Author Archives: Vitad Agri

Thủy sản vẫn là ‘điểm sáng’ của ngành nông nghiệp

Thủy sản vẫn là ‘điểm sáng’ của ngành nông nghiệp

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến cùng đoàn công tác đã có buổi kiểm tra thực tế tại khu vực Cảng cá Quỳnh Phương (thị xã Hoàng Mai, Nghệ An), đồng thời động viên ngư dân vững tin bám biển.

Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến khẳng định thể chế, hạ tầng, nhân lực chất lượng cao của ngành thủy sản còn lắm hạn chế. Bên cạnh sự tác động của dịch bệnh, thất thoát quá lớn sau khai thác thực sự là điều đáng tiếc. Công tác chế biến và chế biến sâu còn thô sơ, doanh nghiệp tham gia ít, quy mô nhỏ…

Tuy nhiên, rào cản đặt ra không hề nhỏ, tuy nhiên được sự quan tâm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ toàn ngành nông nghiệp nói chung, đặc biệt là thủy sản nói riêng đã tạo nên màn bứt phá ngoạn mục, các chỉ số về sản lượng khai thác (3,92 triệu tấn, tăng 0,9% so với năm 2020), nuôi trồng (4,81 triệu tấn, tăng 1%), xuất khẩu (8,89 tỷ USD)… đều rất ấn tượng, qua đó góp phần quan trọng vào quá trình phát triển KT-XH của cả nước, nhất là trong bối cảnh bị tác động nghiêm trọng do đại dịch Covid-19.

“Năm 2021 khép lại với những kết quả rất khả quan, đây là cũng năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, Bộ NN-PTNT đã chủ động phối hợp sát sao với các Bộ, ngành, các tỉnh và các đơn vị liên quan triển khai kế hoạch ngay từ ngày đầu, tuần đầu, tháng đầu.

Bộ NN-PTNT đánh giá rất cao sự nỗ lực của Nghệ An, tỉnh có mức tăng trưởng cao nhất, ổn định nhất trong năm 2021. Riêng về lĩnh vực thủy sản, thời gian qua luôn nhận được sự quan tâm của Tỉnh ủy, HĐND, UBND cấp tỉnh và các sở, ngành, qua đó tạo tiền đề bứt phá”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến trao quà, động viên ngư dân vùng biển Quỳnh Phương. Ảnh: Việt Khánh.

Về phía địa phương, ông Hoàng Nghĩa Hiếu, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An chia sẻ: “Năm qua vô cùng vất vả, dịch bệnh Covid-19 càn quét buộc 125.000 người lao động xa quê phải trở về, những ngày đầu áp lực đặt ra rất lớn. Tuy nhiên được sự quan tâm sau sát của Trung ương, của Chính phủ, tỉnh đã chủ động xây dựng kế hoạch ứng phó, từng bước nỗ lực tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đến nay cuộc sống của người dân cơ bản ổn định.

Trong bức tranh tổng quan chung nông nghiệp chính là điểm sáng, đóng góp quan trọng vào việc ổn định tình hình xã hội. Nông nghiệp tạo dấu ấn đậm nét, trong đó thủy sản chính là ngôi sao sáng của ngành”.

Nhìn nhận năm 2022, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến khẳng định còn nhiều khó khăn, thách thức, Bộ NN-PTNT sẽ cùng với các địa phương, bao gồm Nghệ An, một tỉnh trọng điểm về nông nghiệp nhập cuộc quyết liệt, triển khai phương án phù hợp nhằm ra sức thúc đẩy phát triển toàn diện, từ trồng trọt, lâm nghiệp, thủy sản cho đến chăn nuôi, nỗ lực giữ vững trọng trách lá cờ đầu và ngày càng có đóng góp quan trọng hơn cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn”.

Nguồn: Xuân Hiền (T/h) – Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ

Gạo Việt nhận được nhiều ưu đãi tại thị trường EU

Gạo Việt nhận được nhiều ưu đãi tại thị trường EU

Mặc dù, những ngày cuối năm 2021, giữa bộn bề khó khăn do tác động của dịch Covid-19, Công ty CP Tập đoàn Lộc Trời cũng hoàn thành lô gạo xuất khẩu cuối cùng của năm 2021 với số lượng 4.170 tấn, gồm gạo thơm và gạo trắng.

Gạo Việt Nam tỏa hương thơm ngát đất trời Châu Âu

Theo Cục Xuất nhập khẩu cho biết: “Điều này đã mở ra cơ hội để gạo Việt Nam có thể cạnh tranh với các nước khác khi xuất khẩu vào EU. Với nhu cầu ổn định, đặc biệt là ở mức cao đối với các loại gạo đặc sản từ châu Á, trong thời gian tới EU sẽ tiếp tục là thị trường xuất khẩu gạo nhiều tiềm năng cho các doanh nghiệp Việt Nam”.

Đồng thời, Thị trường xuất khẩu là châu Âu (EU) và được doanh nghiệp sử dụng tàu rời (bulk carrier) lần đầu tiên để vận chuyển nhằm tiết kiệm chi phí tại thời điểm phí vận chuyển bằng container đang rất cao do ảnh hưởng Covid-19.

Theo đó, năm 2021, Tập đoàn Lộc Trời đã xuất khẩu hơn 80.000 tấn gạo đến EU, Anh, châu Phi, Úc, khu vực Trung Đông và các nước láng giềng ở châu Á, đạt doanh thu hơn 1.000 tỷ đồng.

Cụ thể, Tổng cục Hải quan, xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường EU trong 11 tháng năm 2021 dù chưa ghi nhận sự gia tăng mạnh về khối lượng nhưng giá xuất khẩu và trị giá thu về đã tăng lên đáng kể với 53.910 tấn, trị giá 38,07 triệu USD, so với cùng kỳ năm 2020 tăng 0,8% về lượng nhưng trị giá thu về tăng tới 21,6%.

Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) đánh giá, kết quả này cho thấy các doanh nghiệp đã tận dụng hiệu quả một số lợi thế từ EVFTA để gia tăng giá trị xuất khẩu gạo sang EU, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, giá cước vận tải biển đi châu Âu tăng mạnh và nhập khẩu gạo của EU giảm trong năm nay.

Mặc dù EU hiện chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng xuất khẩu gạo của Việt Nam (chiếm 1% về lượng và 1,3% về kim ngạch) nhưng đây lại là thị trường tiềm năng về xuất khẩu các loại gạo có giá trị cao.

Trong 11 tháng năm 2021, lượng gạo thơm của Việt Nam xuất khẩu sang EU đạt 37.390 tấn, trị giá 26,82 triệu USD, tăng 9,3% về lượng và tăng 28,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020.

