Author Archives: Vitad Agri

EU tài trợ 1,5 triệu euro cho dự án thúc đẩy nông sản Việt đạt chứng nhận sinh thái, công bằng

EU đã quyết định tài trợ 1,5 triệu euro cho dự án Eco-Fair với mục tiêu thúc đẩy xây dựng ngành nông sản Việt Nam bền vững hơn.

Được biết, dự án Eco-Fair ra đời với sứ mệnh thay đổi hành vi của các tổ chức và cá nhân nhằm đưa ra những biện pháp tích cực về xã hội và cải thiện môi trường.

Theo TS Nguyễn Bảo Thoa, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và phát triển ngành nghề nông thôn (VIRI), Giám đốc dự án Eco-Fair, hiện dự án đã đào tạo hơn 1.000 doanh nghiệp, tiếp cận hơn 1 triệu người tiêu dùng, quảng bá về tiêu dùng bền vững, trong đó đã có 200 doanh nghiệp được đánh giá nhanh về việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên và sản xuất sạch hơn. Khi các doanh nghiệp được chứng nhận bền vững sẽ được kết nối với khách hàng có yêu cầu mua hàng bền vững trên toàn thế giới. Kỳ vọng doanh số cho các mặt hàng như gạo, điều, rau củ quả chế biến… sẽ tăng lên khoảng 30%. 

Đặc biệt, dự án Eco-Fair đang mang đến cho Việt Nam một cơ hội rất tốt để hình thành ngành nông sản bền vững hơn, thông qua việc thu hút các bên liên quan trong chuỗi giá trị gồm khu vực tư nhân, các nhóm người tiêu dùng và nhà hoạch định chính sách để đạt được mục tiêu chuyển sang sản xuất và tiêu dùng bền vững hơn.

Chính vì thế, với nguồn tài trợ của EU cho dự án Eco-Fair, các doanh nghiệp của Việt Nam thuộc các tiểu ngành như gạo, điều, rau củ chế biến, hoa quả chế biến, sản phẩm thủy sản chế biến, sản phẩm chế biến từ thịt gia cầm… có thể tham gia khóa học trực tuyến về sản xuất bền vững.

Dự án sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện sản xuất nông sản đạt chuẩn sinh thái, công bằng, qua đó góp phần vào chiến lược phát triển bền vững của doanh nghiệp. Cũng nhờ sự tư vấn của dự án, các doanh nghiệp sẽ nâng cao được hiệu quả của việc sử dụng tài nguyên và sản xuất sạch hơn, đổi mới sản phẩm bền vững, các chứng nhận sinh thái, công bằng, thiết kế bao bì, kết nối thị trường, tiếp cận tài chính xanh.

Hiện Việt Nam đã có một số doanh nghiệp, HTX hướng tới sản xuất sinh thái, thân thiên với môi trường. Có thể kể đến Hợp tác xã Điều hữu cơ True.coop (Ninh Thuận) được thành lập từ năm 2017 bởi ông Trương Thanh Viện. Đến nay, True.coop đã có 5.000ha vùng nguyên liệu điều đạt chuẩn hữu cơ theo tiêu chuẩn đánh giá của Tổ chức Organic USDA, EU va 1 triệu cây điều giống ươm được kiểm duyệt nguồn gốc, xuất xứ.

Hay doanh nghiệp xã hội Minh Phú  thực hiện các dự án chứng nhận vùng nuôi tôm sinh thái, hữu cơ trong rừng đước tại huyện Ngọc Hiển (Cà Mau) vừa bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn, phát triển nghề nuôi tôm rừng truyền thống vừa thúc đẩy phát triển các giá trị văn hóa của nghề nuôi tôm; xây dựng hình ảnh thương hiệu và nâng cao giá trị tôm sinh thái, hữu cơ như đặc sản của địa phương. Hiện Minh Phú có 9.722ha nuôi tôm sinh thái hữu cơ với 2.010 hộ tham gia và đã xuất khẩu tôm hữu cơ đến nhiều thị trường khó tính như Mỹ, EU, Canada…

Nguồn: Hà Dũng (t/h)

Tăng cường sức khoẻ cho vật nuôi khi thời tiết giá rét

Tăng cường sức khoẻ cho vật nuôi khi thời tiết giá rét

 

Để tăng cường sức khoẻ cho vật nuôi, giúp vật nuôi sinh trưởng và phát triển tốt trong điều kiện thời tiết rét đậm, rét hại kéo dài, bà Nguyễn Thị Liên Hương, Phó Trưởng phòng Khuyến nông Chăn nuôi và Thú y (Trung tâm KNQG) chia sẻ, người chăn nuôi cần quan tâm một số vấn đề sau:

Một là, về chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng: Chuồng nuôi phải phù hợp với đối tượng, lứa tuổi vật nuôi, đảm bảo ấm nhưng vẫn phải đủ thông thoáng, sạch sẽ, mật độ nuôi hợp lý, đặc biệt chú ý chuồng úm gia súc, gia cầm non. Dùng bóng/chụp sưởi điện là tốt nhất; khi đốt sưởi bằng củi, trấu, mùn cưa, cần có ống dẫn khói lên cao, ra khỏi chuồng nuôi, không để khói vào chuồng nuôi sẽ ảnh hưởng sức khoẻ vật nuôi.

Thức ăn đầy đủ, đảm bảo chất lượng và số lượng. Đặc biệt gia súc ăn cỏ (trâu, bò, dê, ngựa). Thông thường, lượng thức ăn thô, xanh cần cho 1 gia súc bằng khoảng 10%, lượng thức ăn tinh bằng 1% khối lượng cơ thể, những gia súc chưa quen ăn thức ăn tinh thì cần cho gia súc ăn ít một, tăng dần đến 1% (trong khoảng 5-7 ngày).

Khi nhiệt độ xuống thấp hơn 1°C thì nhu cầu năng lượng tăng thêm 1 – 2%, tuỳ đối tượng vật nuôi, điều kiện thời tiết, có thể điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.

Đặc biệt, những ngày mưa và rét hoặc nhiệt độ dưới 12°C không nên chăn, thả gia súc, gia cầm (nhưng chuồng nuôi đảm bảo đủ diện tích cho vật nuôi vận động).

