tâm trong xây dựng kế hoạch KH&CN năm 2021 và giai đoạn 2021-2025.

Bên cạnh đó, nhiều địa phương cũng có những bài học trong triển khai hoạt động KH&CN tại địa bàn, mỗi bài học kinh nghiệm đều thể hiện sự sinh động sáng tạo vượt qua mọi khó khăn như: tỉnh Bến Tre triển khai Quyết định 100 về truy xuất nguồn và Chương trình hỗ trợ Doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; phát triển không gian khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo tại địa phương; Thanh Hóa là sự chủ động tham mưu cho lãnh đạo tỉnh ban hành cơ chế, chính sách KH,CN & ĐMST; Phú Thọ về các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn đo lường chất lượng, truy xuất nguồn gốc sản phẩm; Quảng Ninh  hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng KH&CN, bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ, hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực, sản phẩm OCOP ở địa phương, đề xuất kiến nghị giải pháp; Hà Nội  đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp khoa học và công nghệ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thủ đô…

Tạo điều kiện tối đa cho hoạt động KH,CN&ĐMST
 

Bộ trưởng Chu Ngọc Anh phát biểu tại Hội nghị. 

Chủ trì Hội nghị, Bộ trưởng Bộ KH&CN đánh giá cao những kết quả hoạt động KH&CN trong cả nước thời gian qua. Rất nhiều công việc, địa phương đã thể hiện tính chủ động, đi đầu giải quyết, đưa KH&CN chuyển động gắn sang phục vụ và đồng hành, đúng với thông điệp tại Lễ kỷ niệm Ngày KH&CN 18/5, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam nhận định: khi đất nước đứng trước những thách thức, khoa học và công nghệ đã chứng minh vai trò quan trọng trên tuyến đầu.

Bộ trưởng cho rằng, với trách nhiệm tham mưu cho lãnh đạo tỉnh về hoạt động KH&CN, các lãnh đạo Sở KH&CN ở địa phương đã vượt qua khó khăn, thể hiện vai trò tham mưu của mình. Hiện có rất nhiều tỉnh ban hành nghị quyết, chương trình, kế hoạch triển khai các nghị quyết của Trung ương về chủ trương, chính sách hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nghiệp, xác định doanh nghiệp là trung tâm của hoạt động đổi mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng hương hiệu và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, áp dụng các tiêu chuẩn đo lường chất lượng tiên tiến, phát triển sản phẩm chủ lực, sản phẩm có lợi thế phát triển của địa phương. Có thể thấy KH&CN theo cùng để giải quyết bài toán tốt nhất cho các ngành, lĩnh vực.

Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động KH&CN địa phương trong thời gian tới, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho rằng, cần chú trọng một số vấn đề trọng tâm như: các Sở KH&CN cần chủ động tham mưu, đề xuất cho Tỉnh ủy, Thành ủy, HĐND, UBND cấp tỉnh tổ chức thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp khoa học và công nghệ hỗ trợ cho doanh nghiệp và người dân phục hồi nhanh chóng sản xuất, khắc phục mọi khó khăn do dịch bệnh gây ra. Đặc biệt là tháo gỡ các vướng mắc liên quan đến hoạt đông tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sở hữu trí tuệ; khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, cơ chế ưu đãi doanh nghiệp theo Nghị định 13…

“Bộ KH&CN sẽ luôn luôn đồng hành, sát cánh cùng các địa phương để tháo gỡ những khó khăn, hạn chế, đồng thời khai thác thế mạnh của từng địa phương trong hoạt động KH&CN nhằm thúc đẩy hoạt động KH&CN mạnh mẽ hơn trong thời gian tới”, Bộ trưởng khẳng định.

Đối với Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam Bộ Khoa học và Công nghệ đề nghị Hiệp hội là đầu mối cung cấp thông tin, phản ánh nhu cầu, tổng hợp đề xuất những kiến nghị, từ đó đưa ra bài toán cụ thể,  đề xuất và phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ trong việc hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi sát cánh cùng cộng đồng doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, phát triển sản xuất kinh doanh.

Bộ trưởng cũng giao nhiệm vụ cho các các đơn vị trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ khẩn trương có các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở địa phương phát triển đúng như Kết luận số 50-Kết luận số 50-KL/TW gồm: Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền; Rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật về đầu tư, tài chính và doanh nghiệp, bảo đảm đồng bộ với các quy định pháp luật về KH&CN; Tái cơ cấu các chương trình KHCN quốc gia, nâng cao năng lực ứng dụng KH&CN; Phát triển tiềm lực KH&CN; Tiếp tục thúc đẩy phát triển mạnh thị trường KH&CN và hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về KH&CN.