Trong đó, một số giống gạo đặc sản của Việt Nam như ST24, ST25 lần đầu tiên được xuất khẩu vào các thị trường trong khối EU. Tỷ trọng gạo thơm trong tổng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang EU cũng đã tăng lên 70% trong 11 tháng năm 2021 so với 64% của cùng kỳ năm 2020.

Theo số liệu của Cơ quan Thống kê châu Âu (Eurostat), nhập khẩu gạo của EU trong 9 tháng đầu năm 2021 đã giảm 10,9% về lượng và giảm 9,3% về trị giá so với cùng kỳ năm trước, xuống còn 2,63 triệu tấn, trị giá 2,1 tỷ USD.

Bên cạnh đó, trong số 10 nguồn cung gạo ngoại khối lớn cho EU trong 9 tháng năm 2021, giá xuất khẩu gạo của Việt Nam vào EU đạt mức tăng mạnh nhất, tăng 20,3%, đạt trung bình 781 USD/tấn.

Do đó, dù lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam sang EU giảm nhưng kim ngạch xuất khẩu thu về vẫn tăng 13,2%, đạt 34,03 triệu USD.

Cùng với 27 nước thành viên, dân số khoảng 516 triệu người, GDP mỗi người dân trên 35.000 USD/năm, thị trường EU có nhu cầu nhập khẩu số lượng lớn hàng hóa, nhất là nông sản (mỗi năm nhập khẩu hơn 160 tỷ USD) từ khắp nơi trên thế giới.

Đối với Việt Nam, đây là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của mặt hàng nông sản, với kim ngạch khoảng 5,5 tỷ USD/năm. Nhưng nông sản Việt mới chiếm 4% thị phần ngành hàng nhập khẩu này của EU, riêng gạo chỉ chiếm hơn 1% thị phần. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), năm 2022, xuất khẩu gạo của Việt Nam sang EU dự báo còn tăng khá.

Đặc biệt, chất lượng gạo Việt Nam được cải thiện, chủ yếu là các loại gạo thơm, đánh trúng được thị hiếu của người tiêu dùng châu Âu.

Việc tận dụng lợi thế EVFTA để xuất khẩu gạo thơm với thuế 0% nằm trong tay các doanh nghiệp có vùng nguyên liệu lớn, được canh tác theo tiêu chuẩn cao như Lộc Trời, Tân Long, Trung An…

Trong những năm qua, một trong những nguyên nhân cản trở đà tăng trưởng xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường EU là bởi thuế suất EU áp lên gạo nhập khẩu từ Việt Nam khá cao.

Đồng thời, Việt Nam chưa được EU dành hạn ngạch thuế quan nên rất khó cạnh tranh với gạo của các nước khác như Thái Lan, Mỹ, Australia, Ấn Độ, Pakistan được phân bổ lượng hạn ngạch thuế quan và các nước kém phát triển như Lào, Campuchia, Myanmar được miễn thuế và không bị áp dụng hạn ngạch.

Tuy nhiên, theo cam kết từ EVFTA, EU dành cho Việt Nam hạn ngạch 80.000 tấn gạo mỗi năm (gồm 30.000 tấn gạo xay xát, 20.000 tấn gạo chưa xay xát và 30.000 tấn gạo thơm).

Ngoài ra, EU sẽ tự do hóa hoàn toàn đối với gạo tấm (cam kết này giúp Việt Nam có thể xuất khẩu ước khoảng 100.000 tấn vào EU hàng năm). Đối với sản phẩm từ gạo, EU sẽ đưa thuế suất về 0% sau 3 – 5 năm.

Điều mà Cục Xuất nhập khẩu lo ngại là dịch bệnh và giá cước vận tải biển tăng cao có thể kìm hãm tăng trưởng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang EU trong năm 2022.

Nguồn: Xuân Hiền – Tạp chí Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam

Xuất khẩu rau quả đón tin vui đầu năm

Xuất khẩu rau quả đón tin vui đầu năm

 

Nhiều xe nông sản ở cửa khẩu với Trung Quốc đã được thông quan sớm hơn dự kiến giúp ngành rau quả tự tin với mục tiêu xuất khẩu 4 tỉ USD.

Ngày 5-2, tức mùng 5 Tết, thông tin từ Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho hay nhiều xe container chở chuối, thanh long,… đã được xuất khẩu sang Trung Quốc từ mùng 3 Tết. Đây là tin vui cho ngành rau quả Việt Nam bởi trước đó phía Trung Quốc thông báo sẽ nghỉ Tết dài ngày, khiến giao thương ách tắc.

Trung Quốc là thị trường lớn nhất của ngành rau quả Việt Nam, chiếm đến 53,7% thị phần trong năm 2021, tương đương hơn 1,9 tỉ USD giá trị. Từ năm 2019 kể về trước, Trung Quốc từng chiếm hơn 70% thị phần rau quả xuất khẩu của Việt Nam.

Sơ chế chuối xuất khẩu đầu năm 2022 – Ảnh: NGỌC ÁNH

Theo ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, thông lệ hằng năm vào mùa Xuân, giá trái cây sẽ ở mức cao do Trung Quốc vẫn còn mùa lạnh, hàng nội địa ít nên cần nhập khẩu trái cây số lượng lớn. Thống kê sơ bộ tháng 1-2022, xuất khẩu rau quả của Việt Nam đạt gần 301 triệu USD tăng 0,3% với tháng 12-2021, tháng cao điểm xuất khẩu của năm. 

Ông Nguyễn Thanh Bình, Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam, nhấn mạnh Trung Quốc là thị trường truyền thống của ngành. Rau quả Việt Nam xuất sang Trung Quốc có lợi thế là thị trường gần nhưng 2 năm nay giá trị xuất khẩu lại giảm. Do đó, các doanh nghiệp cần quan tâm hơn đến thị trường này để tránh bị mất thị phần vào Thái Lan, Lào, Campuchia, Malaysia,… bằng cách nghiên cứu sâu hơn về thị trường Trung Quốc để có giải pháp thích ứng phù hợp. Đồng thời, cần đẩy mạnh xuất khẩu chính ngạch, nâng cao năng lực để đáp ứng các quy định mới về nhập khẩu nông sản thực phẩm của họ.

Cũng theo Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam, năm 2021 dù rất nhiều khó khăn nhưng ngành rau quả đã đạt giá trị xuất khẩu 3,551 tỉ USD, tăng 8,6% so với cùng kỳ 2020 cho thấy sự nỗ lực rất lớn của toàn ngành. Do đó, năm nay, nếu tốc độ tăng trưởng xuất khẩu được giữ vững thì mục tiêu xuất khẩu 3,8-4 tỉ USD có thể thành hiện thực.