Hai là, công tác vệ sinh phòng bệnh: Tăng cường chăn nuôi an toàn sinh học, thực hiện nghiêm ngặt công tác cách ly, ngăn chặn các loại mầm từ bên ngoài xâm nhập vào cơ sở chăn nuôi và ngược lại. Cách ly và kiểm soát vật nuôi mới nhập về (Mua con giống từ cơ sở an toàn dịch bệnh, cách ly ít nhất 14 ngày).

Hạn chế khách tham quan, người vào khu chăn nuôi cần có quần áo, bảo hộ lao động đảm bảo vệ sinh dùng riêng trong khu chăn nuôi, đi từ khu sạch sang khu bẩn, hạn chế đi lại giữa các khu.

Kiểm soát phương tiện vận chuyển, trang thiết bị, dụng cụ chăn nuôi. Kiểm soát thức ăn, nước uống. Kiểm soát động vật khác, côn trùng: Ngăn các động vật khác (chó, mèo, chuột, chim, côn trùng…) vào chuồng nuôi.

Vệ sinh làm sạch chuồng nuôi, phương tiện vận chuyển, dụng cụ chăn nuôi là biện pháp rất hiệu quả trong việc thực hiện chăn nuôi an toàn, việc vệ sinh làm sạch giúp loại bỏ trên 80% mầm bệnh tại trại chăn nuôi.

Ngoài ra, khủ trùng là một trong 3 nguyên tắc quan trọng trong chăn nuôi an toàn sinh học, tuy nhiên hiệu quả của việc khử trùng tùy thuộc vào chất lượng của việc vệ sinh làm sạch trước đó. Mục đích khử trùng nhằm loại bỏ những mầm bệnh còn sót lại sau khi đã vệ sinh làm sạch chuồng trai, dụng cụ và thiết bị phục vụ chăn nuôi.

Ba là, Chủ động dùng vắc xin phòng bệnh theo lịch trình hoặc hướng dẫn của cơ quan thú y. Bổ sung vitamin, men tiêu hóa và các thuốc trợ sức, trợ lực định kỳ hoặc khi có yếu tố bất lợi để tăng sức kháng bệnh cho vật nuôi.

Thường xuyên quan sát đàn vật nuôi để sớm phát hiện, thải loại những vật nuôi ốm, yếu ra khỏi đàn và xử lý, điều trị nếu cần thiết…

Nguồn: An Lãng – Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ

Mở rộng làn xe xuất nhập khẩu ở Tân Thanh

Mở rộng làn xe xuất nhập khẩu ở Tân Thanh

Tỉnh Lạng Sơn sẽ hoàn thành việc lắp đặt hệ thống kiểm tra, kiểm soát để tuyến đường vận tải hàng hóa Tân Thanh – Pò Chài có quy mô 4 làn xe xuất nhập khẩu.

Ông Hoàng Khánh Duy, Phó Trưởng ban Kinh tế Cửa khẩu Đồng Đăng cho biết, trong thời gian tới, tỉnh Lạng Sơn xác định tiếp tục thực hiện hiệu quả phòng chống dịch tại các khu vực cửa khẩu.

Trong quý I/2022, tỉnh sẽ hoàn thành việc lắp đặt hệ thống kiểm tra, kiểm soát để đảm bảo tuyến đường chuyên dụng vận tải hàng hóa Tân Thanh (Việt Nam) – Pò Chài (Trung Quốc) được vận hành với quy mô 4 làn xe xuất nhập khẩu; sớm hoàn thành việc cải tạo, mở rộng tuyến đường xuất nhập khẩu hàng hóa qua cửa khẩu song phương Chi Ma thành 4 làn xe xuất nhập khẩu.

Về lâu dài, tỉnh Lạng Sơn xác định đẩy mạnh đầu tư, xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng và phát triển các dịch vụ, hoạt động sản xuất, kinh doanh tại khu vực cửa khẩu; nghiên cứu xây dựng cơ chế đặc thù, tạo điều kiện thu hút các thành phần kinh tế đầu tư vào các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch Khu kinh tế cửa khẩu.

Tỉnh cũng tiếp tục tổ chức hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với Quảng Tây (Trung Quốc) như đề nghị thống nhất xác nhận thời gian làm việc chính thức tại cặp cửa khẩu Chi Ma – Ái Điểm; bổ sung vào phụ lục về vị trí, loại hình, thời gian mở, thời gian làm việc của cửa khẩu biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc;

Thực hiện các thủ tục đưa tuyến đường chuyên dụng vận chuyển hàng hóa khu vực mốc 1088/2-1089 vào hoạt động chính thức và trở thành lối thông quan thuộc cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị (Việt Nam) – Hữu Nghị Quan (Trung Quốc); xây dựng cặp cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị (Việt Nam) – Hữu Nghị Quan (Trung Quốc) thành cửa khẩu kiểu mẫu.

Xác định “cửa khẩu số” có vai trò đầu tàu, thống nhất, dẫn kéo sự phát triển nhanh hơn cho mọi chủ thể tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, tạo thêm dư địa lớn hơn cho môi trường xuất nhập khẩu Lạng Sơn, do đó, tỉnh tiếp tục tập trung phát triển cửa khẩu số tại Cửa khẩu quốc tế Hữu nghị và Cửa khẩu Tân Thanh.

Từ đó tạo ra một nền tảng số ứng dụng cho các cửa khẩu trên địa bàn tỉnh nhằm tự động hóa quy trình, công khai minh bạch, giảm thiểu thời gian, tiết kiệm chi phí thực hiện thủ tục xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu cho người dân, doanh nghiệp.

Tỉnh bổ sung thêm chức năng chống vượt tuyến, xếp lốt để giám sát hoạt động xe chở hàng hóa xuất nhập khẩu khai báo sử dụng nền tảng cửa khẩu số khi đến cửa khẩu phải thực hiện theo đúng quy trình, tránh trường hợp tiêu cực, vượt tuyến, tạo sự công bằng, minh bạch trong hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh.

Đồng thời, bổ sung chức năng kiểm tra, kiểm soát, khai báo y tế đối với người và phương tiện chở hàng hóa xuất nhập khẩu tại các chốt kiểm dịch y tế liên ngành; thiết lập “cửa khẩu xanh” để bảo đảm thông quan hàng hóa cho cả nước; các doanh nghiệp bắt buộc phải khai báo 100% trên “cửa khẩu số” khi thực hiện thủ tục xuất nhập khẩu tại Hữu Nghị, Tân Thanh từ 21/2 tới.