Tại Hội nghị, Bộ trưởng cũng Chúc mừng các Giám đốc Sở KH&CN mới nhận nhiệm vụ và cảm ơn các đồng chí Giám đốc Sở KH&CN nghỉ hưu hoặc chuyển công tác.

(Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN)

Tỉnh Đắk Lắk sức hút canh tác giống lúa ST24 mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Từ giải thưởng “Gạo ngon nhất thế giới” tại cuộc thi World’s Best Rice lần thứ 11 (tổ chức tại Phillippines), gạo ST24, ST25 của Việt Nam đang có sức hút mạnh trên thị trường. Nắm bắt cơ hội này, nhiều đơn vị hợp tác xã (HTX) nông nghiệp tại các vùng đất lúa trên địa bàn tỉnh đã bắt tay sản xuất giống ST24 và đạt được hiệu quả kinh tế cao.

Cán bộ Phòng NN-PTNT huyện Ea Súp cùng HTX Giảm nghèo Ea Súp kiểm tra chất lượng lúa ST24 trồng thử nghiệm theo phương pháp hữu cơ.

Hơn 3 năm trước, HTX Dịch vụ nông nghiệp Nhật Minh thuộc huyện Krông Ana tỉnh Đắk Lắk đã bắt đầu nhận canh tác lúa ST24 theo đặt hàng của đơn vị cung ứng giống. Lúc bấy giờ, lúa ST24 còn khá mới mẻ và chưa được nhiều người biết đến nên phía cung ứng chỉ tạm gọi là “RVT thế hệ mới” và bao tiêu với giá ngang bằng với giá lúa RVT. Giống lúa này có đặc điểm hạt thuôn dài, chất lượng gạo thơm ngon, năng suất canh tác tại vùng chuyên canh lúa nước của HTX cao hơn hẳn so với lúa RVT, lên đến 11 tấn lúa tươi/ha (RVT đạt bình quân 9,5 tấn lúa tươi/ha).

Sau vụ lúa thử nghiệm thành công ngoài mong đợi, HTX dần mở rộng diện tích canh tác lúa ST24. Giá lúa ST24 dần tăng cao so với các giống lúa lai khác giúp nông dân thêm phần yên tâm, phấn khởi. Ông Nguyễn Văn Tưởng, Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp Nhật Minh nhận xét, so với các giống lúa mà đơn vị từng canh tác trước đây, giống ST24 thích ứng tốt, không phát sinh sâu bệnh đáng kể, nhất là không thấy xuất hiện bệnh hoa cúc thường gây thiệt hại cho bà con trong vụ hè thu. Nhận thấy đặc tính kháng sâu bệnh cao của giống lúa này, vụ hè thu năm 2019, HTX đã chuyển đổi 2 ha từ canh tác truyền thống sang sử dụng hoàn toàn các biện pháp hữu cơ, sinh học với định hướng xây dựng thương hiệu gạo riêng cho HTX. Thời điểm thu hoạch, gạo ST24 lại được người tiêu dùng “săn đón” sau hiệu ứng từ Giải thưởng “Gạo ngon nhất thế giới” của gạo ST25 (do gạo ST25 chưa có mặt trên thị trường). Vì vậy, toàn bộ sản lượng gạo ST24 sản xuất theo quy trình hữu cơ của HTX nhanh chóng được tiêu thụ hết với giá cao, nhiều đơn vị đặt hàng cung ứng lâu dài.

Vụ đông xuân 2019 – 2020, các thành viên của HTX Dịch vụ nông nghiệp Nhật Minh triển khai 15 ha lúa hữu cơ và hơn 270 ha lúa canh tác theo quy trình thông thường. Trong đó, lúa ST24 hữu cơ được thu mua cao hơn 1.000 đồng/kg, giúp thành viên được hưởng lợi trực tiếp từ việc ứng dụng quy trình sản xuất an toàn, bền vững. Bước đầu, HTX cũng đã thuê kỹ sư nông nghiệp soạn quy trình hữu cơ riêng cho đơn vị, đồng hành giám sát quá trình sản xuất để xây dựng giá trị riêng cho thương hiệu gạo của HTX. Đây là những bước đi quan trọng để HTX quy hoạch riêng vùng sản xuất hữu cơ trên cánh đồng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các đối tượng khách hàng khó tính.