Nguồn: NGỌC ÁNH (NLĐ) – Tạp chí Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam

Thực hành nông nghiệp thông minh giúp nâng cao hiệu quả sản xuất 15-20%

Thực hành nông nghiệp thông minh giúp nâng cao hiệu quả sản xuất 15-20%

Ngày 20/12, Bộ NN&PTNT tổ chức Hội thảo trực tuyến tổng kết hợp phần 3 (Hỗ trợ thực hành nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu) thuộc Dự án Cải thiện nông nghiệp có tưới (WB7).

Hội thảo trực tuyến tổng kết hợp phần 3 Dự án WB7. Ảnh VGP/Đỗ Hương

Dự án WB7 gồm 4 hợp phần: Hỗ trợ cải thiện quản lý tưới; Nâng cấp cơ sở hạ tầng hệ thống tưới; Hỗ trợ thực hành nông nghiệp thông minh thích ứng biến đổi khí hậu và Quản lý dự án và giám sát, đánh giá, đào tạo.

Tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Quốc Doanh cho biết, trong bối cảnh chịu nhiều rủi ro, tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và dịch bệnh, ngành nông nghiệp vẫn luôn phải đảm bảo các mục tiêu quốc gia liên quan đến an ninh lương thực, tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo và ổn định xã hội. Để thực hiện các mục tiêu này, Bộ NN&PTNT đã đề xuất Dự án WB7 và được Ngân hàng Thế giới hỗ trợ với tổng kinh phí là 210 triệu USD, trong đó có 180 triệu là vốn vay ODA và 30 triệu là vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam.

Triển khai từ năm 2014, Dự án WB7 góp phần cải thiện dịch vụ tưới, tiêu cho hơn 93.000 ha canh tác thuộc 7 tỉnh, thành phố (Hà Giang, Phú Thọ, Hòa Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Trị và Quảng Nam). Số người được hưởng lợi trực tiếp từ Dự án là hơn 245.000 hộ nông dân. Hệ thống các công trình thủy lợi của 7 tỉnh đã được nâng cấp và đáp ứng các công nghệ mới nhất.

Dự án cũng đã xây dựng 49 mô hình thực hành nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu, gồm: 14 mô hình chuyên canh lúa và lúa – màu; 12 mô hình sản xuất rau – màu; 5 mô hình trồng chuyên rau; 12 mô hình trồng cây ăn quả; 3 mô hình cây công nghiệp dài ngày (chè và hồ tiêu); hỗ trợ 3 trung tâm giống cây trồng.

Cây trồng canh tác tại 49 mô hình thực hành là các giống cây trồng chủ lực, có giá trị về an ninh lương thực và hàng hóa đặc hữu tại từng địa phương như lúa, các loại rau màu, cây ăn quả và cây lâu năm khác.

Cùng với sự đồng thuận tham gia của người dân, Dự án đã giúp nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất từ 15% đến 20% so với phương thức canh tác truyền thống, qua đó thu nhập của các hộ nông dân đã được cải thiện rõ rệt.

Những kết quả đạt được của dự án đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công Đề án Tái cơ cấu nông nghiệp cũng như Chiến lược Phát triển thủy lợi đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050.

“Bộ NN-PTNT đánh giá cao những nỗ lực của các cơ quan chuyên môn, Ban Quản lý Dự án các cấp và chính quyền địa phương của 7 tỉnh, vùng Dự án đã tích cực phối hợp với nhà tài trợ thực hiện thành công Dự án trong thời gian qua”, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh đánh giá.

Thứ trưởng Lê Quốc Doanh cũng nhấn mạnh, thông qua việc đánh giá toàn bộ kết quả Dự án, đặc biệt đánh giá những bài học kinh nghiệm, Bộ NN-PTNT sẽ cùng với các nhà tài trợ xây dựng các dự án nhân rộng gói kỹ thuật nông nghiệp thông minh. Đây cũng là sự mong đợi của nông dân các địa phương cũng như mong muốn của Bộ NN-PTNT cũng như các nhà tài trợ trong thời gian tới.  

Nguồn: V.A (tổng hợp) – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Ngành nông nghiệp cần thay đổi để thích ứng với biến đổi khí hậu

Ngành nông nghiệp cần thay đổi để thích ứng với biến đổi khí hậu

Trong năm 2021, thiên tai không dồn dập, khốc liệt như năm 2020 nhưng cũng đã xảy ra 18/22 loại hình thiên tai với 9 cơn bão, 3 áp thấp nhiệt đới trên biển Đông; 326 trận dông, lốc, mưa lớn; 139 trận động đất; 170 trận lũ, lũ quét, sạt lở đất.

Đồng thời, dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp và kéo dài từ cuối năm 2019, nhiều địa phương phải thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16. Dịch bệnh đã tác động đến hầu hết các hoạt động kinh tế xã hội, trong đó ảnh hưởng lớn đến công tác phòng, chống thiên tai.

Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp rất dễ bị tổn thương trước thiên tai. Hàng năm thiên tai đều gây ảnh hưởng, thiệt hại lớn trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên thiệt hại đó cũng một phần đến từ việc lập kế hoạch chưa tốt, chưa có phương án phòng chống, thích ứng với thiên tai.

Thiên tai ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp. Ảnh Minh Họa 

Cũng theo báo cáo của các địa phương, thiên tai năm 2021 đã làm 108 người chết, mất tích, trên 306 nhà bị sập đổ; gần 9.000 nhà bị hư hỏng, tốc mái. Tổng thiệt hại kinh tế ước tính trên 5.200 tỷ đồng, trong đó lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn bị thiệt hại nặng nề.

Cụ thể, diện tích sản xuất lúa bị ảnh hưởng là trên 94.000 ha, trong đó khoảng 2.648 ha bị thiệt hại trên 70%. Diện tích cây rau màu khác bị ảnh hưởng khoảng là 40.000 ha, trong đó diện tích bị thiệt hại trên 70% khoảng 7.800 ha. Diện tích cây công nghiệp, cây ăn quả bị ảnh hưởng khoảng là 12.500 ha, trong đó có khoảng 200 ha bị thiệt hại trên 70%.

Thiên tai đã làm thiệt hại trên 1.280 ha rừng. Hơn 94.000 tàu thuyền đánh bắt cá trên biển thường xuyên bị ảnh hưởng bởi gió bão, gió mạnh. Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản bị ảnh hưởng và thiệt hại là 3.670ha, trong đó trên 1.300 ha bị thiệt hại hoàn toàn; 130 tàu thuyền bị hư hại.

Cũng do ảnh hưởng của thiên tai làm hơn 6.962 con gia súc và 368.000 con gia cầm bị chết, cuốn trôi. Khoảng 10,4 km đê cấp IV trở xuống bị sự cố; 11,4km kè bị hư hỏng; 67 km bờ sông, bờ biển bị thiệt hại; 271 km kênh mương bị sạt, trôi, bồi lấp; 12 trạm bơm, 101 cống và 75 công trình thủy lợi khác bị hư hỏng; 174 hồ chứa nhỏ bị thiệt hại; 6 công trình cấp nước bị hư hại.