Nguồn: Lãng Hồng (t/h) – Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ

Thủy sản vẫn là ‘điểm sáng’ của ngành nông nghiệp

Thủy sản vẫn là ‘điểm sáng’ của ngành nông nghiệp

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến cùng đoàn công tác đã có buổi kiểm tra thực tế tại khu vực Cảng cá Quỳnh Phương (thị xã Hoàng Mai, Nghệ An), đồng thời động viên ngư dân vững tin bám biển.

Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến khẳng định thể chế, hạ tầng, nhân lực chất lượng cao của ngành thủy sản còn lắm hạn chế. Bên cạnh sự tác động của dịch bệnh, thất thoát quá lớn sau khai thác thực sự là điều đáng tiếc. Công tác chế biến và chế biến sâu còn thô sơ, doanh nghiệp tham gia ít, quy mô nhỏ…

Tuy nhiên, rào cản đặt ra không hề nhỏ, tuy nhiên được sự quan tâm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ toàn ngành nông nghiệp nói chung, đặc biệt là thủy sản nói riêng đã tạo nên màn bứt phá ngoạn mục, các chỉ số về sản lượng khai thác (3,92 triệu tấn, tăng 0,9% so với năm 2020), nuôi trồng (4,81 triệu tấn, tăng 1%), xuất khẩu (8,89 tỷ USD)… đều rất ấn tượng, qua đó góp phần quan trọng vào quá trình phát triển KT-XH của cả nước, nhất là trong bối cảnh bị tác động nghiêm trọng do đại dịch Covid-19.

“Năm 2021 khép lại với những kết quả rất khả quan, đây là cũng năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, Bộ NN-PTNT đã chủ động phối hợp sát sao với các Bộ, ngành, các tỉnh và các đơn vị liên quan triển khai kế hoạch ngay từ ngày đầu, tuần đầu, tháng đầu.

Bộ NN-PTNT đánh giá rất cao sự nỗ lực của Nghệ An, tỉnh có mức tăng trưởng cao nhất, ổn định nhất trong năm 2021. Riêng về lĩnh vực thủy sản, thời gian qua luôn nhận được sự quan tâm của Tỉnh ủy, HĐND, UBND cấp tỉnh và các sở, ngành, qua đó tạo tiền đề bứt phá”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến trao quà, động viên ngư dân vùng biển Quỳnh Phương. Ảnh: Việt Khánh.

Về phía địa phương, ông Hoàng Nghĩa Hiếu, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An chia sẻ: “Năm qua vô cùng vất vả, dịch bệnh Covid-19 càn quét buộc 125.000 người lao động xa quê phải trở về, những ngày đầu áp lực đặt ra rất lớn. Tuy nhiên được sự quan tâm sau sát của Trung ương, của Chính phủ, tỉnh đã chủ động xây dựng kế hoạch ứng phó, từng bước nỗ lực tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đến nay cuộc sống của người dân cơ bản ổn định.

Trong bức tranh tổng quan chung nông nghiệp chính là điểm sáng, đóng góp quan trọng vào việc ổn định tình hình xã hội. Nông nghiệp tạo dấu ấn đậm nét, trong đó thủy sản chính là ngôi sao sáng của ngành”.

Nhìn nhận năm 2022, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến khẳng định còn nhiều khó khăn, thách thức, Bộ NN-PTNT sẽ cùng với các địa phương, bao gồm Nghệ An, một tỉnh trọng điểm về nông nghiệp nhập cuộc quyết liệt, triển khai phương án phù hợp nhằm ra sức thúc đẩy phát triển toàn diện, từ trồng trọt, lâm nghiệp, thủy sản cho đến chăn nuôi, nỗ lực giữ vững trọng trách lá cờ đầu và ngày càng có đóng góp quan trọng hơn cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn”.

Nguồn: Xuân Hiền (T/h) – Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ

Gạo Việt nhận được nhiều ưu đãi tại thị trường EU

Gạo Việt nhận được nhiều ưu đãi tại thị trường EU

Mặc dù, những ngày cuối năm 2021, giữa bộn bề khó khăn do tác động của dịch Covid-19, Công ty CP Tập đoàn Lộc Trời cũng hoàn thành lô gạo xuất khẩu cuối cùng của năm 2021 với số lượng 4.170 tấn, gồm gạo thơm và gạo trắng.

Gạo Việt Nam tỏa hương thơm ngát đất trời Châu Âu

Theo Cục Xuất nhập khẩu cho biết: “Điều này đã mở ra cơ hội để gạo Việt Nam có thể cạnh tranh với các nước khác khi xuất khẩu vào EU. Với nhu cầu ổn định, đặc biệt là ở mức cao đối với các loại gạo đặc sản từ châu Á, trong thời gian tới EU sẽ tiếp tục là thị trường xuất khẩu gạo nhiều tiềm năng cho các doanh nghiệp Việt Nam”.

Đồng thời, Thị trường xuất khẩu là châu Âu (EU) và được doanh nghiệp sử dụng tàu rời (bulk carrier) lần đầu tiên để vận chuyển nhằm tiết kiệm chi phí tại thời điểm phí vận chuyển bằng container đang rất cao do ảnh hưởng Covid-19.

Theo đó, năm 2021, Tập đoàn Lộc Trời đã xuất khẩu hơn 80.000 tấn gạo đến EU, Anh, châu Phi, Úc, khu vực Trung Đông và các nước láng giềng ở châu Á, đạt doanh thu hơn 1.000 tỷ đồng.

Cụ thể, Tổng cục Hải quan, xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường EU trong 11 tháng năm 2021 dù chưa ghi nhận sự gia tăng mạnh về khối lượng nhưng giá xuất khẩu và trị giá thu về đã tăng lên đáng kể với 53.910 tấn, trị giá 38,07 triệu USD, so với cùng kỳ năm 2020 tăng 0,8% về lượng nhưng trị giá thu về tăng tới 21,6%.

Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) đánh giá, kết quả này cho thấy các doanh nghiệp đã tận dụng hiệu quả một số lợi thế từ EVFTA để gia tăng giá trị xuất khẩu gạo sang EU, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, giá cước vận tải biển đi châu Âu tăng mạnh và nhập khẩu gạo của EU giảm trong năm nay.