Tại cánh đồng xã Ya Tờ Mốt (huyện Ea Súp) giống lúa ST24 cũng vừa được HTX Giảm nghèo Ea Súp trồng thành công theo hướng sản xuất hữu cơ. Ngay sau khi hay tin gạo ST24, ST25 đạt thành công lớn tại cuộc thi World’s Best Rice lần thứ 11, HTX Giảm nghèo Ea Súp đã cử thành viên cùng nông dân đến tận nhà của Kỹ sư Hồ Quang Cua (tỉnh Sóc Trăng) để tìm hiểu quy trình canh tác và mua lúa giống. Tại đây, các thành viên trong đoàn được mời dùng thử 3 đĩa cơm nấu từ gạo ST21, ST24 và ST25 chỉ ký hiệu bằng số thứ tự để mọi người cùng chọn ra đĩa cơm ngon nhất. Điều trùng hợp là hầu hết mọi người đều lựa chọn đĩa cơm được nấu từ gạo ST24 bởi hạt cơm ngọt, thơm, dẻo, mềm dù không thay đổi kích thước nhiều sau khi nấu chín.

Sau chuyến đi ấy, HTX Giảm nghèo Ea Súp đã triển khai canh tác 2,5 ha lúa ST24 theo hướng hữu cơ và liên kết với HTX Nông nghiệp dịch vụ Thành Công (huyện Ea Súp) trồng 25 ha lúa ST24 theo quy trình thông thường trong vụ đông xuân 2019 – 2020. Năng suất thử nghiệm lúa ST24 trồng theo quy trình thông thường tại cánh đồng xã Ya Tờ Mốt không thua kém các giống lúa lai khác, đạt trên 7,5 tấn lúa khô/ha. Với mô hình canh tác hữu cơ, lúa ST24 thích ứng và sinh trưởng tốt, không phát sinh sâu bệnh hại và mặc dù năng suất chỉ đạt khoảng 75% so với canh tác theo quy trình thông thường, nhưng chất lượng gạo sau khi nấu chín thơm ngon hơn hẳn.

Toàn bộ sản lượng lúa ST24 đều được HTX Giảm nghèo Ea Súp cung ứng cho đối tác ở thị trường các tỉnh, thành phía Bắc và kênh bán hàng riêng của đơn vị. Nhờ đó, HTX đã bao tiêu cho nông dân với giá cao hơn các giống lúa khác cùng thời điểm. Ông Nguyễn Thái Sơn, Giám đốc HTX Giảm nghèo Ea Súp cho biết, kết quả đáng mừng trên là tiền đề quan trọng để HTX xây dựng chuỗi sản xuất lúa gạo chất lượng cao tại huyện Ea Súp, tiếp tục mở rộng diện tích canh tác lúa ST24, nhất là lúa canh tác theo quy trình hữu cơ.

Có thể thấy, với nhiều ưu điểm vượt trội về chất lượng gạo, tính thích ứng cùng khả năng chống chịu sâu bệnh cao, lúa ST24 đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt tại những vùng chuyên canh lúa nước trên địa bàn tỉnh. Đây là cơ hội “vàng” để các HTX nông nghiệp vùng lúa đầu tư nâng cao giá trị, xây dựng uy tín, thương hiệu để nắm bắt nhu cầu lúa gạo chất lượng cao của thị trường nội địa còn nhiều tiềm năng hiện nay.

(Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)

Nhiều hoạt động trong bảo đảm chất lượng, an toàn nông sản năm 2020

Thực hiện chỉ đạo của UBND thành phố, Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản Hà Nội vừa ban hành Công văn số 38/QLCL-CBTN, đề nghị UBND các quận, huyện, thị xã phối hợp trong công tác bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm (ATTP) nông sản năm 2020.

Để nâng cao hiệu quả công tác phối hợp quản lý nhà nước về ATTP, hỗ trợ phát triển các chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp an toàn năm 2020, Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản đề nghị UBND các quận, huyện, thị xã chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền bảo đảm ATTP trên địa bàn. Trong đó, nội dung tuyên truyền về các quy định bảo đảm an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng thực phẩm nông sản.

Về hình thức tuyên truyền, các UBND các quận, huyện, thị xã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc tuyên truyền có thể bằng Pano treo tại chợ đầu mối, chợ dân sinh, nơi tập trung đông dân cư, cơ sở sản xuất, kinh doanh; tờ rơi tuyên truyền phát cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng thực phẩm nông sản. Thời gian tập trung tuyên truyền trong quý II và III/2020.

Bên cạnh đó, UBND các quận, huyện, thị xã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn trên địa bàn tập trung tập huấn kiến thức cho người quản lý, người sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng thực phẩm nông sản. Nội dung tập huấn về nghiệp vụ quản lý, kiến thức chất lượng ATTP nông sản cho cán bộ làm công tác quản lý các cấp; tập huấn các quy định về bảo đảm ATTP cho đối tượng các cơ sở sản xuất, sơ chế, chế biến kinh doanh sản phẩm nông sản; tập huấn kiến thức ATTP cho người tiêu dùng thực phẩm.