Trước tình hình nền kinh tế nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng bị ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai, trong năm 2021, Tổng cục Phòng, chống thiên tai đã phối hợp cùng các đơn vị và các địa phương rà soát, thống kê đầy đủ thiệt hại, hỗ trợ kịp thời cho người dân theo quy định tại Nghị định số 02 của Chính phủ.

Ngoài ra, các đơn vị cũng đã hỗ trợ 97.000 liều vacxin phòng Covid-19, 87.000 lít và 113 tấn hóa chất phòng, chống dịch với tổng giá trị 23,387 tỷ đồng cho 8 tỉnh (Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình, TT.Huế, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Gia Lai).

Đồng thời hỗ trợ 110 tấn giống lúa cho tỉnh Phú Yên và đang lấy ý kiến Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư về hỗ trợ 100 tấn giống lúa, 30 tấn giống Ngô cho Quảng Trị trước khi trình Thủ tướng Chính phủ.

Cùng với đó, hướng dẫn người dân khôi phục sản xuất, vệ sinh môi trường, chuẩn bị ao đầm, chuồng trại, khôi phục sản xuất. Khắc phục khẩn cấp các công trình đê điều, chống sạt lở bị thiệt hại do bão, mưa lũ. Khôi phục công trình thủy lợi nội đồng bị hư hỏng, bảo đảm việc phân phối, tưới nước mặt ruộng. Tổ chức nạo vét khẩn cấp các cửa lấy nước, hệ thống kênh mương bị bồi lấp.

Về lâu dài, để có thể sản xuất nông nghiệp thích ứng với thiên tai, giảm thiểu thiệt hại hàng năm do thiên tai gây ra, Ban Chỉ đạo quốc gia về Phòng, chống thiên tai cũng như các Bộ ngành, địa phương cần nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu sản xuất, giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao phù hợp với điều kiện tự nhiên và đặc điểm thiên tai từng vùng, miền, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Theo đó, đầu tư củng cố, nâng cấp, hoàn thiện hệ thống đê điều, hồ đập bảo đảm chủ động phòng, chống lũ, bão theo mức thiết kế. Bổ sung, nâng cấp hệ thống trữ nước, tiêu thoát nước, phòng chống ngập úng; công trình kiểm soát nguồn nước phòng chống hạn hán, xâm nhập mặn. Xây dựng, củng cố công trình phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển.

Tiếp tục xây dựng, nâng cấp khu neo đậu tàu, thuyền tránh trú bão theo quy hoạch được phê duyệt, gắn kết với dịch vụ hậu cần, thông tin nghề cá, bao gồm cả các khu vực hải đảo. Xây dựng quy hoạch phòng chống thiên tai và thủy lợi gắn với quy hoạch sử dụng đất và phù hợp với phát triển kinh tế, xã hội, diễn biến thiên tai, sử dụng nước thượng nguồn, biến đổi khí hậu, nước biển dâng.

Nguồn: Xuân Hiền (T/h) – Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ

Phát triển thương mại gắn với đa dạng sinh học có thể hỗ trợ phục hồi COVID-19 như thế nào?

Không cảnh rừng nhiệt đới đang bị xóa bỏ để trồng dầu cọ và cao su / © whitcomberd

Một kêu gọi hành động mới nhằm giúp các quốc gia biến BioTrade trở thành đòn bẩy giúp phục hồi và thích ứng trước đại dịch.

Đầu tiên, Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu dành riêng cho đa dạng sinh học được tổ chức vào ngày 30 tháng 9, lãnh đạo các quốc gia khác nhau cho biết đại dịch COVID-19 là cơ hội để các quốc gia đặt các kế hoạch hành động đầy tham vọng vào trọng tâm của các chiến lược phục hồi kinh tế hậu Corona.

Một trong những công cụ được các quốc gia sử dụng là Thương mại sinh học (BioTrade) – khái niệm về thu hái, sản xuất, chuyển đổi và thương mại hóa hàng hóa và dịch vụ có nguồn gốc từ đa dạng sinh học theo các Nguyên tắc và Tiêu chí của BioTrade , một bộ hướng dẫn nhấn mạnh tính bền vững về môi trường, xã hội và kinh tế.

Các thành viên của Ban chỉ đạo về BioTrade của UNCTAD đã đưa ra lời kêu gọi hành động hướng tới các quốc gia nhằm xúc tiến BioTrade để phục hồi kinh tế tốt hơn sau đại dịch, bởi việc bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học có thể tạo ra việc làm và tăng trưởng kinh tế đồng thời bảo vệ môi trường toàn cầu.

“Liên kết thương mại, đa dạng sinh học và phát triển bền vững là một con đường bắt buộc hướng tới nâng cao khả năng phục hồi  và thích ứng của cộng đồng, khu vực tư nhân và cuối cùng là cấp quốc gia trong các nỗ lực phục hồi sau COVID-19”, Lorena Jaramillo, quan chức kinh tế của UNCTAD cho biết.

BioTrade để phục hồi và thích ứng

Sáng kiến Thương mại Sinh học của UNCTAD là một trong những biện pháp thúc đẩy thương mại hợp pháp, bền vững và truy xuất nguồn gốc đối với hàng hóa và dịch vụ dựa trên đa dạng sinh học phù hợp với các mục tiêu của Công ước về Đa dạng sinh học (CBD) và Công ước về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES).

Các đối tác của BioTrade và các tác nhân khác đã kêu gọi các quốc gia thúc đẩy mối quan hệ cân bằng giữa các chính sách phục hồi kinh tế sau COVID-19 và các khía cạnh khác nhau của phát triển bền vững.

“Chúng tôi kêu gọi điều này được thực hiện thông qua bảo tồn, tái sinh, sử dụng bền vững đa dạng sinh học và xây dựng các lợi ích kinh tế xã hội và sinh kế, đặc biệt là ở các cộng đồng nông thôn” trích dẫn một phần tuyên bố chung của họ.

Theo các bên ký kết, điều này sẽ góp phần xây dựng một tương lai tốt đẹp, lành mạnh và bền vững hơn cho tất cả mọi người: quốc gia, doanh nghiệp, cộng đồng và người dân.

Các bên nhấn mạnh rằng việc sử dụng bền vững đa dạng sinh học và buôn bán các sản phẩm và dịch vụ có nguồn gốc từ đó có mối liên hệ chặt chẽ với việc xây dựng sinh kế bền vững.

“Đa dạng sinh học là nguồn an ninh lương thực chính và thu nhập hộ gia đình, đảm bảo sinh kế của người bản địa và cộng đồng nông thôn. Đây cũng là trung tâm của các công ty dựa trên đa dạng sinh học”.