Mặc dù EU hiện chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng xuất khẩu gạo của Việt Nam (chiếm 1% về lượng và 1,3% về kim ngạch) nhưng đây lại là thị trường tiềm năng về xuất khẩu các loại gạo có giá trị cao.

Trong 11 tháng năm 2021, lượng gạo thơm của Việt Nam xuất khẩu sang EU đạt 37.390 tấn, trị giá 26,82 triệu USD, tăng 9,3% về lượng và tăng 28,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020.

Trong đó, một số giống gạo đặc sản của Việt Nam như ST24, ST25 lần đầu tiên được xuất khẩu vào các thị trường trong khối EU. Tỷ trọng gạo thơm trong tổng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang EU cũng đã tăng lên 70% trong 11 tháng năm 2021 so với 64% của cùng kỳ năm 2020.

Theo số liệu của Cơ quan Thống kê châu Âu (Eurostat), nhập khẩu gạo của EU trong 9 tháng đầu năm 2021 đã giảm 10,9% về lượng và giảm 9,3% về trị giá so với cùng kỳ năm trước, xuống còn 2,63 triệu tấn, trị giá 2,1 tỷ USD.

Bên cạnh đó, trong số 10 nguồn cung gạo ngoại khối lớn cho EU trong 9 tháng năm 2021, giá xuất khẩu gạo của Việt Nam vào EU đạt mức tăng mạnh nhất, tăng 20,3%, đạt trung bình 781 USD/tấn.

Do đó, dù lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam sang EU giảm nhưng kim ngạch xuất khẩu thu về vẫn tăng 13,2%, đạt 34,03 triệu USD.

Cùng với 27 nước thành viên, dân số khoảng 516 triệu người, GDP mỗi người dân trên 35.000 USD/năm, thị trường EU có nhu cầu nhập khẩu số lượng lớn hàng hóa, nhất là nông sản (mỗi năm nhập khẩu hơn 160 tỷ USD) từ khắp nơi trên thế giới.

Đối với Việt Nam, đây là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của mặt hàng nông sản, với kim ngạch khoảng 5,5 tỷ USD/năm. Nhưng nông sản Việt mới chiếm 4% thị phần ngành hàng nhập khẩu này của EU, riêng gạo chỉ chiếm hơn 1% thị phần. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), năm 2022, xuất khẩu gạo của Việt Nam sang EU dự báo còn tăng khá.

Đặc biệt, chất lượng gạo Việt Nam được cải thiện, chủ yếu là các loại gạo thơm, đánh trúng được thị hiếu của người tiêu dùng châu Âu.

Việc tận dụng lợi thế EVFTA để xuất khẩu gạo thơm với thuế 0% nằm trong tay các doanh nghiệp có vùng nguyên liệu lớn, được canh tác theo tiêu chuẩn cao như Lộc Trời, Tân Long, Trung An…

Trong những năm qua, một trong những nguyên nhân cản trở đà tăng trưởng xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường EU là bởi thuế suất EU áp lên gạo nhập khẩu từ Việt Nam khá cao.

Đồng thời, Việt Nam chưa được EU dành hạn ngạch thuế quan nên rất khó cạnh tranh với gạo của các nước khác như Thái Lan, Mỹ, Australia, Ấn Độ, Pakistan được phân bổ lượng hạn ngạch thuế quan và các nước kém phát triển như Lào, Campuchia, Myanmar được miễn thuế và không bị áp dụng hạn ngạch.

Tuy nhiên, theo cam kết từ EVFTA, EU dành cho Việt Nam hạn ngạch 80.000 tấn gạo mỗi năm (gồm 30.000 tấn gạo xay xát, 20.000 tấn gạo chưa xay xát và 30.000 tấn gạo thơm).

Ngoài ra, EU sẽ tự do hóa hoàn toàn đối với gạo tấm (cam kết này giúp Việt Nam có thể xuất khẩu ước khoảng 100.000 tấn vào EU hàng năm). Đối với sản phẩm từ gạo, EU sẽ đưa thuế suất về 0% sau 3 – 5 năm.

Điều mà Cục Xuất nhập khẩu lo ngại là dịch bệnh và giá cước vận tải biển tăng cao có thể kìm hãm tăng trưởng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang EU trong năm 2022.

Nguồn: Xuân Hiền – Tạp chí Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam

Xuất khẩu rau quả đón tin vui đầu năm

Xuất khẩu rau quả đón tin vui đầu năm

 

Nhiều xe nông sản ở cửa khẩu với Trung Quốc đã được thông quan sớm hơn dự kiến giúp ngành rau quả tự tin với mục tiêu xuất khẩu 4 tỉ USD.

Ngày 5-2, tức mùng 5 Tết, thông tin từ Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho hay nhiều xe container chở chuối, thanh long,… đã được xuất khẩu sang Trung Quốc từ mùng 3 Tết. Đây là tin vui cho ngành rau quả Việt Nam bởi trước đó phía Trung Quốc thông báo sẽ nghỉ Tết dài ngày, khiến giao thương ách tắc.

Trung Quốc là thị trường lớn nhất của ngành rau quả Việt Nam, chiếm đến 53,7% thị phần trong năm 2021, tương đương hơn 1,9 tỉ USD giá trị. Từ năm 2019 kể về trước, Trung Quốc từng chiếm hơn 70% thị phần rau quả xuất khẩu của Việt Nam.

Sơ chế chuối xuất khẩu đầu năm 2022 – Ảnh: NGỌC ÁNH

Theo ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, thông lệ hằng năm vào mùa Xuân, giá trái cây sẽ ở mức cao do Trung Quốc vẫn còn mùa lạnh, hàng nội địa ít nên cần nhập khẩu trái cây số lượng lớn. Thống kê sơ bộ tháng 1-2022, xuất khẩu rau quả của Việt Nam đạt gần 301 triệu USD tăng 0,3% với tháng 12-2021, tháng cao điểm xuất khẩu của năm. 