Song song với giám sát, cảnh báo nguy cơ về chất lượng, ATTP nông sản, Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản Hà Nội đề nghị UBND các quận, huyện, thị xã hỗ trợ, phát triển các cơ sở, chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông sản an toàn. Về việc này, Chi cục sẽ phối hợp với Phòng Kinh tế các quận, huyện, thị xã đề xuất, khảo sát, lựa chọn các cơ sở sản xuất, kinh doanh có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; sản xuất, kinh doanh các sản phẩm trong danh mục sản phẩm nông nghiệp chủ lực của thành phố, tham gia các chuỗi sản xuất, tiêu thụ nông sản an toàn; có giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP, cam kết bảo đảm ATTP và có nhu cầu nâng cao công tác bảo đảm ATTP, minh bạch thông tin truy xuất nguồn gốc, xây dựng và phát triển nhãn hiệu sản phẩm của cơ sở.

Ngoài ra, đề nghị UBND các quận, huyện, thị xã phối hợp chặt chẽ trong công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm bảo đảm ATTP nông sản trên địa bàn, đặc biệt trong hoạt động thanh tra, kiểm tra đột xuất.

(Nguồn: Cổng Giao tiếp điện tử thành phố Hà Nội)

Triển khai kế hoạch đẩy mạnh phát triển chuỗi cung cấp rau, thịt, nông sản an toàn

 

Ngày 24/4, UBND thành phố Hà Nội ban hành kế hoạch số 88/KH-UBND về việc đẩy mạnh phát triển chuỗi cung cấp rau, thịt, nông sản an toàn.

Theo đó, UBND thành phố giao Sở Nông nghiệp và PTNT chủ trì, tham mưu, xây dựng ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai thực hiện cơ chế, chính sách xây dựng và phát triển chuỗi, khuyến khích tiêu thụ sản phẩm an toàn theo chuỗi trên địa bàn Thành phố. Tổ chức đào tạo, đào tạo nâng cao cho cán bộ quản lý an toàn thực phẩm các cấp nhằm trang bị đầy đủ kiến thức để tổ chức triển khai xây dựng, phát triển chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ nông, lâm, thủy sản an toàn.

Tuyên truyền, thực hiện hiệu quả các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, phát triển sản xuất, hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, áp dụng thực hành nông nghiệp tốt, hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm. Xây dựng mới và tiếp tục triển khai các chương trình, đề án, dự án, mô hình về phát triển nông nghiệp được phê duyệt gắn với việc xây dựng và phát triển chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ nông, lâm, thủy sản an toàn.

Xây dựng, hỗ trợ phát triển chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ nông, lâm, thủy sản kết hợp với thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, khuyến khích phát triển Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP), sản phẩm chủ lực thành phố, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, thực hành nông nghiệp tốt, chương trình quản lý chất lượng tiên tiến, xây dựng hạ tầng nông thôn thành phố Hà Nội, chính sách hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Về các nội dung tập trung hỗ trợ phát triển chuỗi liên kết sản xuất, sơ chế, chế biến, tiêu thụ nông, lâm, thủy sản an toàn, thành phố sẽ hỗ trợ tư vấn thúc đẩy liên kết trong chuỗi giá trị; Tập huấn chuyên sâu về công nghệ, kỹ thuật sản xuất, tiêu chuẩn, chất lượng, chiến lược phát triển sản phẩm theo chuỗi giá trị; Hỗ trợ phát triển thương hiệu, truyền thông, quảng bá; Hỗ trợ kỹ thuật nâng cao tiêu chuẩn, chất lượng, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các chuỗi.

Phối hợp 21 tỉnh, thành phố trong Ban điều phối chuỗi cung cấp rau, thịt an toàn cho thành phố Hà Nội và các tỉnh, thành phố trên toàn quốc xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại, kết nối chuỗi cung cấp rau, thịt, nông sản an toàn giữa các cơ sở sản xuất, kinh doanh của Hà Nội và các tỉnh, thành phố.

Tiếp tục phát triển Hệ thống truy xuất nguồn gốc nông, lâm, thủy sản thực phẩm thành phố Hà Nội, ứng dụng hệ thống phần mềm thông tin điện tử sử dụng mã QR trong quản lý, nhận diện và truy xuất nguồn gốc đối với các sản phẩm nông, lâm, thủy sản, tiếp tục nâng cao tỷ lệ ứng dụng hệ thống thông tin điện tử trong truy xuất nguồn gốc đảm bảo an toàn thực phẩm theo chuỗi tập trung vào sản phẩm nguy cơ cao như rau, củ, trái cây, thịt, thủy sản.

Bình An

(Nguồn: Cổng thông tin điện tử thành phố Hà Nội https://hanoi.gov.vn/)

 

Copyrights © 2019 VITAD-AGRI All Rights Reserved.

X