Tránh các đại dịch trong tương lai, tăng cường hành động

Tuyên bố lưu ý rằng “thương mại các sản phẩm và dịch vụ có nguồn gốc thân thiện với đa dạng sinh học là một yếu tố cần thiết để giảm nguy cơ xuất hiện và lây lan của bệnh cúm động vật và do đó là nguy cơ đại dịch trong tương lai ở thế giới hậu COVID-19”.

Tuyên bố kêu gọi các quốc gia tăng cường các hành động để đạt được các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc , các mục tiêu của khuôn khổ đa dạng sinh học toàn cầu sau năm 2020 và Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu.

Các quốc gia nên thúc đẩy thương mại bền vững các sản phẩm và dịch vụ dựa trên đa dạng sinh học theo các chương trình chia sẻ lợi ích công bằng và bình đẳng, theo tuyên bố.

Các thành viên nêu rõ rằng các biện pháp khuyến khích kinh tế đối với bảo tồn, phục hồi và sử dụng bền vững đa dạng sinh học, chẳng hạn như BioTrade, có vai trò quan trọng trong giai đoạn phục hồi sau COVID-19.

Các sáng kiến như vậy có thể trực tiếp góp phần hạn chế và ngăn chặn mất đa dạng sinh học, phá rừng và chuyển đổi môi trường sống, các hoạt động gây ô nhiễm và buôn bán trái phép động vật hoang dã, họ nói.

Các thành viên tái khẳng định rằng các Nguyên tắc và Tiêu chí Thương mại Sinh học năm 2020 của UNCTAD cũng như các công cụ và tiêu chuẩn liên quan có thể giúp các quốc gia phát triển các ngành và doanh nghiệp bền vững dựa trên đa dạng sinh học, đồng thời chuyển hướng sang phát triển kinh tế địa phương thông qua thương mại bền vững.

Nguồn: UNCTAD

Giá tiêu xuất khẩu năm 2022 được dự báo sẽ tiếp tục giữ ở mức cao

Giá tiêu xuất khẩu năm 2022 được dự báo sẽ tiếp tục giữ ở mức cao

Theo thông tin từ Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), trong năm 2021, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam ước đạt 261 nghìn tấn, trị giá 938 triệu USD, giảm 8,5% về lượng, nhưng tăng 42% về trị giá so với năm 2020. Tính chung cả năm 2021, giá xuất khẩu bình quân hạt tiêu của Việt Nam ước đạt 3.593 USD/tấn, tăng 55,2% so với cùng kỳ năm 2020.

Tín hiệu vui mừng cho người trồng tiêu

Theo đó, trong năm 2021 vừa qua, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam có sự chuyển dịch về cơ cấu thị trường. Tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng sang các thị trường Hoa Kỳ, EU, Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất, Pakistan tăng, trong khi tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, ASEAN giảm.

Đặc biệt, trong 11 tháng năm 2021, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam sang nhiều thị trường tăng cả về lượng và trị giá, gồm: Hoa Kỳ, Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất, Đức, Pakistan, Hà Lan, Hàn Quốc, Anh. Đáng chú ý, lượng hạt tiêu xuất khẩu sang thị trường Hà Lan tăng tới 52,7%, đạt 3,17 nghìn tấn.

Bên cạnh đó, nhiều thị trường tăng mua hạt tiêu trắng của nước ta như Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ, Tây Ban Nha. Đưa tổng sản lượng xuất khẩu hạt tiêu trắng 11 tháng năm 2021 đạt 21,2 nghìn tấn, trị giá 106,23 triệu USD, tăng 2,3% về lượng và tăng 58,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020.

Xuất khẩu hạt tiêu năm 2021 ước đạt 938 triệu USD

Số liệu thống kê từ Cơ quan Hải quan Trung Quốc cho biết, kim ngạch nhập khẩu hạt tiêu của nước này trong tháng 10/2021 đạt 4,79 triệu USD, giảm 1,3% so với tháng 10/2020. Mặc dù Trung Quốc giảm mua tiêu từ Indonesia và Malaysia giảm, nhưng tăng mua từ Việt Nam, Brazil và Ấn Độ.

Được biết, trong 10 tháng năm 2021, Trung Quốc chi 14,54 triệu USD thu mua hạt tiêu từ Việt Nam, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2020. Thị phần hạt tiêu của Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Trung Quốc tăng từ 25,85% trong 10 tháng năm 2020, lên 31,76% trong 10 tháng năm 2021.

Tín hiệu đáng mừng đối với ngành tiêu, đó là những năm gần đây cơ cấu chủng loại hạt tiêu xuất khẩu có sự thay đổi khá lớn.

Các doanh nghiệp đã giảm xuất khẩu hạt tiêu thô, thay vào đó là đẩy mạnh bán các chủng loại đã qua sơ chế hoặc chế biến chuyên sâu; đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm nhằm phục vụ cho ngành sản xuất mỹ phẩm…

Bước sang năm 2022 này, Cục Xuất nhập khẩu dự báo, giá tiêu xuất khẩu sẽ tiếp tục giữ ở mức cao. Ngành hạt tiêu tiếp tục khai thác các thị trường xuất khẩu truyền thống như Hoa Kỳ, EU, Các tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất.

Tại Hoa Kỳ, thị trường xuất khẩu hạt tiêu lớn nhất của Việt Nam, tình hình kinh tế có tín hiệu phục hồi sẽ kéo theo nhu cầu tiêu thụ hạt tiêu tăng.

Trong khi đó, hạt tiêu của Việt Nam đã tạo được chỗ đứng khá vững chắc tại thị trường Hoa Kỳ. Lợi thế cạnh tranh mặt hàng hạt tiêu của Việt Nam so với các thị trường xuất khẩu khác khá lớn.

Không ngừng nâng cao chất lượng, giữ vững thương hiệu, mở rộng thị trường

Nhận định về cơ cấu chuyển dịch của hạt tiêu Việt Nam, Cục Xuất nhập khẩu cho rằng, năm 2021, hạt tiêu của Việt Nam có sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu. Dẫn số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong nửa đầu năm 2021, xuất khẩu hạt tiêu đen và hạt tiêu trắng giảm về lượng, nhưng tăng mạnh về trị giá, trong khi xuất khẩu hạt tiêu đen xay và hạt tiêu trắng xay tăng mạnh cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2020.

Việc thay đổi tư duy, trồng tiêu theo hướng hữu cơ, chủ động tìm đầu ra cho sản phẩm đã giúp hạt tiêu của Việt Nam chinh phục được thị trường trong và ngoài nước với giá thành cao hơn.

Tuy nhiên, cơ quan này cũng dự báo, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam sẽ đối mặt với khó khăn trong những tháng cuối năm. Xuất khẩu hạt tiêu sang các thị trường chính có xu hướng chậm lại hoặc giảm mạnh. Hiện, lượng hạt tiêu còn lại trong dân không nhiều, trong khi doanh nghiệp xuất khẩu cũng không mấy “mặn mà” do giá cước phí vận chuyển tăng “phi mã” và các biện pháp phòng chống dịch bệnh tại nhiều địa phương rất nghiêm ngặt.

“Xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam trong 1-2 tháng tới có nhiều hạn chế do ảnh hưởng của dịch COVID-19, trong khi tình trạng ùn ứ tại các cảng biển phía nam cùng giá cước tàu biển vẫn duy trì ở mức cao sẽ là trở ngại đối với xuất khẩu hạt tiêu. Giá hạt tiêu cũng được nhận định khó có thể tăng mạnh do nguồn cung cải thiện khi Indonesia, Malaysia và Brazil bước vào vụ thu hoạch trong tháng 8 và tháng 9”, đại diện Cục Xuất nhập khẩu nhận định.

Do đó, để có ưu thế cạnh tranh trên thị trường gia vị và hương liệu trên thế giới, sau khi Việt Nam kiểm soát được dịch bệnh, các địa phương và doanh nghiệp cần có kế hoạch khôi phục sản xuất, ứng dụng các công nghệ tiên tiến phục vụ chế biến, phát triển đa dạng loại hình sản phẩm, tận dụng ưu đãi từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã tham gia gần đây để thúc đẩy xuất khẩu. 

Bộ NNPTNT kiểm tra tình hình trồng tiêu ở tỉnh Đắk Nông.

Về phía các Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài, ông Bùi Trung Thướng, Tham tán Thương mại Việt Nam tại Ấn Độ cho biết, sản lượng gia vị của Ấn Độ đạt khoảng 3 triệu tấn mỗi năm. Gia vị cũng là sản phẩm xuất khẩu tỷ đô của nước này. Ấn Độ cũng nhập khẩu nhiều gia vị, trong đó có hồ tiêu. Ấn Độ nhập khẩu hạt tiêu từ Việt Nam khoảng 25-30 triệu USD/năm.

Do đó, để gia vị, hương liệu của Việt Nam xuất khẩu thành công sang Ấn Độ, ông Bùi Trung Thướng khuyến nghị, các doanh nghiệp cần áp dụng khoa học công nghệ hoặc nghiên cứu phát triển sản phẩm, ví dụ nhiều loại nguyên liệu gia vị trộn thành 1 loại gia vị với hương vị đặc trưng. Đồng thời, doanh nghiệp cũng cần tìm hiểu hương vị của các nước để làm ra sản phẩm đáp ứng được thị hiếu của thị trường này, tạo sự cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các nước khác…

Phụ trách Thương vụ Việt Nam tại Saudi Arabia lưu ý thêm cho các doanh nghiệp, vật liệu đóng gói chính cho các loại thảo mộc, gia vị và gia vị ở Saudi Arabia nên là thủy tinh, bao bì linh hoạt, giấy và bìa, nhựa cứng và các loại khác. Các thùng đóng gói có nhiều loại khác nhau như lọ, chai, túi, gói, bồn, hộp, túi và ống.

Đối với thị trường châu Âu, ông Phạm Văn Hiển, Giám đốc Công ty LTP Import Export B.V Hà Lan chia sẻ, để gia vị Việt thâm nhập vào thị trường châu Âu, các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ thị trường khối này. Nếu các công ty chưa có phòng nghiên cứu thị trường thì có thể tham gia hội chợ như Anuga của Đức để quảng bá sản phẩm, tham khảo thông tin trên trang website của các hiệp hội, ngành nghề châu Âu.

Nguồn: Xuân Hiền – Tạp chí Nông nghiệp Hữu cơ

Tháo gỡ vướng mắc trong cấp phép, kiểm tra chất lượng lĩnh vực nông nghiệp

Tháo gỡ vướng mắc trong cấp phép, kiểm tra chất lượng lĩnh vực nông nghiệp

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết về việc tháo gỡ vướng mắc liên quan đến cấp giấy phép, giấy chứng nhận, kiểm tra chất lượng trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn do phải thực hiện quy định về phòng, chống dịch Covid-19.

Tháo gỡ vướng mắc liên quan đến cấp giấy phép, giấy chứng nhận, kiểm tra chất lượng trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Ảnh minh họa.

Nghị quyết 165/NQ-CP ngày 30/12/2021 của Chính phủ nêu rõ, cho phép áp dụng biện pháp sau đây để tháo gỡ vướng mắc trong thực hiện kiểm tra, đánh giá, giám sát, thẩm định, lấy mẫu, phân tích… (sau đây gọi chung là đánh giá) trực tiếp tại hiện trường để cấp giấy phép, giấy chứng nhận, quyết định, văn bản chấp thuận (sau đây gọi chung là giấy phép) hoặc đánh giá định kỳ, kiểm tra chất lượng trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn do phải áp dụng quy định về phòng, chống dịch Covid-19.

Một là, áp dụng hình thức đánh giá trực tuyến trong trường hợp cơ sở sản xuất, kinh doanh, tổ chức đánh giá sự phù hợp, cơ quan cấp phép đáp ứng yêu cầu về nguồn lực, phương tiện kỹ thuật thực hiện (máy tính, đường truyền internet, ứng dụng phần mềm, máy ghi âm, ghi hình…);

Hoặc kéo dài thời hạn giấy phép 6 tháng (đối với giấy phép có thời hạn), tạm hoãn tối đa 6 tháng hoạt động đánh giá giám sát định kỳ; hoặc thực hiện cấp phép tạm thời tối đa 6 tháng, kiểm tra chất lượng nhập khẩu trên cơ sở xem xét hồ sơ đầy đủ, hợp lệ mà không phải tổ chức đánh giá trực tiếp tại hiện trường.

Hai là, cơ sở sản xuất, kinh doanh; tổ chức đánh giá sự phù hợp chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác của thông tin, tài liệu, hình ảnh, hồ sơ cung cấp cho cơ quan cấp phép.

Việc đánh giá trực tiếp tại hiện trường sẽ được thực hiện sau khi các địa phương kiểm soát được dịch bệnh theo quy định về phòng, chống dịch Covid-19; thực hiện thu hồi ngay giấy phép đối với trường hợp tổ chức, cá nhân vi phạm quy định pháp luật và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật.

Ba là, căn cứ điều kiện thực tế và đặc thù quản lý của từng lĩnh vực, Bộ NN-PTNT hướng dẫn các biện pháp nêu trên đảm bảo hoạt động sản xuất, kinh doanh của tổ chức, cá nhân không bị đình trệ, gián đoạn, đồng thời bảo đảm công tác quản lý nhà nước; phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan thanh tra, kiểm tra, phát hiện và kịp thời xử lý vi phạm, bảo đảm hiệu quả công tác quản lý nhà nước.