Ông Nguyễn Thanh Bình, Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam, nhấn mạnh Trung Quốc là thị trường truyền thống của ngành. Rau quả Việt Nam xuất sang Trung Quốc có lợi thế là thị trường gần nhưng 2 năm nay giá trị xuất khẩu lại giảm. Do đó, các doanh nghiệp cần quan tâm hơn đến thị trường này để tránh bị mất thị phần vào Thái Lan, Lào, Campuchia, Malaysia,… bằng cách nghiên cứu sâu hơn về thị trường Trung Quốc để có giải pháp thích ứng phù hợp. Đồng thời, cần đẩy mạnh xuất khẩu chính ngạch, nâng cao năng lực để đáp ứng các quy định mới về nhập khẩu nông sản thực phẩm của họ.

Cũng theo Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam, năm 2021 dù rất nhiều khó khăn nhưng ngành rau quả đã đạt giá trị xuất khẩu 3,551 tỉ USD, tăng 8,6% so với cùng kỳ 2020 cho thấy sự nỗ lực rất lớn của toàn ngành. Do đó, năm nay, nếu tốc độ tăng trưởng xuất khẩu được giữ vững thì mục tiêu xuất khẩu 3,8-4 tỉ USD có thể thành hiện thực.

Nguồn: NGỌC ÁNH (NLĐ) – Tạp chí Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam

Thực hành nông nghiệp thông minh giúp nâng cao hiệu quả sản xuất 15-20%

Thực hành nông nghiệp thông minh giúp nâng cao hiệu quả sản xuất 15-20%

Ngày 20/12, Bộ NN&PTNT tổ chức Hội thảo trực tuyến tổng kết hợp phần 3 (Hỗ trợ thực hành nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu) thuộc Dự án Cải thiện nông nghiệp có tưới (WB7).

Hội thảo trực tuyến tổng kết hợp phần 3 Dự án WB7. Ảnh VGP/Đỗ Hương

Dự án WB7 gồm 4 hợp phần: Hỗ trợ cải thiện quản lý tưới; Nâng cấp cơ sở hạ tầng hệ thống tưới; Hỗ trợ thực hành nông nghiệp thông minh thích ứng biến đổi khí hậu và Quản lý dự án và giám sát, đánh giá, đào tạo.

Tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Quốc Doanh cho biết, trong bối cảnh chịu nhiều rủi ro, tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và dịch bệnh, ngành nông nghiệp vẫn luôn phải đảm bảo các mục tiêu quốc gia liên quan đến an ninh lương thực, tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo và ổn định xã hội. Để thực hiện các mục tiêu này, Bộ NN&PTNT đã đề xuất Dự án WB7 và được Ngân hàng Thế giới hỗ trợ với tổng kinh phí là 210 triệu USD, trong đó có 180 triệu là vốn vay ODA và 30 triệu là vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam.

Triển khai từ năm 2014, Dự án WB7 góp phần cải thiện dịch vụ tưới, tiêu cho hơn 93.000 ha canh tác thuộc 7 tỉnh, thành phố (Hà Giang, Phú Thọ, Hòa Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Trị và Quảng Nam). Số người được hưởng lợi trực tiếp từ Dự án là hơn 245.000 hộ nông dân. Hệ thống các công trình thủy lợi của 7 tỉnh đã được nâng cấp và đáp ứng các công nghệ mới nhất.

Dự án cũng đã xây dựng 49 mô hình thực hành nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu, gồm: 14 mô hình chuyên canh lúa và lúa – màu; 12 mô hình sản xuất rau – màu; 5 mô hình trồng chuyên rau; 12 mô hình trồng cây ăn quả; 3 mô hình cây công nghiệp dài ngày (chè và hồ tiêu); hỗ trợ 3 trung tâm giống cây trồng.

Cây trồng canh tác tại 49 mô hình thực hành là các giống cây trồng chủ lực, có giá trị về an ninh lương thực và hàng hóa đặc hữu tại từng địa phương như lúa, các loại rau màu, cây ăn quả và cây lâu năm khác.

Cùng với sự đồng thuận tham gia của người dân, Dự án đã giúp nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất từ 15% đến 20% so với phương thức canh tác truyền thống, qua đó thu nhập của các hộ nông dân đã được cải thiện rõ rệt.

Những kết quả đạt được của dự án đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công Đề án Tái cơ cấu nông nghiệp cũng như Chiến lược Phát triển thủy lợi đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050.

“Bộ NN-PTNT đánh giá cao những nỗ lực của các cơ quan chuyên môn, Ban Quản lý Dự án các cấp và chính quyền địa phương của 7 tỉnh, vùng Dự án đã tích cực phối hợp với nhà tài trợ thực hiện thành công Dự án trong thời gian qua”, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh đánh giá.

Thứ trưởng Lê Quốc Doanh cũng nhấn mạnh, thông qua việc đánh giá toàn bộ kết quả Dự án, đặc biệt đánh giá những bài học kinh nghiệm, Bộ NN-PTNT sẽ cùng với các nhà tài trợ xây dựng các dự án nhân rộng gói kỹ thuật nông nghiệp thông minh. Đây cũng là sự mong đợi của nông dân các địa phương cũng như mong muốn của Bộ NN-PTNT cũng như các nhà tài trợ trong thời gian tới.  

Nguồn: V.A (tổng hợp) – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Ngành nông nghiệp cần thay đổi để thích ứng với biến đổi khí hậu

Ngành nông nghiệp cần thay đổi để thích ứng với biến đổi khí hậu

Trong năm 2021, thiên tai không dồn dập, khốc liệt như năm 2020 nhưng cũng đã xảy ra 18/22 loại hình thiên tai với 9 cơn bão, 3 áp thấp nhiệt đới trên biển Đông; 326 trận dông, lốc, mưa lớn; 139 trận động đất; 170 trận lũ, lũ quét, sạt lở đất.

Đồng thời, dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp và kéo dài từ cuối năm 2019, nhiều địa phương phải thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16. Dịch bệnh đã tác động đến hầu hết các hoạt động kinh tế xã hội, trong đó ảnh hưởng lớn đến công tác phòng, chống thiên tai.

Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp rất dễ bị tổn thương trước thiên tai. Hàng năm thiên tai đều gây ảnh hưởng, thiệt hại lớn trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên thiệt hại đó cũng một phần đến từ việc lập kế hoạch chưa tốt, chưa có phương án phòng chống, thích ứng với thiên tai.

Thiên tai ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp. Ảnh Minh Họa 

Cũng theo báo cáo của các địa phương, thiên tai năm 2021 đã làm 108 người chết, mất tích, trên 306 nhà bị sập đổ; gần 9.000 nhà bị hư hỏng, tốc mái. Tổng thiệt hại kinh tế ước tính trên 5.200 tỷ đồng, trong đó lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn bị thiệt hại nặng nề.

Cụ thể, diện tích sản xuất lúa bị ảnh hưởng là trên 94.000 ha, trong đó khoảng 2.648 ha bị thiệt hại trên 70%. Diện tích cây rau màu khác bị ảnh hưởng khoảng là 40.000 ha, trong đó diện tích bị thiệt hại trên 70% khoảng 7.800 ha. Diện tích cây công nghiệp, cây ăn quả bị ảnh hưởng khoảng là 12.500 ha, trong đó có khoảng 200 ha bị thiệt hại trên 70%.

Thiên tai đã làm thiệt hại trên 1.280 ha rừng. Hơn 94.000 tàu thuyền đánh bắt cá trên biển thường xuyên bị ảnh hưởng bởi gió bão, gió mạnh. Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản bị ảnh hưởng và thiệt hại là 3.670ha, trong đó trên 1.300 ha bị thiệt hại hoàn toàn; 130 tàu thuyền bị hư hại.

Cũng do ảnh hưởng của thiên tai làm hơn 6.962 con gia súc và 368.000 con gia cầm bị chết, cuốn trôi. Khoảng 10,4 km đê cấp IV trở xuống bị sự cố; 11,4km kè bị hư hỏng; 67 km bờ sông, bờ biển bị thiệt hại; 271 km kênh mương bị sạt, trôi, bồi lấp; 12 trạm bơm, 101 cống và 75 công trình thủy lợi khác bị hư hỏng; 174 hồ chứa nhỏ bị thiệt hại; 6 công trình cấp nước bị hư hại.

Trước tình hình nền kinh tế nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng bị ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai, trong năm 2021, Tổng cục Phòng, chống thiên tai đã phối hợp cùng các đơn vị và các địa phương rà soát, thống kê đầy đủ thiệt hại, hỗ trợ kịp thời cho người dân theo quy định tại Nghị định số 02 của Chính phủ.

Ngoài ra, các đơn vị cũng đã hỗ trợ 97.000 liều vacxin phòng Covid-19, 87.000 lít và 113 tấn hóa chất phòng, chống dịch với tổng giá trị 23,387 tỷ đồng cho 8 tỉnh (Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình, TT.Huế, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Gia Lai).

Đồng thời hỗ trợ 110 tấn giống lúa cho tỉnh Phú Yên và đang lấy ý kiến Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư về hỗ trợ 100 tấn giống lúa, 30 tấn giống Ngô cho Quảng Trị trước khi trình Thủ tướng Chính phủ.

Cùng với đó, hướng dẫn người dân khôi phục sản xuất, vệ sinh môi trường, chuẩn bị ao đầm, chuồng trại, khôi phục sản xuất. Khắc phục khẩn cấp các công trình đê điều, chống sạt lở bị thiệt hại do bão, mưa lũ. Khôi phục công trình thủy lợi nội đồng bị hư hỏng, bảo đảm việc phân phối, tưới nước mặt ruộng. Tổ chức nạo vét khẩn cấp các cửa lấy nước, hệ thống kênh mương bị bồi lấp.

Về lâu dài, để có thể sản xuất nông nghiệp thích ứng với thiên tai, giảm thiểu thiệt hại hàng năm do thiên tai gây ra, Ban Chỉ đạo quốc gia về Phòng, chống thiên tai cũng như các Bộ ngành, địa phương cần nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu sản xuất, giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao phù hợp với điều kiện tự nhiên và đặc điểm thiên tai từng vùng, miền, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Theo đó, đầu tư củng cố, nâng cấp, hoàn thiện hệ thống đê điều, hồ đập bảo đảm chủ động phòng, chống lũ, bão theo mức thiết kế. Bổ sung, nâng cấp hệ thống trữ nước, tiêu thoát nước, phòng chống ngập úng; công trình kiểm soát nguồn nước phòng chống hạn hán, xâm nhập mặn. Xây dựng, củng cố công trình phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển.

Tiếp tục xây dựng, nâng cấp khu neo đậu tàu, thuyền tránh trú bão theo quy hoạch được phê duyệt, gắn kết với dịch vụ hậu cần, thông tin nghề cá, bao gồm cả các khu vực hải đảo. Xây dựng quy hoạch phòng chống thiên tai và thủy lợi gắn với quy hoạch sử dụng đất và phù hợp với phát triển kinh tế, xã hội, diễn biến thiên tai, sử dụng nước thượng nguồn, biến đổi khí hậu, nước biển dâng.

Nguồn: Xuân Hiền (T/h) – Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ

Phát triển thương mại gắn với đa dạng sinh học có thể hỗ trợ phục hồi COVID-19 như thế nào?

Không cảnh rừng nhiệt đới đang bị xóa bỏ để trồng dầu cọ và cao su / © whitcomberd

Một kêu gọi hành động mới nhằm giúp các quốc gia biến BioTrade trở thành đòn bẩy giúp phục hồi và thích ứng trước đại dịch.

Đầu tiên, Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu dành riêng cho đa dạng sinh học được tổ chức vào ngày 30 tháng 9, lãnh đạo các quốc gia khác nhau cho biết đại dịch COVID-19 là cơ hội để các quốc gia đặt các kế hoạch hành động đầy tham vọng vào trọng tâm của các chiến lược phục hồi kinh tế hậu Corona.

Một trong những công cụ được các quốc gia sử dụng là Thương mại sinh học (BioTrade) – khái niệm về thu hái, sản xuất, chuyển đổi và thương mại hóa hàng hóa và dịch vụ có nguồn gốc từ đa dạng sinh học theo các Nguyên tắc và Tiêu chí của BioTrade , một bộ hướng dẫn nhấn mạnh tính bền vững về môi trường, xã hội và kinh tế.

Các thành viên của Ban chỉ đạo về BioTrade của UNCTAD đã đưa ra lời kêu gọi hành động hướng tới các quốc gia nhằm xúc tiến BioTrade để phục hồi kinh tế tốt hơn sau đại dịch, bởi việc bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học có thể tạo ra việc làm và tăng trưởng kinh tế đồng thời bảo vệ môi trường toàn cầu.