Nguồn: Mai Chiến – Tạp chí Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam

Nông sản chờ thị trường nội địa

Nông sản chờ thị trường nội địa

Mặc dù, ngành nông nghiệp có những tăng trưởng ấn tượng trong năm 2021, nhưng do ảnh hưởng của dịch Covid-19 đã tác động không nhỏ đến xuất nhập khẩu nông sản.

Trung Quốc vẫn là thị trường quan trọng

Ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN-PTNT) chia sẻ, hiện nhiều nông sản đang vào vụ, có nhu cầu tiêu thụ lớn. Song, các chính sách giám sát Covid-19 của Trung Quốc ngày càng tăng cường, duy trì chế độ “Zero Covid”, trong khi Việt Nam lại chủ trương sống chung với dịch.

“Những vấn đề ở biên giới đặt ra yêu cầu về việc chế biến nông, lâm, thủy sản của Việt Nam phải thay đổi, nhất là khi Tết Nguyên đán đang đến gần”, ông Hòa nói.

Người dân Thủ đô “giải cứu” mít cho chủ xe, do không xuất hàng sang phía nước bạn được.

Theo ông Hòa, một số mặt hàng như thủy sản, rau quả bảo quản lạnh sẽ được Trung Quốc giám sát chặt chẽ. Đây là một trong những nguyên nhân chính khiến năng lực thông quan tại cửa khẩu giảm khoảng một nửa thời gian qua.

Nhằm giải quyết các vấn đề ùn tắc nông sản, ngành nông nghiệp đã tổ chức nhiều đoàn thanh tra, kiểm tra, giám sát tình hình lưu thông, xuất nhập khẩu nông sản cả ở cửa khẩu, lẫn các địa phương.

Dù nhiều Bộ, ban, ngành vào cuộc quyết liệt, nhiều địa phương chưa kịp điều tiết hàng hóa. Tình trạng này dẫn đến việc nhiều xe chở nông sản lên biên giới đã quay đầu trở lại các đô thị lớn như Hà Nội.

“Chúng ta cần định hướng tập trung tiêu thụ tốt các sản phẩm đang vào mùa vụ. Những doanh nghiệp có khả năng chế biến sâu, hoặc có công nghệ bảo quản cần tham gia vào quá trình này, tránh tình trạng để giá nông sản giảm sâu”, ông Hòa nhấn mạnh.

Ông Hòa cho biết thêm, bất chấp những khó khăn về thông quan, điểm sáng của nông sản là giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc vẫn đạt khoảng 1,7 tỷ USD; chứng tỏ Trung Quốc vẫn là một thị trường quan trọng đối với Việt Nam.

Từ ngày 1/1/2022, Trung Quốc áp dụng Lệnh 248, Lệnh 249, và chủ trương quản lý chặt kinh tế biên mậu, và thúc đẩy việc xuất nhập khẩu chính ngạch. Ông Hòa nhận định, đây là vấn đề mà các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng Việt Nam cần lưu ý, bên cạnh cải tiến, nâng cao quy trình sản xuất để đảm bảo chất lượng sản phẩm, đảm bảo khả năng có thể tham gia vào các chuỗi siêu thị lớn của Trung Quốc.

Chuyển sang tiêu thụ nội địa

Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Lạng Sơn Đinh Thị Thu cho hay, lượng xuất khẩu tại các cửa khẩu của tỉnh hiện nay chỉ vào khoảng dưới 100 xe/ngày/cửa khẩu và đa số là sản phẩm khô chứ rất ít hoa quả tươi.

Theo bà Thu, tổng lượng xe ùn tắc tại Lạng Sơn hiện nay vào khoảng 2.900 xe, đang giảm dần, nhưng nguyên nhân chính là do nhiều xe quay đầu về tiêu thụ nội địa; đặc biệt là sau khi Bằng Tường thông báo ngừng nhập khẩu thanh long từ 0h 29/12 – 24h 26/1/2022.

Hiện nay, tại cửa khẩu biên giới Lạng Sơn vẫn còn ùn tắc hơn 2.000 xe.

Thời gian qua, Lạng Sơn đã có nhiều chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp, lái xe đường dài đang bị ùn tắc tại cửa khẩu như giảm phí dịch vụ, điều trị miễn phí nếu tài xế mắc Covid-19. Bên cạnh đó, tỉnh cũng thường xuyên củng cố, tăng cường quan hệ, thông tin với các địa phương phía Trung Quốc để hỗ trợ thông quan nông sản.

Theo bà Đinh Thị Thu, trong thời gian tới việc xuất khẩu nông sản dự kiến sẽ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là dịp Tết Nhâm Dần đang đến gần.

“Phía Trung Quốc sẽ tạm dừng nhập khẩu hàng hóa trên container lạnh trong 28 ngày của dịp Tết Nhâm Dần, trong đó 14 ngày trước Tết và 14 ngày sau Tết”, bà Thu cho biết thêm.

Trước tình hình đó, bà Thu kiến nghị các đơn vị cấp trên cần tổ chức thêm các cuộc hội đàm cấp cao để thông quan nốt 2.900 xe đang còn ùn tắc trước Tết Nguyên đán.

Bên cạnh đó, đại diện ngành nông nghiệp Lạng Sơn cũng đề nghị các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng có phương án đẩy mạnh chế biến, tiêu thụ nội địa trong tình hình xuất khẩu đang gặp khó khăn hiện nay.

Doanh nghiệp sẵn sàng “ứng cứu” nông sản

Ông Đinh Cao Khuê, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thực phẩm Xuất khẩu Đồng Giao (Doveco) thông tin, hiện nay Công ty đang tiêu thụ số lượng lớn sản phẩm nông sản bị ách tắc tại biên giới.

Cụ thể, mỗi ngày Công ty tiêu thụ khoảng 100 – 150 tấn sản phẩm nông sản các loại, đặc biệt là sản phẩm xoài. Thời gian qua, Công ty cũng đã kếp hợp với Đồng Tháp, Tiền Giang để có nguồn cung phục vụ chế biến nông sản.

“Hiện nay chúng tôi vẫn chế biến xoài với số lượng lớn. Nếu các đơn vị có sản phẩm xoài, dứa, chanh leo hay chuối gặp khó khăn trên cửa khẩu, Công ty sẵn sàng hỗ trợ tiêu thụ”, ông Đinh Cao Khuê cho biết.

Bà Nguyễn Phương Hồng, Giám đốc kế hoạch chuỗi cung ứng tập đoàn Nafoods Group cho biết, công ty có nhiều nhà máy sản xuất, chế biến ở khắp cả nước, với công suất thiết kế 100.000 tấn, tương đương 300.000 tấn nguyên liệu/năm.