“Liên kết thương mại, đa dạng sinh học và phát triển bền vững là một con đường bắt buộc hướng tới nâng cao khả năng phục hồi  và thích ứng của cộng đồng, khu vực tư nhân và cuối cùng là cấp quốc gia trong các nỗ lực phục hồi sau COVID-19”, Lorena Jaramillo, quan chức kinh tế của UNCTAD cho biết.

BioTrade để phục hồi và thích ứng

Sáng kiến Thương mại Sinh học của UNCTAD là một trong những biện pháp thúc đẩy thương mại hợp pháp, bền vững và truy xuất nguồn gốc đối với hàng hóa và dịch vụ dựa trên đa dạng sinh học phù hợp với các mục tiêu của Công ước về Đa dạng sinh học (CBD) và Công ước về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES).

Các đối tác của BioTrade và các tác nhân khác đã kêu gọi các quốc gia thúc đẩy mối quan hệ cân bằng giữa các chính sách phục hồi kinh tế sau COVID-19 và các khía cạnh khác nhau của phát triển bền vững.

“Chúng tôi kêu gọi điều này được thực hiện thông qua bảo tồn, tái sinh, sử dụng bền vững đa dạng sinh học và xây dựng các lợi ích kinh tế xã hội và sinh kế, đặc biệt là ở các cộng đồng nông thôn” trích dẫn một phần tuyên bố chung của họ.

Theo các bên ký kết, điều này sẽ góp phần xây dựng một tương lai tốt đẹp, lành mạnh và bền vững hơn cho tất cả mọi người: quốc gia, doanh nghiệp, cộng đồng và người dân.

Các bên nhấn mạnh rằng việc sử dụng bền vững đa dạng sinh học và buôn bán các sản phẩm và dịch vụ có nguồn gốc từ đó có mối liên hệ chặt chẽ với việc xây dựng sinh kế bền vững.

“Đa dạng sinh học là nguồn an ninh lương thực chính và thu nhập hộ gia đình, đảm bảo sinh kế của người bản địa và cộng đồng nông thôn. Đây cũng là trung tâm của các công ty dựa trên đa dạng sinh học”.

Tránh các đại dịch trong tương lai, tăng cường hành động

Tuyên bố lưu ý rằng “thương mại các sản phẩm và dịch vụ có nguồn gốc thân thiện với đa dạng sinh học là một yếu tố cần thiết để giảm nguy cơ xuất hiện và lây lan của bệnh cúm động vật và do đó là nguy cơ đại dịch trong tương lai ở thế giới hậu COVID-19”.

Tuyên bố kêu gọi các quốc gia tăng cường các hành động để đạt được các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc , các mục tiêu của khuôn khổ đa dạng sinh học toàn cầu sau năm 2020 và Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu.

Các quốc gia nên thúc đẩy thương mại bền vững các sản phẩm và dịch vụ dựa trên đa dạng sinh học theo các chương trình chia sẻ lợi ích công bằng và bình đẳng, theo tuyên bố.

Các thành viên nêu rõ rằng các biện pháp khuyến khích kinh tế đối với bảo tồn, phục hồi và sử dụng bền vững đa dạng sinh học, chẳng hạn như BioTrade, có vai trò quan trọng trong giai đoạn phục hồi sau COVID-19.

Các sáng kiến như vậy có thể trực tiếp góp phần hạn chế và ngăn chặn mất đa dạng sinh học, phá rừng và chuyển đổi môi trường sống, các hoạt động gây ô nhiễm và buôn bán trái phép động vật hoang dã, họ nói.

Các thành viên tái khẳng định rằng các Nguyên tắc và Tiêu chí Thương mại Sinh học năm 2020 của UNCTAD cũng như các công cụ và tiêu chuẩn liên quan có thể giúp các quốc gia phát triển các ngành và doanh nghiệp bền vững dựa trên đa dạng sinh học, đồng thời chuyển hướng sang phát triển kinh tế địa phương thông qua thương mại bền vững.

Nguồn: UNCTAD

Giá tiêu xuất khẩu năm 2022 được dự báo sẽ tiếp tục giữ ở mức cao

Giá tiêu xuất khẩu năm 2022 được dự báo sẽ tiếp tục giữ ở mức cao

Theo thông tin từ Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), trong năm 2021, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam ước đạt 261 nghìn tấn, trị giá 938 triệu USD, giảm 8,5% về lượng, nhưng tăng 42% về trị giá so với năm 2020. Tính chung cả năm 2021, giá xuất khẩu bình quân hạt tiêu của Việt Nam ước đạt 3.593 USD/tấn, tăng 55,2% so với cùng kỳ năm 2020.

Tín hiệu vui mừng cho người trồng tiêu

Theo đó, trong năm 2021 vừa qua, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam có sự chuyển dịch về cơ cấu thị trường. Tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng sang các thị trường Hoa Kỳ, EU, Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất, Pakistan tăng, trong khi tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, ASEAN giảm.

Đặc biệt, trong 11 tháng năm 2021, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam sang nhiều thị trường tăng cả về lượng và trị giá, gồm: Hoa Kỳ, Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất, Đức, Pakistan, Hà Lan, Hàn Quốc, Anh. Đáng chú ý, lượng hạt tiêu xuất khẩu sang thị trường Hà Lan tăng tới 52,7%, đạt 3,17 nghìn tấn.

Bên cạnh đó, nhiều thị trường tăng mua hạt tiêu trắng của nước ta như Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ, Tây Ban Nha. Đưa tổng sản lượng xuất khẩu hạt tiêu trắng 11 tháng năm 2021 đạt 21,2 nghìn tấn, trị giá 106,23 triệu USD, tăng 2,3% về lượng và tăng 58,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020.

Xuất khẩu hạt tiêu năm 2021 ước đạt 938 triệu USD

Số liệu thống kê từ Cơ quan Hải quan Trung Quốc cho biết, kim ngạch nhập khẩu hạt tiêu của nước này trong tháng 10/2021 đạt 4,79 triệu USD, giảm 1,3% so với tháng 10/2020. Mặc dù Trung Quốc giảm mua tiêu từ Indonesia và Malaysia giảm, nhưng tăng mua từ Việt Nam, Brazil và Ấn Độ.

Được biết, trong 10 tháng năm 2021, Trung Quốc chi 14,54 triệu USD thu mua hạt tiêu từ Việt Nam, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2020. Thị phần hạt tiêu của Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Trung Quốc tăng từ 25,85% trong 10 tháng năm 2020, lên 31,76% trong 10 tháng năm 2021.

Tín hiệu đáng mừng đối với ngành tiêu, đó là những năm gần đây cơ cấu chủng loại hạt tiêu xuất khẩu có sự thay đổi khá lớn.

Các doanh nghiệp đã giảm xuất khẩu hạt tiêu thô, thay vào đó là đẩy mạnh bán các chủng loại đã qua sơ chế hoặc chế biến chuyên sâu; đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm nhằm phục vụ cho ngành sản xuất mỹ phẩm…

Bước sang năm 2022 này, Cục Xuất nhập khẩu dự báo, giá tiêu xuất khẩu sẽ tiếp tục giữ ở mức cao. Ngành hạt tiêu tiếp tục khai thác các thị trường xuất khẩu truyền thống như Hoa Kỳ, EU, Các tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất.

Tại Hoa Kỳ, thị trường xuất khẩu hạt tiêu lớn nhất của Việt Nam, tình hình kinh tế có tín hiệu phục hồi sẽ kéo theo nhu cầu tiêu thụ hạt tiêu tăng.

Trong khi đó, hạt tiêu của Việt Nam đã tạo được chỗ đứng khá vững chắc tại thị trường Hoa Kỳ. Lợi thế cạnh tranh mặt hàng hạt tiêu của Việt Nam so với các thị trường xuất khẩu khác khá lớn.

Không ngừng nâng cao chất lượng, giữ vững thương hiệu, mở rộng thị trường

Nhận định về cơ cấu chuyển dịch của hạt tiêu Việt Nam, Cục Xuất nhập khẩu cho rằng, năm 2021, hạt tiêu của Việt Nam có sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu. Dẫn số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong nửa đầu năm 2021, xuất khẩu hạt tiêu đen và hạt tiêu trắng giảm về lượng, nhưng tăng mạnh về trị giá, trong khi xuất khẩu hạt tiêu đen xay và hạt tiêu trắng xay tăng mạnh cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2020.

Việc thay đổi tư duy, trồng tiêu theo hướng hữu cơ, chủ động tìm đầu ra cho sản phẩm đã giúp hạt tiêu của Việt Nam chinh phục được thị trường trong và ngoài nước với giá thành cao hơn.

Tuy nhiên, cơ quan này cũng dự báo, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam sẽ đối mặt với khó khăn trong những tháng cuối năm. Xuất khẩu hạt tiêu sang các thị trường chính có xu hướng chậm lại hoặc giảm mạnh. Hiện, lượng hạt tiêu còn lại trong dân không nhiều, trong khi doanh nghiệp xuất khẩu cũng không mấy “mặn mà” do giá cước phí vận chuyển tăng “phi mã” và các biện pháp phòng chống dịch bệnh tại nhiều địa phương rất nghiêm ngặt.

“Xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam trong 1-2 tháng tới có nhiều hạn chế do ảnh hưởng của dịch COVID-19, trong khi tình trạng ùn ứ tại các cảng biển phía nam cùng giá cước tàu biển vẫn duy trì ở mức cao sẽ là trở ngại đối với xuất khẩu hạt tiêu. Giá hạt tiêu cũng được nhận định khó có thể tăng mạnh do nguồn cung cải thiện khi Indonesia, Malaysia và Brazil bước vào vụ thu hoạch trong tháng 8 và tháng 9”, đại diện Cục Xuất nhập khẩu nhận định.

Do đó, để có ưu thế cạnh tranh trên thị trường gia vị và hương liệu trên thế giới, sau khi Việt Nam kiểm soát được dịch bệnh, các địa phương và doanh nghiệp cần có kế hoạch khôi phục sản xuất, ứng dụng các công nghệ tiên tiến phục vụ chế biến, phát triển đa dạng loại hình sản phẩm, tận dụng ưu đãi từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã tham gia gần đây để thúc đẩy xuất khẩu. 

Bộ NNPTNT kiểm tra tình hình trồng tiêu ở tỉnh Đắk Nông.

Về phía các Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài, ông Bùi Trung Thướng, Tham tán Thương mại Việt Nam tại Ấn Độ cho biết, sản lượng gia vị của Ấn Độ đạt khoảng 3 triệu tấn mỗi năm. Gia vị cũng là sản phẩm xuất khẩu tỷ đô của nước này. Ấn Độ cũng nhập khẩu nhiều gia vị, trong đó có hồ tiêu. Ấn Độ nhập khẩu hạt tiêu từ Việt Nam khoảng 25-30 triệu USD/năm.

Do đó, để gia vị, hương liệu của Việt Nam xuất khẩu thành công sang Ấn Độ, ông Bùi Trung Thướng khuyến nghị, các doanh nghiệp cần áp dụng khoa học công nghệ hoặc nghiên cứu phát triển sản phẩm, ví dụ nhiều loại nguyên liệu gia vị trộn thành 1 loại gia vị với hương vị đặc trưng. Đồng thời, doanh nghiệp cũng cần tìm hiểu hương vị của các nước để làm ra sản phẩm đáp ứng được thị hiếu của thị trường này, tạo sự cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các nước khác…

Phụ trách Thương vụ Việt Nam tại Saudi Arabia lưu ý thêm cho các doanh nghiệp, vật liệu đóng gói chính cho các loại thảo mộc, gia vị và gia vị ở Saudi Arabia nên là thủy tinh, bao bì linh hoạt, giấy và bìa, nhựa cứng và các loại khác. Các thùng đóng gói có nhiều loại khác nhau như lọ, chai, túi, gói, bồn, hộp, túi và ống.

Đối với thị trường châu Âu, ông Phạm Văn Hiển, Giám đốc Công ty LTP Import Export B.V Hà Lan chia sẻ, để gia vị Việt thâm nhập vào thị trường châu Âu, các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ thị trường khối này. Nếu các công ty chưa có phòng nghiên cứu thị trường thì có thể tham gia hội chợ như Anuga của Đức để quảng bá sản phẩm, tham khảo thông tin trên trang website của các hiệp hội, ngành nghề châu Âu.

Nguồn: Xuân Hiền – Tạp chí Nông nghiệp Hữu cơ

Copyrights © 2019 VITAD-AGRI All Rights Reserved.

X