Các sản phẩm chính của Nafoods là chanh leo, dứa, xoài, mãng cầu, hạt điều… Thời gian từ giờ đến tết, Nafoods có thể hỗ trợ cho chanh leo và thanh long. Với các sản phẩm tại cửa khẩu phía Bắc sẽ chuyển về Nghệ An, còn phía Nam sẽ đưa về Long An. Sản lượng khoảng 1.000 tấn.

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam bộc bạch, trong điều kiện Trung Quốc hạn chế nhập nông sản, trong đó có những trái cây chủ lực của Việt Nam như thanh long, mít, dưa hấu thì nhiều doanh nghiệp trong nước đã lên tiếng sẵn sàng chế biến, thu mua xe nông sản quay đầu về từ biên giới.

“Qua đây, chúng ta cần nhìn nhận rõ vấn đề là tiềm năng của thị trường nội địa rất lớn. Chúng ta cần tích cực thay đổi tư duy, Chính phủ cũng đã có chủ trương đa thị trường, đa lợi ích”, Thứ trưởng Nam nói.

Nguồn: Mai Chiến – Tạp chí Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam

Bài học từ đại dịch COVID-19: Làm sao để hệ thống nông sản chống chịu tốt hơn trước các cú sốc

Bài học từ đại dịch COVID-19: Làm sao để hệ thống nông sản chống chịu tốt hơn trước các cú sốc

Báo cáo Hiện trạng Nông nghiệp và Thực phẩm Toàn cầu (SOFA) 2021 của Tổ chức Nông Lương Liên hiệp quốc (FAO) mới công bố co thấy sự mong manh của các hệ thống nông sản trên thế giới và đưa ra các giải pháp về cách đối phó với những cú sốc bất ngờ.

Các quốc gia cần phải làm cho hệ thống nông sản kiên cường hơn trước những cú sốc bất ngờ như đã trải qua ​​trong đại dịch COVID-19. Những cú sốc này là tác nhân chính dẫn đến sự gia tăng nạn đói mới nhất trên toàn cầu. Theo báo cáo SOFA 2021, nếu không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng thì những cú sốc khó lường sẽ tiếp tục phá hoại các hệ thống nông sản.

Báo cáo Hiện trạng Nông nghiệp và Thực phẩm Thế giới năm nay có tựa đề “Làm cho các hệ thống nông sản có khả năng chống chịu tốt hơn trước những cú sốc và căng thẳng”. Báo cáo tập trung đánh giá về khả năng của các hệ thống nông sản quốc gia trong việc ứng phó hoặc phục hồi dễ dàng trước các cú sốc và tác nhân gây căng thẳng. Báo cáo cũng cung cấp hướng dẫn cho các Chính phủ về cách cải thiện khả năng phục hồi.

Ngày nay, có khoảng 3 tỷ người trên thế giới không đủ khả năng chi trả cho một chế độ ăn uống lành mạnh. Báo cáo SOFA 2021 ước tính rằng sẽ có thêm 1 tỷ người nữa gia nhập hàng ngũ này nếu một cú sốc khác làm giảm đi 1/3 thu nhập của họ. Hơn nữa, chi phí thực phẩm có thể tăng lên tới 845 triệu người nếu xảy ra đứt gãy các liên kết giao thông quan trọng. SOFA định nghĩa các cú sốc là “sự sai lệch ngắn hạn so với các xu hướng dài hạn có tác động tiêu cực đáng kể đến hệ thống, tình trạng sức khỏe, tài sản, sinh kế, sự an toàn và khả năng chống chọi của con người đối với các cú sốc trong tương lai.” Các ví dụ bao gồm các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt và các đợt dịch bệnh và sâu bệnh hại thực vật và động vật.

Ngay cả trước khi COVID-19 bùng nổ, thế giới vẫn chưa đi đúng hướng để đạt được cam kết chấm dứt nạn đói và suy dinh dưỡng vào năm 2030. Và trong khi chuỗi cung ứng và sản xuất lương thực từ trước đến nay vốn dễ bị ảnh hưởng bởi khí hậu cực đoan, xung đột vũ trang hoặc tăng giá lương thực toàn cầu, tần suất và mức độ nghiêm trọng của những cú sốc như vậy đang gia tăng.

Hành động cụ thể

Hệ thống nông sản thế giới – mạng lưới phức tạp các hoạt động liên quan đến sản xuất lương thực và các sản phẩm nông nghiệp phi lương thực, cũng như bảo quản, chế biến, vận chuyển, phân phối và tiêu thụ, sản xuất ra 11 tỉ tấn lương thực mỗi năm và tạo việc làm cho hàng tỉ người, trực tiếp hay gián tiếp. Sự cấp bách phải tăng cường khả năng chịu đựng của hệ thống nông sản là không thể trì hoãn.

Báo cáo cũng đưa ra các chỉ số cấp quốc gia về khả năng phục hồi của hệ thống nông sản tại hơn 100 quốc gia trên thế giới, bằng cách phân tích các yếu tố như mạng lưới giao thông, dòng chảy thương mại và sự sẵn có của các chế độ ăn uống lành mạnh và đa dạng. Mặc dù các quốc gia thu nhập thấp nhìn chung phải đối mặt với những thách thức lớn hơn nhiều, nhưng báo cáo cho thấy các quốc gia thu nhập trung bình cũng đang gặp rủi ro. Đối với gần một nửa số quốc gia được các chuyên gia FAO phân tích, việc đóng các mạng lưới liên kết giao thông quan trọng sẽ làm tăng thời gian vận chuyển địa phương lên 20% hoặc hơn, do đó làm tăng chi phí và giá thực phẩm cho người tiêu dùng.

Do đó, FAO khuyến nghị các Chính phủ nên coi khả năng phục hồi trong các hệ thống nông sản là một phần chiến lược trong phản ứng đối với những thách thức đang diễn ra và trong tương lai.

Chìa khóa ở đây là đa dạng hóa – nguồn đầu vào, sản xuất, thị trường và chuỗi cung ứng, cũng như các tác nhân – vì sự đa dạng tạo ra nhiều con đường để vượt qua các cú sốc. Hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nông sản vừa và nhỏ, hợp tác xã,… sẽ giúp duy trì sự đa dạng trong chuỗi giá trị nông sản trong nước.

Một yếu tố quan trọng khác là khả năng kết nối. Các mạng lưới nông sản được kết nối tốt sẽ khắc phục sự gián đoạn nhanh hơn bằng cách thay đổi các nguồn cung cấp và các kênh vận chuyển, tiếp thị, đầu vào và lao động.

Cuối cùng, nâng cao năng lực chống chịu của các hộ gia đình dễ bị tổn thương là rất quan trọng để đảm bảo một thế giới không còn nạn đói. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc cải thiện khả năng tiếp cận tài sản, đến các nguồn thu nhập đa dạng và các chương trình bảo trợ xã hội trong trường hợp xảy ra các cú sốc./.

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Copyrights © 2019 VITAD-AGRI All Rights Reserved.

X